Niềm Hy Vọng Theo
Quan Điểm Của Thư Thứ Nhất Phêrô
Dẫn Nhập
Khi đối diện với những nguy khó cuộc sống, con
người thường có khuynh hướng co cụm, buông xuôi và thất vọng. Thấu cảm được nỗi
lòng người tín hữu trước những gian nan, thánh Phêrô đã chiếu vào cuộc đời họ
ánh sáng hy vọng khởi đi từ Thiên Chúa khả dĩ giúp họ có cái nhìn lạc quan và
tín thác để vượt thắng những chướng ngại trên đường đời. Thánh nhân cho biết những
thử thách mà các tín hữu đang đối diện chưa phải là dấu chấm hết, nhưng là cơ hội
giúp họ giúp họ thanh luyện đức tin, kiến tạo lương tâm ngay thẳng hầu xây dựng
cuộc sống chan hoà niềm vui và hạnh phúc. Như vậy, niềm hy vọng mà thánh Phêrô
rót vào cung lòng người tín hữu là cánh cửa mở ra với Thiên Chúa qua cầu nguyện
và lối dẫn tới tha nhân bằng yêu thương phục vụ.
Vậy để phần nào hiểu niềm hy vọng dưới cái
nhìn của Thánh Phêrô, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những điểm sau.
1. Khái Niệm
Dưới cái nhìn của Thánh Kinh Tân Từ Điển thì
chia làm hai khía cạnh:
* Tâm Lý: Hy vọng là điều tất yếu muốn nghĩ về tương lai, ngay cả khi
không có lý do chính đáng để hy vọng.
* Niềm Tin: Niềm hy vọng dựa trên nền tảng Kinh Thánh gắn liền với niềm
tin nơi Thiên Chúa, vì những gì Ngài đã làm trong quá khứ, đặt biệt nơi Đức
Kitô Giêsu, Đấng cứu độ con người. Niềm hy vọng sẽ được vinh hiển trong tương
lai vì có Đức Kitô ở cùng, chia sẽ những thăng trầm cuộc sống và cứu độ cn người.
Bởi đức tin, người Kitô hữu xác tín niềm hy vọng này là có thực và sẽ không bao
giờ làm cho họ thất vọng. Trái lại, giúp họ mạnh mẽ chống lại điều ác, bảo vệ đức
tin và làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu[1].
Theo quan điển của Công Giáo Phổ Thông, niềm
hy vọng được hiểu dưới hai chiều kích khác:
* Nhân Đức: Hy vọng là nhân đức ta có được khi chịu phép Rửa tội; đối tượng
ưu tiên của nhân đức này là có Thiên Chúa ở với mình. Niềm hy vọng dựa vào sự
toàn năng, tốt lành của Chúa và sự trung tín của Người đối với những gì Người
đã hứa. Niềm hy vọng cần thiết cho ơn cứu độ.
* Hành Vi: Hành vi biểu lộ sự mong chờ và tin tưởng sẽ có được Thiên Chúa
trên trời và những ơn cần thiết để đạt đến hạnh phúc đó. Phải thực hiện hành vi
hy vọng khi bị cám dỗ và thất vọng. Mọi việc tốt về mặt siêu nhiên đều giả thiết
phải có niềm hy vọng[2].
Nhìn chung, niềm hy vọng hệ tại việc đặt niềm
tin vào Thiên Chúa và ơn Người cứu độ được thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu. Niềm hy
vọng này giúp người tín hữu vượt qua những thử thách, rèn luyện nhân đức và củng
cố ân sủng Chúa ban.
2. Thiên Chúa- Cội Nguồn
Hy Vọng
Thư thứ nhất Phêrô chỉ cho các tín hữu biết rằng
niềm hy vọng đích thực không thể đến từ cái bất toàn của trần gian. Có chăng,
đó chỉ là sự an ủi giả tạo và chống qua, không có sức giải thoát con người khỏi
những bế tắc cuộc sống. Niềm hy vọng đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa mà thôi,
được thể hiện trong Đức Kitô Giêsu. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cho ta được
tái sinh nhờ cái chết và phục sinh của Đức Kitô, để ta nhận lãnh niềm hy vọng sống
động và mang lại cho cuộc sống một giá trị. Thánh Phêrô viết: “Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái
sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại”
(1, 3).
