Phụ Nữ Trong Tân Ước
(catechesis.net)
Tam nhật Vượt qua 2018
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Được viết ngày 29,30-3 và 01-4 năm 2018
Dẫn nhập
30 năm kỷ niệm phong thánh cho 117 chân phúc tử đạo VN
(ngày 19 tháng 6) và 30 năm ban hành tông huấn “Phẩm giá của người phụ nữ” (Mulieris
dignitatem: MD ngày 15-8-1988). Cả hai biến cố diễn ra trong khung
cảnh của Năm Thánh Mẫu. Tuần Tam nhật năm nay chúng ta mừng kỷ niệm tông thư
MD, chú trọng đặc biệt đến các số 12-16, trong đó ĐTC trình bày các phụ nữ
trong Phúc âm. Chúng ta không đi vào lý thuyết về phẩm giá của phụ nữ, nhưng
chú trọng đến các khuôn mặt của những phụ nữ được gọi làm môn đệ của Chúa
Giêsu, được gọi đi theo Chúa từ lúc Người bắt đầu sứ vụ cho đến khi Người hoàn
tất công trình cứu chuộc trên thập giá và phục sinh. Chúng ta sẽ không tưởng
tượng điều gì mới lạ: tất cả đều được nói đến trong Phúc âm. Duy có điều là xưa
nay các ông chỉ chú ý đến những người nam; bây giờ từ khi các bà nghiên cứu
Kinh thánh thì sự hiện diện của các phụ nữ mới được chú ý. Trong Phúc âm, người
ta đếm được hơn 20 nhân vật đã được gặp gỡ Chúa Giê-su, trong số đó vài cuộc
gặp gỡ đã để lại dấu ấn quan trọng cho lịch sử đức tin. Chúng ta chỉ chú ý đến
những người liên quan đến mầu nhiệm Vượt qua.
Bài 1: (Thánh lễ
chiều thứ Năm Tuần thánh)
Người phụ nữ rửa chân cho Chúa
Người phụ nữ mời Chúa dự tiệc
Chúng ta bắt đầu ngay từ trong buổi cử hành bữa Tiệc ly
chiều nay. Có phụ nữ nào hiện diện hôm ấy không? Tại sao Chúa không truyền chức
linh mục cho các bà? Xin thưa rằng chắc chắn là hôm ấy các bà hiện diện, ít là để
dọn bữa ăn. Còn chuyện truyền chức thì tạm gác qua một bên vì đây không phải là
lúc tranh luận. Khi cử hành việc Chúa rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc
ly, chúng ta nhớ đến một phụ nữ đã rửa chân cho Chúa và một phụ nữ đã dọn tiệc
đón Chúa. Cả hai quang cảnh đều được thánh Luca ghi lại, và trở thành đề tài
cho bài suy niệm chiều nay.
1/ Người phụ nữ rửa chân cho Chúa (Lc
7,36-50)
Trong quá khứ, người phụ nữ này được đồng hóa với bà Maria
Madalena. Thật ra đây là một sự sai lầm đáng tiếc, bởi vì móc nối với bà Maria
Madalena được nhắc đến ở đầu chương 8 của Luca, “được trừ bảy quỷ”. Mặt khác,
việc xức dầu cho Chúa cũng dẫn đến sự lầm lẫn với bà Maria chị em ông Ladaro
(tạm gọi là Maria Betania). Ngày nay người ta biết rằng Magdala và Betania là
hai thị trấn cách xa nhau hơn 100 cây số. Nói cách khác, người phụ nữ tội lỗi ở
đây khác với bà Maria Madalena và cũng khác với bà Maria Betania.
Khung cảnh: Chúa Giêsu dùng bữa tiệc tại nhà ông Simon.
Nói cho đúng, bữa tiệc này không mấy thân thiện. Những người đồng bàn đang xoi
mói Chúa Giêsu (khác với bữa tiệc mà chúng ta sắp nói đến của hai chị em
Marta). Dù sao, trong cuộc đời sứ vụ, Chúa Giêsu đã nhiều lần ăn tiệc với những
người tội lỗi (thâu thuế), và đã gây nhiều tai tiếng: Người bị tố cáo là tay ăn
nhậu (Mt 9,10-11; 11,19); khác với ông Gioan Tẩy giả, nổi tiếng là khắc khổ!
Để hiểu câu chuyện đang bàn, cần biết phong tục Rôma (và
các đại gia Do thái cũng bắt chước), đó là ăn nằm (nằm trên bộ phản để ăn).
Đang lúc ăn, thì một phụ nữ tội lỗi bước vào (không biết tên bà là ai, nhưng bà
không phải là kẻ vô danh, bởi vì mọi người đều biết bà là gái làng chơi). Bà đi
vào nhà cách đột ngột. Không ai mời mà cũng tới.
Điều quan trọng muốn nêu bật ở đây là thánh sử mô tả những
cử chỉ của người phụ nữ qua 6 động từ (6 động từ tượng trưng cho 6 công việc
tạo dựng?): đứng đàng sau, sát chân mà khóc, lấy nước mắt mà tưới chân, lấy tóc mà
lau, hôn chân, lấy dầu mà đổ lên.
Chiều nay, chúng ta tưởng niệm việc Chúa Giêsu rửa chân
cho các môn đệ. Đây là một cử chỉ phục vụ: các đầy tớ rửa chân cho chủ (chứ
không ngược lại). Nhưng đối với phong tục Do thái, việc rửa chân còn mang một ý
nghĩa khác nữa: dấu hiệu của tình yêu, đặc biệt khi diễn ra giữa người nam với
người nữ. Sau khi vua Đavit đã ăn nằm với bà Bersabe khiến cho bà mang thai,
vua ra lệnh triệu ông Urigia chồng bà từ mặt trận về, và bảo ông đi rửa chân
(1Sm 11,8). Nhưng ông không về nhà, và đến hôm sau ông đi ra mặt trận. Ở đây
“rửa chân” có nghĩa là quan hệ vợ chồng. Bà Rút nằm dưới chân ông Boot suốt
đêm, và hôm sau được ông nhận làm vợ (R 3,4-15).
Trong bối cảnh văn hóa ấy, áp dụng vào câu chuyện đang
bàn, người phụ nữ rửa chân cho Chúa Giêsu bằng nước mắt và đổ dầu: cả hai đều
là cử chỉ của tình yêu. Đối với những người hiện diện, thì đó là cử chỉ ái ân,
tội lỗi. Nhưng Chúa Giêsu lại nhìn bằng cặp mắt khác. Đó là những cử chỉ đón
tiếp (mà ông Simon đã bỏ qua không làm), và nhất là của lòng biết ơn vì đã được
tha thứ nhiều (“Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu
mến nhiều”).
Đó chẳng phải là những tâm tình mà chúng ta cần có khi cử
hành hy lễ Tạ ơn đó sao, tức là biết ơn vì đã được tha thứ?
Trong Tin mừng Luca, chúng ta đọc thấy dụ ngôn hai người
lên đền thờ cầu nguyện: một người Pharisiêu và một người thu thuế (Lc 18,9-14).
Dụ ngôn ấy đã trở thành cụ thể nơi hai nhân vật trong câu chuyện này: ông Simon
cho rằng mình là người công chính, phán đoán không những người phụ nữ mà kể cả
Chúa Giêsu nữa. Thế nhưng ông lại bỏ qua những nghi thức tối thiểu nhất của
việc tiếp khách. Còn người phụ nữ, bị coi là người mang nhiều tai tiếng, nhưng
kỳ thực lại được nên công chính, được tha thứ, bởi vì bà đã yêu nhiều, hay đúng
hơn bà đã cảm nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Còn ông Simon thì đóng cửa
trước lòng khoan nhân.
2/ Bữa tiệc tại nhà hai chị em Marta (Lc
10,38-42)
Như vừa nói trên đây, Chúa Giêsu nhiều lần nhận lời mời ăn
tiệc, kể cả do người tội lỗi. Có lẽ Chúa không vui lắm tại bữa tiệc ở nhà ông
Simon mà chúng ta vừa nghe, bởi vì nó chỉ là cơ hội cho nhiều người xoi mói bắt
bẻ; nhưng mặt khác, phải nói là Người vui bởi vì đã mang lại ơn tha thứ cho
người phụ nữ tội lỗi. Bây giờ chúng ta bước sang một bữa tiệc khác, và lần này
chắc chắn là Người vui hơn, vì được đón tiếp bởi hai chị em Marta và Maria.