Như vậy, niềm hy vọng mà người tín hữu nhận
lãnh từ Thiên Chúa sẽ là hành trang giúp họ đứng vững trước những chống đối,
bách hại và cám dỗ. Có Thiên Chúa làm khiên che thuẫn đỡ, người tín hữu luôn an
lòng tiến bước và có khả năng “trả lời
cho bất cứ ai chất vần về niềm hy vọng của mình” (3, 15).
Dĩ nhiên, Thiên Chúa vẫn dành một “khoảng trống” cho sự đáp trả của con người.
Niềm hy vọng này cần được xây dựng trên mối tương quan “song phương” giữa Thiên Chúa và con người, chứ không mang tính áp đặt.
Do đó, để đáp lại tình yêu Thiên Chúa và củng cố niềm hy vọng ngày một vững chắc,
người tín hữu cần có một đời sống cầu nguyện và dấn thân phục vụ tha nhân.
a. Cầu Nguyện
Trong khung trời cầu nguyện, người tín hữu tạo
nên mối giây hiệp thông thân tình với Thiên Chúa. Nhờ đó, họ có thể soi dọi đời
mình trong lăng kính của Chúa, hầu có thể nhận ra những gì là chân thiện mỹ, những
gì đẹp lòng Chúa, cũng như tạo cho mình cuộc sống chừng mực và tiết độ. Thánh
nhân khuyên các tín hữu: “Anh em hãy sống
chừng mực và tiết độ hầu có thể cầu nguyện được” (4, 7). Điều này đống
nghĩa một cuộc sống buông thả không thể đi đôi với cầu nguyện. Một con người
thuộc trọn về Chúa, được nuôi dưỡng bằng ân sủng và Lời của Ngài thì khó trở
thành một con người phóng túng và bị những sự đời lèo lái, mua chuộc. Bởi vì, “Chính Thiên Chúa là nguồn ân sủng, cũng
chính Người kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô…
Chính Thiên Chúa sẽ cho anh em nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên trì”
(5, 10). Dĩ nhiên, thánh nhân cũng không quyên cảnh tỉnh người tín hữu “hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ,
thù địch của anh em, như sư tử gầm thét. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà
chống cự” (5, 8- 9).
Niềm hy vọng chỉ có được từ việc gặp gỡ thân
tình với Thiên Chúa và có khả năng trao ban cho người khác. Do đó, cầu nguyện
không chỉ là chiếc cầu nối kết con người với Thiên Chúa, mà còn là cửa ngõ mở
ra với tha nhân bằng yêu thương phục vụ.
b. Yêu Thương- Phúc Vụ
Có thể nói phục vu tha nhân với tất cả tình
yêu là chiếc cân đo lường mức độ đón nhận ân sủng của mỗi người nơi Thiên Chúa.
Ơn Thiên Chúa ban không phải là “của hồi
môn” hay một kỷ vật để trang trí. Đúng hơn, nó là nén bạc Thiên Chúa muốn
con người làm sinh lời vì lợi ích bản thân và tha nhân, cũng như nhằm tôn vinh Ngài.
Có thế, người tín hữu mới là người quản lý trung tín và tài giỏi các ân huệ của
Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã nói: “Ơn riêng
Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em hãy dung mà phục vụ kẻ khác. Như vậy,
anh em mới là người quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (4,
10).
Tất nhiên, khi bước vào con đường dấn thân phục
vụ, mỗi người cần gác sang một bên những điều mình cần làm vì lợi ích cá nhân để
ưu tiên những gì mang lại lợi ích cho người khác[3].