Thực ra, có hai trình thuật liên quan đến cuộc viếng thăm nhà này: một trình
thuật theo Luca, và một trình thuật trong Tin mừng Gioan. Lần này chúng ta chỉ
dừng lại ở trình thuật của Luca, còn trình thuật của Gioan thì được gác lại
chiều thứ bảy (những phụ nữ tuyên xưng đức tin).
Từ thời Trung cổ, người ta thường đưa câu chuyện này để so
sánh giữa đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động, tượng trưng nơi hai bà
Maria và Marta. Tuy nhiên, có lẽ đây không phải là chủ ý của Luca. (Nên lưu ý
là trước đây, có người đồng hóa bà Maria Betania với bà Maria Magdala và người
phụ nữ tội lỗi. Chúng ta đã nói rằng người phụ nữ tội lỗi không liên can gì với
bà Maria Magdala, và cũng khác với bà Maria Betania; bởi vì Magdala nằm ở miền
Bắc cách thủ đô Gierusalem khoảng 200 cây số, còn Betania chỉ là ngoại ô của
thủ đô, cách trung tâm khoảng 3 cây số, tạm ví như Bảo Lộc với Gò vấp).
Điều thứ nhất nên ghi nhận là trong nhà chỉ có hai phụ
nữ. Có lẽ là hai người độc thân. Quả là táo bạo khi họ mời Chúa Giêsu về
nhà, bởi vì theo thói tục đời ấy, các bà phải lánh mặt khi có khách đến nhà
(hơn kém cũng như ở Việt Nam xưa kia).
Điều thứ hai nên ghi nhận là câu chuyện mở đầu như thế
này: “Đang khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ
nữ tên là Marta đón Người vào nhà” (câu 38). “Đang khi đi
đường” nên hiểu trong văn mạch, từ cuối chương 9 (câu 51 trở đi), Luca mô
tả sứ vụ của Chúa như là con đường lên Giêrusalem, nơi mà Người sẽ chịu tử nạn
và phục sinh. Chúa không đi một mình, nhưng cùng đi với các môn đệ. Nhưng không
rõ là các môn đệ có đi theo vào nhà không (Nên biết là Luca không kể ra tên
làng: Bêtania là tên lấy từ Tin mừng của Gioan). Các ông mà đi theo thì chắc là
ồn ào lắm!
Chúa vào nhà bà Marta, và hẳn nhiên là để ăn
tiệc. “Bữa tiệc” khác với “bữa ăn thường”ở chỗ nào? Thường thì
bữa tiệc có nhiều món (và món ngon) hơn bữa ăn thường. Ngoài đặc tính thịnh
soạn, bữa tiệc cũng nói lên tính cách hân hoan. Chúng ta không gọi đám ma là
bữa tiệc, cho dù ăn ngon mấy đi nữa! Dù sao, có lẽ đặc trưng của bữa tiệc đúng
nghĩa là “tình bạn”. Hiểu theo nghĩa này, bữa ăn ở nhà ông Simon nói trên
đây không phải là bữa tiệc; nhưng bữa ăn ở nhà bà Marta đáng gọi là bữa tiệc.
Thế nhưng bữa tiệc này có vấn đề.
Đó là bà Marta lên tiếng phàn nàn vì cô em không chịu giúp
bếp. Nên lưu ý là bà không trách thẳng cô em, mà lại nhờ Chúa nhắn lại cô em.
Không ngờ Chúa lại bênh vực cô em. Tại sao? Nhiều lý do đã được đưa ra: 1/ Một
lý do văn hóa. Thời ấy, các bà không được phép ra ngồi tiếp khách mà phải lẩn
trốn trong phòng, hoặc là đi xuống bếp. Chúa Giêsu bênh vực bà Maria: phụ nữ
cũng có quyền tiếp khách, và bàn chuyện nghiêm túc (như chúng ta sẽ thấy trong
câu chuyện với phụ nữ xứ Samaria). Nói cụ thể hơn, trái ngược với phong tục Do
thái, Chúa Giêsu chủ trương là các bà cũng có quyền được nghe lời Chúa. 2/ Lý
do nhân bản. Khách đến nhà thì phải tiếp đón. Tiếp đón không phải bằng cách đãi
các món ăn ngon nhất để trổ tài nội trợ, nhưng là nói chuyện với khách. Có lẽ
bà Marta quên điều ấy. Ngược lại, bà Maria nhận ra vấn đề: đối với một người
khách như Chúa Giêsu, thái độ đón tiếp nồng hầu nhất là lắng nghe Chúa dạy.
Đừng quên rằng đây là một điểm mà Luca nhấn mạnh nhiều lần. Chẳng hạn như Đức
Mẹ Maria được đề cao vì đã lắng nghe và nghiền ngẫm lời Chúa; đây mới là mối
phúc thật sự, chứ mối phúc không tại chỗ đã cưu mang và cho bú mớm (Lc
11,27-28).
Mặt khác, chúng ta đừng nên đối chọi Maria với Marta, bởi
vì đây Luca không có ý so sánh giữa đời sống chiêm niệm và đời sống hoạt động,
nhưng là tác giả muốn nhắc lại rằng tất cả mọi hoạt động đều bắt nguồn từ chỗ
lắng nghe Lời Chúa. Thực vậy, chúng ta rất dễ rơi vào nguy cơ là hoạt động để
thỏa mãn một nhu cầu nào đó của mình, chứ không phải do lòng mến Chúa thúc đẩy.
Đối lại cũng có một thứ nguy cơ khác, đó là chỉ nghiền ngẫm Lời Chúa nhưng lại
không diễn tả thành lòng thương cảm với đồng loại. Vì thế có tác giả đề nghị là
ta nên liên kết đoạn văn này với đoạn văn liền trước đó (Lc 10,29-37: dụ ngôn
về người Samari nhân hậu: ông ta hiểu được bài học về sự thương người, còn các
kinh sư thì chẳng chịu đem ta thực hành), để duy trì một sự quân bình giữa hai
mối tình. Cả hai đều cần thiết: lắng nghe lời Chúa và phục vụ tha nhân. Có
chăng là phần của Maria được coi là “không ai lấy đi được”, bởi vì, theo
sự chú giải của một vài giáo phụ, sau này khi lên trời thì chỉ còn ngồi lắng
nghe Lời Chúa thôi, chứ không còn người nghèo để phục vụ nữa. Đó là nói cách
tuyệt đối, chứ trên thực tế, chúng ta vẫn còn sống dưới đất, cho nên vẫn còn
cần phải lắng nghe lời Chúa và phục vụ. Và chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận
rằng việc phục vụ lao tâm lao lực hơn nhiều.
Tóm lại, khi ôn lại hai câu chuyện của các phụ nữ nhân
Thánh Lễ Tiệc ly, chúng ta học được bài học về sự biết ơn vì được tha thứ, cũng
như bài học về việc lắng nghe Lời Chúa, để rồi diễn tả ra qua việc phục vụ anh
chị em. Chúng ta đã nghe hoặc đã nói nhiều về những điều ấy, nhưng có lẽ chúng
ta chưa thực hành bao nhiêu. Chúng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta,
sức mạnh của Thánh Linh tình yêu.
Bài 2: Sáng
thứ Sáu Tuần thánh
Những Phụ Nữ Được Chữa Lành và Tha Thứ
Phụng vụ ngày thứ 6 tuần thánh mời gọi chúng ta suy niệm
về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và đồng thời ăn năn thống hối (thánh vịnh 50).
Chúa đã chịu đau khổ để chữa lành những vết thương của chúng ta. Tin mừng đã kể
lại nhiều phụ nữ được Chúa chữa lành và tha thứ. Chúng ta suy gẫm vài trường
hợp điển hình, được chia làm hai nhóm: thứ nhất là ba người được chữa lành
bệnh; nhóm thứ hai là người phụ nữ ngoại tình.
A. Những phụ nữ được chữa lành bệnh
Chúng ta chọn lọc ba trường hợp, trích từ ba tác giả khác
nhau của Tin mừng Nhất Lãm: người phụ nữ xuất huyết (Mc), người phụ nữ còng lưng
(Lc), người phụ nữ xứ Cananea (Mt) [Còn những trường hợp khác nữa: bà mẹ vợ ông
Phêrô, con gái ông trưởng hội đường].