Chính cuộc sống tràn đầy hy vọng sẽ mang lại cho chúng ta một cái nhìn lạc quan
về người- về đời hầu có thể cảm thông và tha thứ những nỗi yếu hèn của tha nhân.
Bởi vì, người tín hữu chân nhận rằng mình cũng là tội nhân được Thiên Chúa thứ
tha, một lữ khách được người khác cùng đồng hành và chia sẻ.
Như vậy, niềm hy vọng kín múc từ Thiên Chúa là
lối mở giúp người tín hữu bước ra khỏi cái tôi vị kỷ để phục vụ người khác với
tất cả sự tin yêu và chân thành. Đàng khác, nó cũng là chất xúc tác tẩy trừ tội
lỗi (x. 4, 18), tinh luyện đức tin và kiến tạo cuộc sống chan chứa niềm vui.
3. Kiên Trì Trong Thử
Thách
a. Tinh Luyện Đức Tin
Hành trình bước theo Đức Kitô, không Làn cho người
tín hữu hết khổ đau, cám dỗ và thử thách. Tất cả vẫn còn đó và lắm lúc làm cho
cuộc sống người môn đệ chao đảo, buông xuôi. Điều làm cho người tín hữu vững bước
là vì tin rằng Thiên Chúa vẫn có đó khi đời mình cô đơn, Ngài vẫn yêu thương
khi ta lỗi lầm và Ngài hằng nâng đỡ khi ta tưởng chừng quỵ ngã. Những thử thách
có thể là hố sâu chôn vùi cuộc đời trong u mê hờn oán, nhưng cũng là phương thế
gột rửa tội lỗi, thanh luyện đức tin và thắp sáng niềm hy vọng. Thánh Phêrô đã
nói lên ý hướng này: “Những thử thách đó
nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quí hơn vàng gấp bội… Nhờ thế, khi Đức
Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi và
đem lại vinh quang, danh dự” (1,7).
Có thể nói, một ngôi nhà được đặt trên nền đá
sẽ vững bền theo thời gian. Cũng vậy, một khi “đặt đức tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (1, 21), các tín hữu cũng sẽ
đứng vững trước những thế lực sự dữ và đủ sức vượt qua những bóng đêm thử
thách. Người tín hữu không dừng lại ở thử thách mà nhắm tới hạnh phúc vĩnh hằng
mà Thiên Chúa đang gọi mời. Nói cách khác, niềm tin vào Thiên Chúa đã mở ra
chân trời hy vọng và thanh luyện con người từ nội tâm và hành động. Về điểm
này, đức thánh Phanxicô cho chúng ta biết rõ hơn: “Niềm tin trong Chúa Kitô cứu thoát chúng ta chỉ vì trong Người, cuộc sống
được mở ra cách tuyệt đối cho một tình yêu đi trước và chuyển hoá chúng ta từ nội
tâm, hành động”[4].
Chắc hẳn, một đức tin được thanh luyện sẽ luôn
hướng về chân trời lạc quan và hy vọng. Từ đây, người tín hữu xác tín rằng tất
cả đều sinh ích lợi cho những ai đặt niềm tin yêu vào Đức Kitô, Đấng đã hiến
dâng mạng sống vì người mình yêu. Nhờ đó, những thử thách mà họ gặp phải trong
hành trình chứng nhân đã trở nên lời khen ngợi và niềm vui, vì tin rằng Thiên
Chúa luôn yêu thương và ở cùng tôi.
b. Mang Lại Niềm Vui
Niềm vui trong Chúa Kitô không đương nhiên làm
cho người môn đệ vắng bóng đau khổ, thử thách. Đúng hơn, niềm vui này là dưỡng
chất cho hành trình chứng nhân và luôn hướng về một tương lai tươi sáng. Thánh
Phêrô cho ta biết về điều này khi nói: “Anh
em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa tram chiều
thử thách” (1, 6). Như vậy, những thử thách mà người tín hữu trải qua không
phải là một ngỏ cụt, mà là cách thức giúp cải quá tự tân hầu xứng đáng lãnh nhận
ơn cứu độ ngang qua con đường đức tin. Thánh phêrô viết: “Anh em được chan chứa niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận
được thành quả đức tin là ơn cứu độ con người” (1, 8- 9).