1/ Người phụ nữ xuất huyết (Mc 5,25-34)
Việc chữa lành bà được thuật lại trong cả ba tác phẩm Nhất
Lãm, nhưng Marco có nhiều nét dí dỏm hơn cả. Người phụ nữ này phải chịu đựng
hai cái khổ: ngoài cái khổ về thể chất, còn thêm cái khổ tinh thần vì bị loại
trừ khỏi xã hội (tương tự như những bệnh nhân phong hủi). Tuy nhiên, bà tỏ ra
can đảm, và dám đi ngược lại những luật cấm thời đó.
Câu chuyện được lồng chung trong bối cảnh Chúa Giêsu được
mời đi chữa bệnh cho em bé con ông Giairo là trưởng hội đường. Cô bé lên 12
tuổi, còn bà này cũng mang bệnh từ 12 năm rồi. Bà đã tìm mọi cách để chữa bệnh,
nhưng chỉ tiêu tiền cho các ông lang mà không được ích gì (tiền mất tật mang).
Chúng ta đã biết cách thức mà bà đến gần Chúa Giêsu: ra
như cách trộm vụng, chứ không dám lộ diện. Một đàng bà biết là luật cấm giao
tiếp với người khác, nhưng đàng khác bà cứ làm liều. Bà chạm tới áo choàng của
Chúa, và bà đã được chữa lành nhờ sức mạnh toát ra từ Chúa Giêsu. Chúa quay lại
và hỏi: “Ai đã chạm vào áo của tôi?” Các môn đệ tỏ ra kinh ngạc, bởi vì đám
đông đang chen lấn, làm thế nào biết được ai đã chạm tới ngài!
Thật ra tuy câu chuyện này xảy ra giữa thanh thiên bạch
nhật, nhưng cốt lõi của nó lại là một sự gặp gỡ rất riêng tư: bà cảm thấy mình
được lành bệnh; Chúa cảm thấy một năng lực từ trong người phát ra. Tất cả diễn
ra trong thâm tâm kín đáo giữa Chúa với bà, chứ người ngoài không thấy điều gì
khác lạ. Các môn đệ chẳng hay biết gì, chỉ có đương sự mới cảm nghiệm mà thôi.
Khi Chúa quay mắt nhìn vào bà; bà kinh hãi sụp lạy xuống thú lỗi (vì đã vi phạm
luật). Nhưng thay vì trách móc, Người lại trấn an: “Này con, đức tin của con đã
cứu con, hãy ra đi bình an, và con được lành”.
Chính đức tin vào Chúa Giêsu mang lại ơn chữa lành. Bà tin
vào Chúa đến nỗi dám vi phạm luật cấm của đạo cũ. Chính thái độ tin tưởng và
đón nhận ấy đã mang lại ơn chữa lành cho bà. Ơn Chúa mời gọi sự đón nhận về
phía chúng ta. Thiết tưởng điều này cũng được áp dụng cho chúng ta hôm nay.
Chúng ta đang cử hành ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho nhân loại qua thập giá
của Đức Kitô. Nhưng liệu mỗi người có lãnh được ơn cứu độ ấy hay không?
2/ Người phụ nữ còng lưng (Lc 13,10-17)
Luca kể lại chuyện Chúa Giêsu chữa lành một phụ nữ còng
lưng đã 18 năm vào một ngày sabat. Dựa theo quan điểm y học thời đó, tác giả
cho rằng bệnh này là do ác thần gây ra. Bà này thật can đảm, bởi vì luật cấm
các bà không được vào gian chính của hội đường: họ phải đứng ở cuối, hoặc ở một
gian bên cạnh, có song chắn. Chúa Giêsu nhìn thấy bà, gọi lại và bảo: “Này bà
(dịch sát bản văn là: người nữ ơi), bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!” Rồi
Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.
Chúa gọi bà là “người nữ” (chứ không phải là “bà”, như đại
danh từ). Ra như qua bà này, Người muốn ngỏ lời với tất cả các phụ nữ. “Đứng
thẳng lên” có thể hiểu là trả lại nhân phẩm cho bà: xưa nay, bà đi khom lưng,
bây giờ bà được yêu cầu hãy đứng thẳng, xứng hợp với tư cách của con người tự
do (chứ không lom khom như thú vật hay như thái độ của một nô lệ).
Câu chuyện trở nên phức tạp khi ông trưởng hội đường phản
đối vì việc chữa lành trong ngày sabat. Ông không dám nói trực tiếp với Chúa,
mà chỉ nói trống rằng: “Ai muốn chữa bệnh thì đến hội đường vào những ngày
khác”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã bênh vực bà. Lý do không phải là vì ngày thường
bà không thể tới hội đường được, nhưng bà này là con cháu Abraham, và xứng đáng
được quan tâm (hơn là các thú vật mà người Do thái cởi trói để đưa đi ăn uống).
Người phụ nữ này cũng cần được cởi trói khỏi ách nô lệ của tà thần.
Ngày nay, chúng ta không còn coi bệnh tật là hậu quả do
tội lỗi gây ra, hoặc là do tác động của ma quỷ! Mỗi khi ai mắc bệnh, chúng ta
kêu bác sĩ đến chữa, chứ không mời cha giải tội hoặc pháp sư. Quan niệm thời
xưa thì khác, như chúng ta đã biết. Tuy vậy, sứ điệp của Tin mừng vẫn còn có
giá trị: Chúa Giêsu là lương y của nhân loại; Người chữa lành cả những bệnh tật
thân xác cũng như linh hồn. Sự tha thứ tội lỗi (mà chúng ta sắp nói) có thể coi
như sự chữa lành linh hồn. Nhưng trường hợp đang bàn ở đây có lẽ gợi lên cho
chúng ta một ý tưởng khác, đó là không phải về phía người phụ nữ còng lưng cho
bằng về phía ông chủ hội đường: ông ta mới là người bệnh tâm thần, khi ông muốn
loại trừ người khác nhân danh pháp luật cứng nhắc. Ông thiếu lòng cảm thương
với đồng loại đau khổ. Phúc âm đã thuật lại rất nhiều trường hợp của những
người Pharisiêu và kinh sư bị Chúa khiển trách: họ là những người mắc bệnh cứng
lòng (trái tim cứng cỏi), và cần được chữa lành. Ai dám nói rằng chúng ta không
mắc bệnh này?
3/ Người phụ nữ xứ Canaan
Câu chuyện thứ ba được Matthêu (15,21-28) kể lại tấm gương
một phụ nữ cương quyết (Marco 7,24-30 cũng thuật lại chuyện này, nhưng Luca thì
không nói đến). Bà là một người ngoại đạo. Bà xin Chúa thương cứu chữa con gái
đang bị quỷ hành hạ.
Lúc đầu, Chúa không tỏ ra thiện cảm với bà (khác với
trường hợp người phụ nữ còng lưng vừa nói trên đây). Người giả vờ không để ý
đến bà. Nhưng bà cứ đi theo nằng nặc kể lể. Đến lượt các môn đệ phải năn nỉ xin
Chúa giúp, kẻo bà cứ quấy rầy. Người trả lời: “Tôi chỉ được sai đến các chiên
lạc của nhà Israel”. Theo học lý của dân Do thái, đấng Mêsia chỉ được phái đến
cho nhà Israel. Thế nhưng bà này là người ngoại, cho nên không nằm trong kế
hoạch ấy. Chúa Giêsu chỉ nhắc lại quan niệm cổ truyền, ra như để nhắc nhở các
môn đệ về sự giới hạn của thành kiến.
Nghe vậy, bà không chịu thua, và sụp lạy khẩn nài: “Lạy
Ngài xin giúp con”. Câu trả lời của Chúa thật là chua chát: “Không nên lấy bánh
của con cái mà thảy cho chó con”. Lẽ ra bà phải tức giận lắm vì bị xúc phạm.
Nhưng bà lấy lại lời của Chúa để vặn lại: “Quả đúng vậy, nhưng chó con cũng
được ăn những mảnh vụn của bánh từ bàn rơi xuống”. Đến đây Chúa phải phục bà:
“Này bà (phụ nữ), đức tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được như vậy”.
Thế là bà được toại nguyện, nhờ đức tin mạnh mẽ. Chúng ta
nhận thấy rằng lòng tin của bà thật là mạnh bởi vì bà đã kiên trì kêu xin bất
chấp hai trở ngại: thứ nhất, lúc đầu Đức Giêsu xem ra phớt lờ, chẳng quan tâm
đến lời xin của bà; thứ hai, Đức Giêsu nói cho bà biết rằng chưa đến lúc phải
mang ơn cứu độ cho dân ngoại. Thế nhưng, bất chấp hai trở ngại đó, bà cứ nài
xin. Lòng tin của bà thật là mạnh, và đáng được ca ngợi. Vài độc giả có thể phê
bình thái độ của Đức Giêsu là cứng cỏi. Chúng ta có thể giải thích như sau: tuy
kế hoạch cứu độ mang tính cách phổ quát, dành cho tất cả mọi dân, nhưng được
thực hiện cách tiệm tiến. Đức Giêsu muốn giới hạn hoạt động của Người trong
vùng đất dân Israel; sau khi sống lại, Người sẽ sai các tông đồ mang Tin mừng
đến với muôn dân. Câu trả lời của Đức Giêsu diễn tả chương trình tiệm tiến đó;
thế nhưng lòng tin của bà Canaan mạnh mẽ đến nỗi đã làm cho Chúa đốt thời gian,
tương tự như lời khẩn nài của Đức Maria tại tiệc cưới Cana. Tuy nhiên, chúng ta
cũng có thể đọc câu chuyện theo một viễn tượng khác. Đức Giêsu đang thử thách
lòng tin của bà, huấn luyện cho bà từ lòng tin sơ khởi tới đức tin trưởng thành
hơn. Đức tin của bà được ca ngợi là mạnh mẽ, bởi vì bà vẫn giữ vững niềm tin kể
cả khi Chúa xem ra thinh lặng. Đức Giêsu cũng sẽ trải qua cảm nghiệm ấy trên
thập giá, khi thốt lên “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi
con?” (Mc 15,34). Chính đức tin mạnh mẽ của bà mẹ đã cứu đứa con
khỏi ma quỷ. Có lẽ đó là bài học mà các thánh sử muốn nói với chúng ta qua một
người phụ nữ ngoại đạo.
B. Những phụ nữ được tha thứ
Bây giờ chúng ta chuyển qua nhóm thứ hai. Hôm qua chúng ta
đã suy niệm người phụ nữ tội lỗi được Luca kể lại ở chương 7. Hôm nay chúng ta
suy niệm người phụ nữ ngoại tình được Gioan kể lại ở đầu chương 8 (câu 1-11),
nhưng có người cho rằng đoạn văn này là của Luca, dựa theo một vài thủ bản
(chen vào chương 21, câu 38). Gioan còn kể lại một trường hợp nữa của phụ nữ
tội lỗi, đó là người phụ nữ Samaria có 5 đời chồng, nhưng chúng ta để dành cho
chiều thứ bảy (những phụ nữ tuyên xưng đức tin).
Câu chuyện người phụ nữ ngoại tình không còn xa lạ gì với
chúng ta. Chúa Giêsu đang ở trong đền thờ, giảng dạy dân chúng. Các kinh sư và
Pharisêu dẫn một phụ nữ bị bắt quả tang tội ngoại tình, để xin Chúa xét xử.
Theo luật, bà phải bị ném đá. Nhưng Chúa không nói gì, chỉ cúi xuống, lấy tay
viết trên đất.
Dĩ nhiên, khá nhiều giả thuyết đã được đặt ra liên quan
đến nội dung của những chữ viết này: Chúa Giêsu đã viết gì? Thực ra, suốt đời
Người chỉ giảng chứ không viết một lá thư hay một cuốn sách nào hết. Tại sao
bây giờ Người lại viết: viết cái gì? Có phải nhắc lại các điều răn của Thiên
Chúa không? Hay là kê khai danh sách các tội mà người đời quen phạm nhưng không
nhận ra? Chẳng ai biết! Tiếc rằng Người chỉ viết một lần trong đời, nhưng lại
viết trên cát, để cho gió cuốn đi hết.
Trở về bản văn. Các nhà lãnh đạo tỏ ra sốt ruột, yêu cầu
Chúa lên tiếng. Người ngẩng đầu lên và nói: “Ai là người vô tội, thì lấy đá ném
trước đi”. Và họ lần lượt rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chúa Giêsu
không bênh vực tội của người phụ nữ. Nhưng Người trách tất cả những người mạnh
miệng tố cáo tội lỗi người khác, mà không biết nhận ra tội của mình. “Chân mình
thì lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Hơn thế nữa, trong trường hợp
này, xã hội tỏ ra bất công đối với phụ nữ. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm
tội ngoại tình thì bị ném đá. Còn người kia thì sao? Bà đâu có phạm tội một
mình? Tại sao chỉ mình bà chịu hình phạt?
Câu nói của Chúa Giêsu muốn nêu bật sự bình đẳng giữa
người nam và người nữ, trong việc tốt cũng như việc xấu.
Kết luận câu chuyện. Rút cục chỉ còn lại bị cáo và Chúa
Giêsu, bởi vì những người khác đã bỏ đi hết rồi. Người hỏi chị: “Họ đâu cả rồi?
Không ai kết án chị sao”. Chị thưa: “Dạ không”. Và Chúa nói: “Tôi không kết án
chị. Hãy ra về bình an, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Chúa không bênh vực tội
của chị: tội là điều xấu. Nhưng chị là người đáng thương. Chúa thương chị, và
Người khuyên chị đừng phạm tội. Điều này đã khiến thánh Augustinô phân biệt
giữa “tội lỗi” và “tội nhân”. Ta phải ghét tội, nhưng phải yêu tội nhân, xét vì
họ là con người.
Có người lưu ý rằng trong suốt cuộc tranh luận, Chúa Giêsu
đã cúi xuống đất: xem ra đó là biểu tượng của việc Người đã từ trời xuống thế,
để cứu vớt nhân loại, tiêu diệt tội lỗi. Sau đó, Người đã ngẩng đầu và đứng lên
để nói lời tha thứ: đây là biểu tượng của cuộc Phục sinh, ban cho con người sức
mạnh để chỗi dậy, và bắt đầu cuộc đời mới.
Chúng ta hãy đón nhận hồng ân Chúa ban: Người là Chúa của
lòng khoan nhân, chứ không phải là quan tòa nghiêm khắc. Đồng thời chúng ta
cũng hãy biết khiêm tốn nhìn nhận những thiếu sót của mình và thông cảm với
người khác.
Bài ba: Phụng
vụ chiều thứ Sáu Tuần thánh
Những Người Phụ Nữ Đi Theo Chúa Giêsu
Trong
trình thuật cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, tất cả bốn thánh sử đều ghi nhận sự
hiện diện của các phụ nữ dưới chân thập giá (đang khi mà các tông đồ đã bỏ chạy
hết). Riêng Matthêu và Luca còn thêm một chi tiết nho nhỏ nhưng quan trọng, đó
là các bà này đã theo Đức Giêsu từ Galilê để phục vụ Người (Mt 27,55; Lc
23,49). Xưa nay, các nhà chú giải nam giới không chú ý lắm đến chi
tiết này; nhưng kể từ khi nữ giới bắt đầu nghiên cứu Kinh thánh, thì ghi
chú này trở thành quan trọng, và lật ngược tình trạng của những người
đi theo Chúa Giêsu.
Thật
vậy, trước đây, các nhà chú giải Kinh thánh chỉ nói đến việc Chúa Giêsu kêu gọi
các môn đệ đi theo Người (Phêrô, Anrê, Giacobê, Gioan, vv). Con số các môn đệ
lên tới 72 người (Lc 10,1), và từ số ấy Người đã tuyển chọn 12 tông đồ (Lc
6,13). Các bà hoàn toàn vắng mặt! Nhưng giờ đây, khi nữ giới bắt đầu nghiên cứu
Kinh thánh, thì họ lưu ý những câu đầu của chương 8 theo Tin mừng Luca: “Sau đó, Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao
giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai, và mấy phụ
nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Magđala,
người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khuđa quản lý của vua
Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp
đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,1-3). Điều quan trọng là các bà đã
đi theo Đức Giêsu ngay từ đầu sứ vụ ở Galilê, và họ đi theo Người cho đến giây
phút chót, khi Người tắt thở trên thập giá. Các bà đã đi theo Người khi được
mai táng, và cũng chính các bà là chứng nhân của biến cố Chúa Phục sinh. Chúng
ta chia bài này làm hai phần: phần thứ nhất nói đến những chặng đầu của việc đi
theo Chúa; phần thứ hai nói đến việc theo Chúa trên đường Tử nạn.