Hơn nữa, niềm vui của người môn đệ không dừng
lại ở phần thưởng cá nhân mà còn là được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô. Nói
cách khác, những đau khổ của người môn đệ không đi vào quyên lãng hay trở nên
đơn điệu, vô ích nhưng thành cơ hội thông phần vào cuộc thương khó của Đức Kitô
và để tôn vinh Thiên Chúa (x. 4, 12). Đó cũng là ý tưởng thánh Phêrô muốn trình
bày: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức
Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện,
anh em cũng được vui mừng hoan hỷ” (4, 13).
Dĩ nhiên, thánh nhân không cổ võ người tín hữu
đi tìm đau khổ. Ngài chỉ muốn họ đón nhận
những ngang trái cuộc đời với tâm tình tin yêu và phó thác. Đồng thời, ngài
soi chiếu vào người tín hữu ánh sáng hy vọng: những đau khổ chưa phải là vực thẳm
chôn vùi tất cả; nó sẽ mang lại cho đời nét xuân tươi ngay giữa những chông gai
của gian khó. Đàng sau đau khổ, người tín hữu luôn tìm được sự an ủi vỗ về và
vòng tay Chúa mở rộng chờ đợi ta bước tới.
4. Dấu Chứng Cho Nhân Thế
a. Lương Tâm Ngay Thẳng
Sống giữa cảnh đời tranh đua xua nịnh, người
ta đang chờ đợi nơi người kitô hữu một dấu chứng về sự chân thành và ngay thẳng.
Với lương tâm ngay thẳng, cánh cửa cuộc đời Kitô hữu sẽ mở rộng và có sức thúc
đẩy người khác tìm đến Chúa. Francois Varillon chia sẻ cho ta về kinh nghiệm
này: “Tất cả những gì người Kitô hữu có
thể làm, đó là giúp người không Kitô giáo khám phá ra mình đang ở trong sự thật
và giúp họ nhận ra điều đó”[5].
Tư tưởng này chúng ta gặp thấy nơi thư thứ nhất
của Phêrô. Với thánh nhân, cách làm chứng tá tốt nhất để giúp người khác nhận
ra và tôn vinh Thiên Chúa chính là cuộc sống ngay lành và đượm chất Tin Mừng.
Ngài viết: “Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa
dân ngoại… để họ thấy các việc lành anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa trong
ngày Người viếng thăm” (2, 12). Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói về
điểm này nhưng theo một cách thức khác: “Thế
giới hôm nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy”. Có thể, chúng ta nói về Chúa
thì dễ, nhưng diễn tả về Chúa bằng chính cuộc sống thường ngày quả là điều
không đơn giản chút nào. Nó đòi hỏi mỗi người “ngụp lặn” trong tình yêu Thiên Chúa để nhờ Ngài tẩy xoá những cặn
bã tội lỗi và mặc lấy con người mới giống hình ảnh Thiên Chúa với một lương tâm
trong sáng và đơn thành.
Như vậy, với lương tâm trong sáng và ngay thẳng
sẽ cho ta biết thế nào là hy vọng. Bởi vì, chúng ta khó hướng về một chân trời
tươi đẹp và thắp lên nơi tha nhân ánh sáng hy vọng khi cuộc đời mình bị bao phủ
bởi bóng đêm tội lỗi, hận thù và chia rẽ. Do đó, giữa hy vọng và lương tâm ngay
thẳng có mối tương quan hỗ tương: Nó tựa như đôi cánh giúp người tín hữu có khả
năng vươn tới chân trời hạnh phúc đích thực. Còn nhìn dưới khía cạnh tiêu cực
thì lương tâm ngay thẳng chẳng khác nào chiếc “băng keo” khiến cho những kẻ phỉ báng, chống đối phải xấu hổ và bị
khuất phục. Trong bối cảnh này, lương tâm ngay thẳng là lời biện hộ có sức thuyết
phục hơn những lời trau chuốt hời hợt. Thánh Phêrô đã nói rõ: “Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ
phỉ bang anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, thì chính họ phải xấu
hổ vì những điều họ vu khống” (3, 16).