I. Các môn đệ tiên khởi
Như vừa
nói, trước đây, chúng ta vốn quen hình dung Đức Giêsu được vây quanh bởi một
nhóm môn sinh. Điều này cũng nằm trong phong hóa thời bấy giờ: các rabbi có
những môn sinh; các môn sinh này không chỉ học chữ hay học nghề, nhưng họ học
cả cuộc sống của thầy. Vì thế họ theo chế độ “nội trú”, và đối với rabbi Giêsu
thì họ cũng chia sẻ nếp sống lưu động. Tuy nhiên, các tác giả cũng không quên
vạch ra những sự khác biệt giữa rabbi Giêsu với các rabbi khác. Trước tiên,
chính rabbi kêu gọi các môn sinh đi theo mình, chứ không phải các môn sinh tự
nguyện đến xin thụ giáo (x. những câu trả lời cho các ứng sinh ở Lc 10,57-62).
Thứ đến, các môn sinh đã vào trường này thì sẽ giữ mãi tư thế học trò, chứ
không trông mong mai ngày trở nên rabbi và tách ra lập trường riêng (Mt 23,8:
Anh em đừng để ai gọi mình là rabbi vì anh em chỉ có một thầy, còn tất cả anh
em đều là anh em với nhau).
1/ Điều
cách mạng nhất của Chúa Giêsu là nhận cả các phụ nữ làm môn sinh nữa. Đây là
một điều hoàn toàn trái ngược với truyền thống Do thái. Tại đây, phụ nữ chịu
nhiều thiệt thòi: không những họ không được vào trong hội đường (họ phải ngồi ở
gian dành cho dân ngoại) mà thậm chí không được kể đến khi tính dân số (thí dụ:
trong các phép lạ hóa bánh, người ta không tính đàn bà và con nít: x. Mt 14,21; 15,28).
2/ Luca
cho biết rằng các phụ nữ này “được Người trừ quỷ và chữa bệnh”. Thật khó biết
rằng đó là bệnh gì. Trong thế giới cổ truyền, bệnh tật bao gồm nhiều tình trạng
bất ổn về thể chất và tâm thần, và thậm chí kể cả những trường hợp quỷ ám. Nơi
các bệnh tật, người ta đọc ra bàn tay của ác thần. Và điển hình là bà Maria
Magdala được giải thoát khỏi bảy quỷ. Số 7 tượng trưng cho sự đầy đủ: như vậy
là tất cả các quỷ đều xúm lại hành hạ bà ấy. Dù sao, chúng ta đừng dừng lại ở
khía cạnh tiêu cực này, nhưng hãy nhìn khía cạnh tích cực của nó, đó là Chúa
Giêsu đã đến chữa lành tất cả các tật bệnh của con người, giải thoát nhân loại
mọi thứ xiềng xích. Thật vậy, các tác giả Tin mừng mô tả công việc cứu độ của
Người như là một lương y. Điều này được chứng tỏ qua các phép lạ: trừ quỷ, chữa
bệnh, cho kẻ chết sống lại, dẹp yên bão tố. Trong quan điểm cổ truyền, tất cả
những sự xáo trộn ấy là do ma quỷ gây ra. Giờ đây, Chúa Giêsu đến để thiết lập
vương quyền Thiên Chúa, qua việc lật đổ vương quyền của Satan. Những phụ nữ
đang bàn ở đây được hưởng những ân huệ ấy: họ đã được giải thoát khỏi tình
trạng yếu liệt, và có thể hành động cách tự do.
3/ Một
dấu hiệu của sự tự do ấy được biểu lộ qua việc sử dụng tài sản để giúp đỡ Chúa
Giêsu. Trong xã hội cổ điển, các bà phải lệ thuộc gia đình hoặc chồng trong
việc sử dụng tài sản. Dù sao, việc sử dụng tài sản nhắm đến một mục tiêu cao
hơn nữa, đó là các bà đã được Chúa gọi để “đi theo” Người. Cụm từ “đi theo
Chúa” có thể được hiểu theo nghĩa đen (vật lý), nghĩa là khi đi đường, thì thầy
đi trước, còn học trò lẽo đẽo theo sau. Nhưng trong Tin mừng, “đi theo” mang
nghĩa chuyên môn là trở thành môn sinh của Chúa, đi theo lời Chúa dạy và đi
theo Chúa cho đến cái chết trên thập giá (“Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ mình,
vác thập giá mình hằng ngày mà theo” Lc 9,20). Như vậy, các bà cũng được mời
gọi làm môn sinh cũng như các môn đệ. Họ “đi theo” và “phục vụ” Người ngay từ
thời buổi đầu tiên của sứ vụ của Chúa. Và họ đã đi theo Người cho đến cùng (Mc 15,41).
II. Những người theo Chúa trên đường Khổ nạn
Như đã
nói ở đầu, tất cả bốn sách Tin mừng đều nhất trí trong việc ghi nhận sự hiện
diện của các phụ nữ vào lúc Chúa Giêsu chết trên thập giá, tuy có vài khác biệt
nhỏ về chi tiết sẽ được nói.
1/ Một
chi tiết khác biệt liên quan đến sự hiện diện của các bà trong trình thuật Tử
nạn. Trước hết, trong phiên tòa xử án, chúng ta thấy một tớ gái của thượng tế
đã điểm mặt ông Phêrô, khiến cho ông này phải chối thầy! Điều này được tất cả
bốn thánh sử ghi lại. Riêng Matthêu còn nói đến sự can thiệp của bà vợ ông
Philatô, nhắn ông đừng nhúng tay vào vụ án oan uổng này (Mt 27,19).
2/ Trên
đường vác thánh giá lên núi Calvariô, duy Luca nói đến các phụ nữ đi theo, vừa
đấm ngực vừa than khóc Người. Người quay lại phía các bà và nói: “Hỡi phụ nữ Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì, Có
khóc thì khóc cho phần mình và con cái. Vì này đây sẽ tới những ngày người ta
phải nói: Phúc thay người đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không
cho bú mớm!” (Lc 23,27-31). Nên lưu ý là không có chỗ nào nói đến bà
Vêrônica lau mặt Chúa. Nhân vật này do lòng đạo đức bình dân thời Trung cổ thêm
vào (và có khi đồng hóa với người phụ nữ xuất huyết đã được chữa lành khi
chạm vào áo của Chúa)!
3/ Sự
hiện diện của các bà trong giai đoạn cuối đời Chúa Giêsu mang tính cách “liên
hoàn”, theo nghĩa là các bà có mặt vào lúc Chúa chịu chết, vào lúc Chúa được an
táng trong mộ và vào lúc Chúa sống lại. Chỉ có các bà làm chứng cho sự kiện
này, bởi vì các ông đã bỏ trốn hết (Mc 15,40), ngoại trừ người môn đệ yêu dấu
theo Tin mừng Gioan. Chúng ta đừng nên quên rằng trong xã hội Do thái, chứng
tích của các bà không có giá trị pháp lý (vì thế họ không được triệu ra tòa).
Các tác giả Tin mừng nói đến sự hiện diện của các bà vì muốn nêu lên sự thật, chứ
nếu phải bịa thì họ đã nghĩ đến các nhân vật khác có uy tín hơn.
Ở đây,
chúng ta chỉ nói đến sự hiện diện của các bà dưới chân thập giá và lúc mai táng
Chúa. Cuộc phục sinh thì để vào dịp khác.
4/ Dưới
chân thập giá, người đọc có thể thấy sự khác biệt chi tiết giữa bốn tác giả Tin
mừng như sau:
-
Matthêu và Marco nói rằng các bà đứng “nhìn
từ xa”. Quý danh của các bà là: Maria Magdala, Maria mẹ các ông
Giacôbê và Giôsep, và bà mẹ các con ông Dêbêđê (Mt 27,55-57). Thứ tự của Marco
hơi khác: Maria Magdala, Maria mẹ các ông Giacôbê thứ và Gioxet, bà Salômê (Mc
15,40). Như vậy bà Maria Magdala đứng đầu danh sách, còn bà thứ ba thì mang tên
là Salômê. Luca không kể tên các bà (Lc 23,49). Marco và Luca ghi chú thêm rằng
các bà đã theo Chúa từ Galilê.
- Gioan
thì đưa bà xích lại “gần thập giá”,
nhưng thay đổi thứ tự tên tuổi: thân mẫu Đức Giêsu, chị của thân mẫu, bà Maria
vợ ông Cleopat, bà Maria Magdala. Bà Maria Magdala đứng cuối danh sách, nhưng
bên cạnh có thêm người môn đệ yêu dấu của Chúa (Ga 19,25-27). Đoạn văn này nêu
bật vai trò của Đức Maria “Người Phụ nữ” điển hình mà chúng ta sẽ suy gẫm vào
sáng mai.