Trước những thế lực sự dữ đang muốn thâu tóm,
lèo lái người tín hữu đi vào con đường lầm lạc thì với lương tâm ngay thẳng sẽ
cho họ đủ tỉnh táo để biện phân và chọn lựa hướng đi thích hợp với thánh ý
Thiên Chúa. Nhờ đó, người tín hữu nuôi dưỡng lòng nhiệt thành và nghị lực để sống
chiều kích Tin Mừng và giới thiệu Chúa cho người khác.
b. Niềm Phó Thác
Khuynh hướng chung của con người là tự chọn
cho mình một hướng đi và hoạch định một chương trình cuộc sống. Họ khó chấp nhận
người khác xen vào cuộc sống riêng tư. Lối sống này thường dẫn đến ích kỷ và
khép kín.
Tuy nhiên, thánh Phêrô vạch ra cho người tín hữu
một con đường khác với lẽ thường, đó là phó thác. Dĩ nhiên, sự phó thác khác với
việc ỷ lại, buông xuôi. Nó nói lên ý chí mạnh mẽ, một tấm lòng chân thành và đức
tin kiên vững, vì cuộc đời họ được đặt để nơi Thiên Chúa và để Ngài dùng họ “như những viên đá sống động mà xây ên ngôi đền
thờ thiêng kliêng” (2, 4- 5). Thánh Phêrô chân nhận với sức mạnh của sự dữ
và sự mỏng dòn bản thân nên người tín hưu rất khó đứng vững trước những cơn cám
dỗ. Do đó, ngài mời gọi họ trao gửi cuộc đời cho Thiên Chúa, để Người nên chốn
tựa nương, nên thành trì bảo vệ và để Người điều hướng cuộc đời theo Thiên ý. Thánh
nhân khuyên các tín hữu: “Những ai chịu
đau khổ theo ý Thiên Chúa, hãy phó mạng mình cho Đấng Tạo Hoá trung thành, và cứ
làm điều thiện” (4, 19). Như vậy, theo thánh Phêrô, phó thác không có nghĩa
là “ở nhưng”, mà là nhiệt tâm làm điều
thiện. Bởi chưng, Đấng mà họ trao gửi cuộc đời luôn đồng hành và hướng dẫn họ
bước theo Ngài (x. 2, 21).
Một điểm tựa chắc chắn cho những ai sống chiều
kích phó thác là Thiên Chúa luôn yêu thương, trung thành với lời hứa và không
ngừng chăm sóc đỡ nâng, nhất là khi gặp hoạn nạn hay sờn lòng nản chí. Thánh
Phêrô khuyến khích: “Mọi âu lo hãy trút cả
cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (5, 7). Thánh nhân cho biết với tâm
tình phó thác, người tín hữu có thể hoán chuyển những âu lo thành niềm vui, những
tẻ nhạt cuộc sống mang dấu ấn ý nghĩa. Ở đây, chúng ta cùng nghe xác tín của đức
thánh cha Phanxicô: “Người Kitô hữu biết
rằng không thể loại trừ đau khổ, nhưng nó có thể nhận được một ý nghĩa, trở
thành một hành động tình yêu, tin tưởng trong bàn tay Thiên Chúa, Đấng không
bao giờ lìa bỏ chúng ta”[6].