5/ Vào
lúc mai táng, chúng ta thấy sự xuất hiện của một người “môn đệ” ẩn danh, tức là
ông Giuse Arimatea (Gioan thêm ông Nicôđêmô). Ông này lo liệu việc hạ xác Chúa
và mai táng. Các bà thì đứng quan sát.
Số các
bà giảm xuống còn hai người: Bà Maria Magdala và bà Maria khác (Mt 27,61); Bà
Maria Magdala và bà Maria mẹ ông Gioses (Mc 15,47); Luca không kể tên (Lc
23,55-56). Gioan không nhắc đến các bà trong vụ này.
Trong
danh sách các phụ nữ (đừng kể Đức Mẹ Maria), chúng ta nhận thấy bà Maria
Magdala được xếp hàng đầu. Chắc hẳn trong Hội thánh nguyên thủy, bà là một nhân
vật nổi tiếng, đến nỗi vào lúc Chúa Phục sinh, bà được nhắc đến cách đặc biệt.
Các phụ
nữ khác cũng mang tên Maria, từ đó dễ gây ra ngộ nhận.
- Bà
Maria mẹ của ông Giacôbê thứ và ông Gioses (căn cước lấy theo tên con), và có
lẽ bà là vợ ông Alphêô (Mc 3,18).
- Bà
Salômê là mẹ của hai anh em con ông Dêbêđê (Giacôbê và Gioan). Mt đã để lại một
tích chuyện về bà này vì đã xin cho hai đức con của mình được ngồi bên tả và
bên hữu trong vương quốc của Chúa (Mt 20,20-24) và đã nhận được một bài học
đáng giá về sự phục vụ.
Có
người đối chiếu ba phụ nữ ở trên núi Calvario với ba môn đệ thân tín của Chúa đã
từng chứng kiến nhiều biến cố quan trọng (chẳng hạn lúc biến hình), đó là
Phêrô, Giacôbê, Gioan: ba bà thay thế cho ba ông vào giai đoạn quan trọng nhất
của lịch sử nhân loại.
Dù sao,
các bà đã để lại cho chúng ta tấm gương về sự trung kiên đi theo Chúa Giêsu.
Các môn đệ đầu tiên ở Galilê có lẽ đã theo Chúa vì mơ mộng sẽ chia sẻ vinh
quang khi Người thiết lập triều đại Mêsia. Vì thế mà họ tỏ ra sốc khi nghe Chúa
loan báo (3 lần) cuộc khổ nạn. Trên thực tế, họ đã bỏ Người sau khi thấy mình
vỡ mộng. Thế nhưng việc đi theo Chúa Giêsu đích thực đòi hỏi phải từ bỏ mình,
chấp nhận con đường thập giá. Đường thập giá không chỉ có nghĩa là con đường hy
sinh đau khổ, nhưng còn là con đường khiêm tốn, phục vụ, đang khi mà não trạng
thế gian trọng danh dự, địa vị. Không ai dám bảo đảm rằng chúng ta đã được giải
thoát khỏi não trạng ấy.
Bài 4. Sáng
thứ Bảy Tuần thánh
Đức Maria, Bà Eva Mới
Vào ngày thứ Bảy Tuần thánh, tại nhiều nơi, các tín hữu
quay quần để suy gẫm về sự thông dự của Đức Maria vào thập giá Chúa Kitô, cách
riêng qua việc lần chuỗi “Bảy sự đau đớn Đức Bà”. Lòng sùng kính này bắt nguồn
từ Dòng Tôi tớ Đức Mẹ, kết hợp giữa Kinh Mân Côi và Đàng Thánh giá, xoay quanh
7 mầu nhiệm đã gây ra sự đau đớn cho Mẹ: 1/ Khi được ông Simêon loan báo một
lưỡi gươm sẽ đâm thấu con tim (Lc 2,33-35). 2/ Khi bồng Con trốn qua Ai cập (Mt
2,13-15). 3/ Khi lạc Con trong đền thờ (Lc 2,46-49). 4/ Khi gặp Con vác thập
giá lên núi Calvario (x. Lc 23,27-28). 5/ Khi chứng kiến cái chết của Chúa (Ga
19-5-27). 6/ Khi đón nhận xác Con được tháo từ thập giá xuống (Ga 19,38-40). 7/
Khi đi theo cuộc an táng Chúa trong mộ (Ga 19,41-42). Sau mỗi lần suy niệm thì
đọc một kinh Lạy Cha và 7 kinh Kính mừng.
Tuy nhiên, sáng nay chúng ta suy gẫm một đề tài khác: “Đức Maria,
Bà Eva mới”. Bài đọc thứ hai giờ kinh Sách của Thứ Bảy Tuần Thánh
thuật lại việc Chúa Giêsu xuống gặp gỡ ông Adam dưới âm phủ để loan báo ơn cứu
độ nhân loại. Thánh Phaolô gọi Chúa Giêsu là “Adam mới” (Rm 5,12-18; 1Cr
15,21-22.45). Thế rồi, ngay từ thế kỷ thứ II, các giáo phụ cũng đã khai triển
đề tài “Mẹ Maria, bà Eva mới”: cũng như trước đây nhân loại đã bị hư mất do ông
Adam và Eva, thì nay ơn cứu độ được ban cho nhân loại nhờ ông Adam mới và bà
Eva mới. Xưa kia, loài người đã bị hư mất do tội bất tuân của một phụ nữ (bà
Eva, mẹ các chúng sinh: St 3,16.20); ngày nay, loài người được cứu độ nhờ đức
Maria là “người phụ nữ” được Chúa Giêsu đặt làm mẹ các môn đệ, tượng trưng cho
nhân loại mới (Ga 19,25-27). Dựa trên những dữ kiện ấy, tông thư Mulieris
dignitatem đã đặt Đức Maria như là “mẫu gương
người phụ nữ” (hoặc “người phụ nữ điển hình”). Trước hết, chúng ta
ôn lại những dữ kiện Kinh thánh và truyền thống Hội thánh; kế đó, chúng ta xét
đến vài áp dụng vào thời nay.
I. Kinh thánh và Truyền thống
Trong Tân ước, bà Eva được thánh Phaolô nhắc đến 2 lần với
một hình ảnh tiêu cực như là kẻ xúi giục phạm tội (2Cr 11,3; 1Tm 2,13-14). Tuy
nhiên, Tin mừng của Gioan nhắc đến bà Eva nhiều lần cách gián tiếp và mang tính
tích cực hơn. Thực vậy, có hai đoạn mà Chúa Giêsu thưa với Đức Maria: “Này người
nữ” (Ga 2,1-12 và 19,25-27) gợi lên đoạn văn Cựu ước Sáng thế
3,15-20. Ngoài ra, chương 12 của sách Khải huyền còn nói đến người mẹ của Đấng
Mêsia giao chiến với con rắn (mãng xà), khiến người đọc liên tưởng đến đoạn văn
St 3,15.
Vị giáo phụ đầu tiên so sánh Đức Maria với bà Eva là thánh
Giustinô tử đạo (+165): bà Eva đã nghe lời con rắn dụ dỗ, đưa đến sự bất tuân
và cái chết; Đức Maria nghe lời sứ thần truyền tin mừng, và đã đón tiếp Chúa
Kitô là nguồn sống (x. Đối thoại với Trypho). Nhất là với
thánh Irênê (+202), đề tài được đào sâu thêm và trở thành cổ điển: tác giả
không chỉ đối chiếu giữa hai người phụ nữ mà còn liên kết hai bà với nhau. Sự
vâng phục của Đức Maria đã giúp cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được hoàn
thành, khôi phục lại dự án nguyên thủy đã bị phá vỡ do nguyên tổ. Thánh nhân
còn nói thêm: “Cũng như bà kia -nghĩa là bà Evà- đã bị quyến rũ do lời lẽ của
một thiên sứ, đến nỗi đã lìa xa Thiên Chúa bởi vì làm lỗi lời của Người, thì bà
này -nghĩa là bà Maria- đã tiếp nhận tin mừng do lời lẽ của một thiên thần đến
nỗi đã cưu mang Thiên Chúa bởi vì vâng theo lời của Người. Cũng như bà kia đã
bị dụ dỗ để bất tuân Thiên Chúa thì bà này đã được khuyến dụ để vâng lời Chúa.