Có thể nói, ý nghĩa cuộc đời không dừng lại ở
việc mình làm được gì, mà hệ tại nơi mức độ phó thác cho Thiên Chúa. Điều này
có vẽ nghịch lý cho những ai không tin, nhưng với những ai đặt niềm tin nơi
Thiên Chúa lại là một xác tín mạnh mẽ. Người tín hữu biết rằng những việc làm
nhằm qui hướng bản ngã dễ trở thành những “viên
gạch ích kỷ” xây nên lâu đài cố thủ và an phận với những gì đang có. Những
việc làm này không mua được bình an, thanh thản và hạnh phúc, mà chỉ nhận được
những ngánh nặng của bất an và đố kỵ. Do đó, thánh Phêrô dẫn người tín hữu tới
chỗ nhìn nhận rằng chỉ nơi Chúa mới làm cho tâm hồn no thoả, chỉ có Người mới
khoả lấp được nỗi trống vắng và chỉ trong Người, con người mới được lớn lên
trong ân sủng và tình yêu.
c. Ơn Cứu Độ
Ơn cứu độ là bến bờ hạnh phúc mà mỗi tín hữu hằng
mong chờ. Đó là động lực giúp họ vượt lên trên sự ngã và lỗi lầm hầu kiến tạo một
con người mới như Thiên Chúa muốn. Trong Tông Huấn Evangelii Gaudium, Đức thánh
cha Phanxicô đã nói: “Mọi người đều phải
đến với sự an ủi và khích lệ của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, là điều hoạt động
cách mầu nhiệm trong bất cứ ai, vượt trên và vượt ra ngoài những lỗi lầm và sa
ngã”[7].
Thánh Phêrô cũng đã nói về niềm hy vọng vào ơn
cứu độ trong thư thứ nhất. Ngài nói: “Anh
em đẽ được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích là Đức
Kitô” (1, 19). Không ai khác mà chính giá máu của Đức Kitô đổ ra trên thập
giá đã tẩy rửa tội lỗi và mang lại cho con người ơn cứu độ. Thiên Chúa không cứu
độ con người bằng những phép lạ cả thể, nhưng đã đồng hành, nâng đỡ, chung chia
kiếp sống và hiến mạng làm giá chuộc muôn người. Thánh nhân nói tiếp: “Chính Đức Kitô chịu chết một lần vì tội lỗi,
Đấng công chính đã chết cho kẻ bất lương, hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên
Chúa” (3, 18). Như vậy, Đức Kitô là cửa ngõ ơn cứu độ, luôn rộng mở và dành
cho hết mọi người. Chúng ta cùng nghe đức thánh cha Phanxicô diễn giải thêm ý
hướng này: “Chúa Giêsu là cửa ngõ của ơn
cứu độ. Cửa ngõ của Chúa Giêsu không bao giờ đóng kín, mà luôn luôn rộng mở cho
tất cả mọi người, không phân biệt một ai, không loại trừ một ai”[8].
Thánh Phêrô cho biết người tín hữu được tái
sinh không phải do hạt giống mục nát của thế gian mà do hạt giống bất diệt, “nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi
mãi” (1, 23). Bởi đó, thánh nhân mời gọi: “Anh em hãy chuẩn bị lòng trí, hãy tỉnh thức, hãy hoàn toàn đặt niềm
trong cậy vào ân sủng sẽ được mang đến cho anh em trong ngày Đức Kitô tỏ hiện”
(1, 13). Với thánh nhân, ơn cứu độ không làm cho người tín hữu trở nên thụ động,
cho bằng khích lệ họ đáp trả với tất cả tâm tình và ý chí tự do ngang qua tỉnh
thức và đặt niềm trông cậy vào Thiên Chúa. Nói cách khác, ơn cứu độ là lực đẩy
giúp người tín hữu luôn sống trong hy vọng hầu có thể đối diện với những cam go
của thực tại trong an bình và tín thác. Đức thánh cha Bênêđictô XVI củng cố cho
ta quan điểm này: “Sự cứu chuộc được trao
ban qua việc ban tặng niềm hy vọng cho chúng ta, một niềm hy vọng kiên vững nhờ
đó chúng ta có thể đối mặt với thực tại: chúng ta có thể sống và đón nhận thực
tại đầy cam go, nếu chúng ta hướng đến một mục đích, và nếu chúng ta có thể ý
thức về mục đích này”[9].