Vì thế mà Trinh Nữ Maria trở thành trạng sư cho bà trinh nữ Evà. Cũng như nhân
loại đã bị cái chết đô hộ vì một trinh nữ, thì cũng được giải thoát khỏi cái
chết nhờ một trinh nữ; như vậy sự bất tuân của một trinh nữ đã được chấn chỉnh
lại nhờ sự tuân phục của một trinh nữ…” (Adversus Haereses 5,19.1). Nên ghi
nhận là Đức Maria được coi như là trạng sư của Bà Eva, ra như bênh vực cho bà
này, vì tội của bà cũng nằm trong kế hoạch của Chúa (cũng tương tự như tội của
ông Ađam được phụng vụ ca ngợi là “hồng phúc” vì nhờ đó mà nhân loại đón nhận
Chúa Cứu thế). Dù sao, sự so sánh giữa Đức Maria với bà Eva dựa trên sách Sáng
thế 3,20, và mang tính đối chọi giữa ảnh hưởng của hai người phụ nữ.
Sang thời Trung cổ, các tác giả bắt đầu chuyển hướng. Đức
Maria là người trợ lực cho Chúa Giêsu, cũng tựa như bà Eva là người trợ tá cho
ông Adam. Như vậy, đoạn văn quy chiếu là Sáng thế 2,18 (“Adam ở một mình thì
không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”). Tuy nhiên, cũng nên
lưu ý rằng vào thời đó, bà Eva mới không luôn luôn ám chỉ Đức Maria, nhưng còn
có thể hiểu về Hội thánh: Hội thánh được thành hình được cạnh sườn Chúa Giêsu
chết trên thập giá.
Đề tài “Đức Maria như bà Eva mới” đã bị lãng quên một thời
gian lâu dài, và mãi đến thế kỷ XIX mới được gợi lại (Hồng y John Newman). Công
đồng Vaticanô II đã lấy lại đề tài ấy trong hiến chế Lumen gentium số 56.
II. Những áp dụng vào thời nay
Vào thời này, thần học thường nói đến Đức Maria là Eva mới
để nói đến sự góp phần của Đức Maria vào công trình cứu độ của Chúa Giêsu. Đề
tài này được trình bày khi chú giải tước hiệu “Đồng công cứu chuộc” của Đức
Maria. Nhưng chúng ta sẽ không dừng lại ở điểm này.
Trong thông điệp Redemptoris mater(25/3/1987) và đặc
biệt là trong tông thư Mulieris dignitatem (15/8/1988), Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II muốn khai triển khía cạnh nữ tính nơi Đức Maria, được
biểu lộ lúc đáp lại lời truyền tin của sứ thần, cũng như trong tư cách là Mẹ và
là trinh nữ. Dựa theo một vài nhà chú giải Kinh thánh, cuộc truyền tin (Lc
1,26-38) là một nghi thức ký kết giao ước theo khuôn mẫu của Cựu ước (Xh 19,8;
4,3-7; Gs 24,24). Đức Maria đại diện cho dân chấp nhận giao ước của Chúa. Bữa
tiệc Cana cũng có thể đọc trong bối cảnh ấy. Đoạn văn Đức Maria được mời gọi
làm mẹ dưới chân thập giá tượng trưng cho vai trò của bà Eva trong dân mới của
Hội thánh. Chính Đức Thánh Cha đã tóm kết ý tưởng trong hai bài huấn giáo vào
ngày 29/11 và ngày 6/12 năm 1995 như sau:
1.- Trong thế kỷ thứ XX, Thánh-mẫu-học đã tiến triển dưới
khía cạnh thần học và tu đức, gần đây đã tăng thêm tầm quan trọng dưới khía
cạnh xã hội và mục vụ, kể cả trong việc hiểu biết thêm vai trò của người phụ nữ
trong cộng đoàn Kitô hữu và trong xã hội, như đã được nêu bật trong vài văn
kiện đầy ý nghĩa của Huấn quyền Giáo hội. Vào lúc kết thúc Công đồng
Vaticanô II ngày 08.12.1965, các nghị phụ đã nói như sau trong sứ điệp gửi
cho tất cả các phụ nữ trên thế giới : “Giờ đã đến, khi mà ơn gọi của phụ nữ đã
được diễn tả trọn vẹn, giờ mà người phụ nữ đã chiếm được trong xã hội một tầm
ảnh hưởng, một địa bàn và một thế lực chưa từng thấy xưa nay”.
Vài năm sau đó, tôi đã lặp lại những lời khẳng định đó
trong Tông thư Phẩm giá người phụ nữ: “Trong những năm
gần đây, phẩm giá và thiên chức của người phụ nữ, - đề tài tư duy của lý trí và
của Kitô giáo -, đã mặc lấy một tầm quan trọng đặc biệt” (số 1).
Trong thế kỷ này, vai trò và phẩm giá người phụ nữ là đối
tượng tranh đấu của phong trào nữ quyền. Phong trào này đã muốn phản đối, đôi
khi với hình thức sôi nổi, chống lại những gì, trong quá khứ cũng như hiện tại,
đã làm ngăn trở việc đánh giá cao và phát triển nhân cách của phụ nữ, cũng như
việc tham gia của họ vào đời sống xã hội và chính trị. Những sự đòi hỏi này,
phần nhiều là chính đáng, đã mang lại một cái nhìn quân bình hơn về vấn đề phụ
nữ trong thế giới hiện đại. Trước những yêu sách đó, Hội thánh, nhất là trong
thời gian gần đây, đã tỏ ra sự quan tâm đặc biệt, và cũng được thúc đẩy do sự
kiện là nếu biết nhận ra chân dung đích thực của Đức Maria thì sẽ tìm gặp một
lời giải đáp hữu hiệu cho khát vọng giải phóng phụ nữ. Đức Maria là người duy
nhất đã thể hiện được cách tuyệt diệu chương trình yêu thương mà Thiên Chúa
dành cho nhân loại.
2.- Kế hoạch của Thiên Chúa đã được biểu lộ ngay từ trong
Cựu ước, với trình thuật của sự tạo dựng trình bày một cặp nam nữ đầu tiên được
tạo dựng theo giống hình ảnh Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã dựng con người theo
hình ảnh mình, Thiên Chúa dựa theo hình ảnh mình mà dựng nên con người có nam
có nữ” (St 1,27). Như vậy người nữ không thua kém người nam, bởi cũng mang
trong mình sự “tương tự” với Thiên Chúa. Đối với người phụ nữ, do việc xuất
hiện trên mặt đất như là hiệu quả của công trình Thiên Chúa, như lời đánh giá
sau đây cũng được ứng dụng: “ Thiên Chúa nhìn thấy những gì mình đã làm, và quả
thật là một điều rất tốt đẹp” (St 1,31). Trong viễn ảnh đó, sự khác biệt giữa
người nam và người nữ không hề bao hàm sự thấp kém của người phụ nữ hoặc sự bất
bình đẳng, nhưng tạo thành một yếu tố mới mẻ tăng sự phong phú cho kế hoạch của
Thiên Chúa, được biểu lộ như là một điều “rất tốt”.
Thế nhưng kế hoạch của Thiên Chúa còn đi xa hơn sự mặc
khải của sách Sáng thế nữa. Thực vậy nơi Đức Maria, Thiên Chúa đã gợi lên một
phụ nữ vượt xa hoàn cảnh bình thường của người phụ nữ được biểu lộ nơi sự tạo
dựng bà Eva. Sự siêu việt độc đáo của Đức Maria trong thế giới ân sủng và sự
hoàn thiện của Người là kết quả của lòng ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa, Đấng đã
muốn nâng hết mọi người, nam cũng như nữ, lên tới cấp hoàn hảo và thánh thiện
của hàng thiên tử. Đức Maria là kẻ “được chúc phúc hơn các phụ nữ”; tuy vậy, có
thể nói được rằng mỗi người phụ nữ cũng được tham dự cách nào đó vào phẩm giá
siêu việt của Đức Maria trong chương trình của Thiên Chúa.
3. Hồng ân đặc biệt dành cho Thân mẫu của Chúa không những
cho thấy điều mà chúng ta nói được là sự kính trọng mà Thiên Chúa dành cho phụ
nữ, mà còn làm sáng tỏ vai trò không thể thay thế được của người phụ nữ trong
lịch sử của nhân loại dựa theo ý định của Thiên Chúa.