Chủ hướng của thánh Phêrô là muốn người tín hữu
xác tín rằng những thực tại trần gian không đủ để khoả lấp nỗi trống vắng hay
mang lại cho cuộc sống ý nghĩa đích thực, mà chỉ nơi Chúa mới đổ đầy nỗi khát
khao và ban tặng hạnh phúc vĩnh hằng. Như vậy, ơn cứu độ khởi đi từ Thiên Chúa
luôn mang lại cho con người niềm vui, hy vọng vì biết rằng mình có một mục đích
để hướng tới và một vòng tay rộng mở luôn đón chờ.
Kết Luận
Với những gì trình bày ở trên, chúng ta thấy
chỉ duy tình yêu Thiên Chúa mới đem lại cho con người khả năng và kiên vững
trong một thế giới tự bản chất là bất toàn mà không đánh mất niềm hy vọng[10].
Niềm hy vọng đích thực không đến từ con người, mà bắt nguồn từ Thiên Chúa. Bởi
chưng, khi con người tự đặt cho mình một điểm tựa, tự hoạch định cho mình một cứu
cánh thì luôn có nguy cơ bảo thủ, ích kỷ và bất an. Hệ luỵ của nó là thiếu tinh
thần phó thác, đánh mất niềm vui và làm xói mòn niềm hăng say trong đời chứng
nhân.
Thánh Phêrô hướng người tín hữu đến một niềm
hy vọng mang tính giải thoát. Nói cách khác, niềm hy vọng được diễn tả nơi thư
thứ nhất Phêrô được khởi đi từ Thiên Chúa và cho mục đích của Ngài. Đó là một
năng lực siêu việt khả dĩ giúp con người vượt qua những rào cản tội lỗi, chiến
thắng những giới hạn bản thân, thanh luyện đức tin hầu mang lại cho cuộc sống
niềm tin yêu phó thác, sự quảng đại phục vụ tha nhân và lòng nhiệt tành làm chứng
cho những giá trị Tin Mừng.
Montfort Nguyễn Xuân Pháp
17-5-2015
[1] Kinh Thánh Tân Từ Điển, Viện Thần
Học Tin Lành Việt Nam chuyển dịch, ấn bản lần ba, Nb: Đông Phương năm 2009, tr
902- 903.
[2] John A. Hardon Sj, Từ Điển Công
Giáo Phổ Thông, nhóm Chánh Hưng dịch, Nxb: Phương Đông năm 2008, tr 627- 628.
[3] X. Lm Quirico. T. Pedregosa, Op, Tình Yêu Chính Là Sứ Vụ, Nt Anna Nguyễn
Thị Ngọc Diệp dịch, Nxb: Hà Nội 2012, tr 73.
[4] Đức thánh cha Phanxicô, Thông Điệp Lumen Fidei, ban hành ngày
28-06-2013, Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh dịch, Nxb: Tôn Giáo Hà Nội năm 2013, số
20.
[5] Francois Varillon, Một Kitô Hữu Trước Các Tôn Giáo Lớn,
Nguyễn Thị Chung dịch, Nxb: Hà Nội 2009,
Tr 34.
[6]Đức thánh cha Phanxicô, Thông Điệp Lumen Fidei, ban hành ngày
28-06-2013, Lm Aug. Nguyễn Văn Trinh dịch, Nxb: Tôn Giáo Hà Nội năm 2013, số 56.
[7]Đức thánh cha Phanxicô, Tông Huấn
Evangelii Gaudium, ban hành ngày 24/11/2013, Phạm Xuân Khôi dịch, số 44.
[8]Bài Giáo lý của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi
đọc kinh Truyền Tin ngày 26/8/2013.
[9] Đức thánh cha Bênêđictô XVI, Thông Điệp Spe Salvi, ban hành 30/11/2007,
Lm. Aug Nguyễn Văn Trinh dịch, số 1.
[10] X. Sđd , số 31.