Các phụ nữ cần phải khám phá sự quý trọng mà Thiên Chúa
dành cho mình ngõ hầu ý thức hơn về phẩm giá cao quý của họ. Phong trào nữ
quyền đã nổi lên để phản ứng lại một tình trạng lịch sử và xã hội không biết
tôn trọng các giá trị của phụ nữ, những kẻ thường bị gạt vào vai trò thứ yếu và
đôi khi bị gạt ra bên lề xã hội. Tình trạng này đã không cho phép người phụ nữ
biểu lộ toàn vẹn những sự phong phú của mình về trí năng và khôn ngoan của nữ
tính. Thực vậy, trải qua dòng lịch sử, nhiều lần các phụ nữ đã đau khổ vì tài
năng của họ đã bị coi rẻ và đôi khi còn bị hạ thấp và gánh chịu những thiên
kiến bất công. Đây là một tình trạng mà tiếc thay, mặc dù đã có một vài cải
tiến, nhưng vẫn còn tồn tại ngày nay ở nhiều nước và không ít lãnh vực trên thế
giới này.
4.- Dung nhan của Đức Maria đã bày tỏ sự quý trọng của
Thiên Chúa dành cho người phụ nữ, chặt đứt hết mọi cơ sở lý thuyết cho mọi hình
thức kỳ thị phụ nữ.
Công trình tuyệt diệu mà Đấng Tạo hóa đã thực hiện nơi Đức
Maria cung cấp cho hết mọi người nam nữ một cơ hội để khám phá một vài chiều
kích mà trước đây chúng ta chưa đánh giá đúng mức. Khi nhìn lên người Thân mẫu
của Chúa, các phụ nữ có thể hiểu biết hơn về phẩm giá và thiên chức cao quý của
mình. Kể cả người nam nữa, dưới ánh sáng của Đức Trinh nữ Maria, cũng có thể có
một cái nhìn toàn diện và quân bình hơn về bản sắc của người phụ nữ, về gia
đình và về xã hội.
Việc nghiên cứu kỹ lưỡng khuôn mặt của Đức Maria, theo như
Kinh Thánh trình bày và Giáo hội giải thích, cũng cần thiết để sửa chữa một vài
lối giải thích của một vài trào lưu nữ quyền, khi họ hạ giá Người. Vài tác giả
trình bày Đức Trinh nữ Nazarét như một biểu tượng của một người nữ khép kín
giữa bốn bức tường chật hẹp của gia thất.
Trái lại, Đức Maria thật là khuôn mẫu của sự phát triển
sung mãn của thiên chức phụ nữ, bởi vì, bất chấp những giới hạn khách thể áp
đặt lên điều kiện xã hội của mình, Đức Maria đã gây được một ảnh hưởng vô biên
đối với thân phận của nhân loại và đối với sự biến đổi xã hội.
5.- Ngoài ra, đạo lý về Đức Maria còn nêu bật những cách
thức khác nhau mà đời sống ân sủng có thể cổ võ nơi vẻ đẹp tinh thần của người
phụ nữ.
Đứng trước sự khai thác bỉ ổi của những kẻ muốn biến phụ
nữ thành một đối tượng không còn phẩm giá, chỉ dành cho sự thỏa mãn đam mê dục
tính, thì Đức Maria tái khẳng định giá trị cao vời của nét đẹp phụ nữ, một hồng
ân và phản ánh vẻ đẹp của Thiên Chúa.
Thoạt tiên xem ra sự hoàn hảo của người nữ được thực hiện
ở nơi Đức Maria là một trường hợp ngoại lệ, không tài nào bắt chước được, một
mẫu gương quá cao xa không thể họa lại được. Thực vậy, sự thánh thiện độc nhất
vô nhị của Đấng nhận được đặc ân thụ thai trinh khiết đã thường được coi như là
dấu hiệu của một khoảng cách không vượt qua được. Tuy nhiên, sự thánh thiện
tuyệt vời của Đức Maria, thay vì trở thành một sự ngăn cản trên con đường đi
theo Chúa, thì theo chương trình của Chúa, phải trở nên dấu chỉ khuyến khích
hết mọi Kitô hữu hãy cởi mở cho quyền năng thánh hóa của ơn Chúa: đối với Chúa
không có chi mà không thể làm được. Vì thế nơi Đức Maria, hết mọi người được
kêu gọi hãy tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa toàn năng, Đấng có thể thay đổi
con tim, dìu dắt nó tới chỗ hoàn toàn thuận nhận tiếp đón kế hoạch yêu thương
quan phòng của Người.
(Tiếp tục trong bài huấn giáo số 8: Vai trò của
người phụ nữ dưới ánh sáng của Đức Maria)
1.- Như tôi đã có dịp trình bày trong những bài huấn giáo
trước đây, vai trò mà Thiên Chúa ủy thác cho Đức Maria trong công trình cứu
chuộc đã làm sáng tỏ thiên chức của người phụ nữ ở trong đời sống của Hội thánh
và của xã hội, khi xác định sự khác biệt của người nữ so với người nam. Thực
vậy, khuôn mẫu đã được thiết định nơi Đức Maria đã cho thấy rõ đâu là đặc trưng
của nhân cách phụ nữ.
Trong thời gian gần đây, một vài trào lưu của phong trào
nữ quyền, nhằm đẩy mạnh sự giải phóng người phụ nữ, đã muốn đồng hóa hoàn toàn
người nữ với người nam. Tuy nhiên, ý định của Thiên Chúa được tỏ ra qua việc
tạo dựng, tuy muốn người phụ nữ bình đẳng như người nam về phẩm chức và giá
trị, nhưng cũng đồng thời khẳng định một cách rõ rệt về sự khác biệt và về đặc
trưng của phụ nữ. Căn tính của người phụ nữ không thể nào nằm ở chỗ là một bản
sao chép của người nam, bởi vì người nữ có những đức tính và yêu sách đặc hữu,
mang lại cho họ một sự khác biệt cần phải được cổ võ và tán trợ.
Những yêu sách và đặc trưng của nhân cách phụ nữ đã đạt
tới mức phát triển toàn vẹn nơi Đức Maria. Ơn sủng tràn trề của Chúa đã giúp
cho mọi khả năng đặc hữu người phụ nữ được phát triển toàn diện ở nơi Người.
Vai trò của Đức Maria trong công trình cứu chuộc hoàn toàn
tùy thuộc vào Đức Kitô. Đây là một chức vụ duy nhất, nằm trong kế hoạch hoàn
tất mầu nhiệm Nhập thể: chức làm mẹ của Đức Maria cần thiết để trao ban cho thế
giới Đấng Cứu chuộc, Con của Thiên Chúa thật, nhưng cũng hoàn toàn là con
người.
Sự hợp tác cần thiết của một người nữ để cho Đức Kitô đến
với trần gian đã được sáng tỏ trong sáng kiến của Thiên Chúa khi mà, qua trung
gian của thiên sứ, Ngài đã thông báo cho trinh nữ Nazarét ý định cứu rỗi của
Ngài, ngõ hầu Đức Trinh nữ có thể hợp tác một cách ý thức và tự do, bằng cách
biểu lộ sự ưng thuận của mình một cách quảng đại.
Ở đây chúng ta thấy thể hiện khuôn mẫu cao cả nhất của sự
hợp tác một cách có trách nhiệm của người phụ nữ vào việc cứu độ của con người,
- của toàn thể con người-. Khuôn mẫu này tạo thành một điểm quy chiếu cho hết
mọi khẳng định về vai trò và chức phân của người phụ nữ trong lịch sử.
2.- Khi thực hiện hình thức hợp tác cao cả đó, Đức Maria
cũng tỏ cho chúng ta thấy một phong thái, nhờ đó mà người phụ nữ cần phải diễn
tả sứ mạng của mình ra cụ thể.
Đứng trước lời loan báo của thiên sứ, Đức Trinh nữ đã
không tỏ lộ một thái độ đấu tranh kiêu hùng, cũng không đòi đáp ứng những tham
vọng cá nhân. Thánh Luca đã trình bày cho chúng ta thấy là Đức Trinh nữ chỉ ước
mong cống hiến sự phục vụ khiêm tốn của mình trong tâm tình tín thác hoàn toàn
vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của lời đáp của Người:
“Này đây tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hãy xảy ra nơi tôi điều mà Ngài đã nói” (Lc
1,38).
Thực vậy, đây không phải là một sự đón nhận hoàn toàn thụ
động, bởi vì sự ưng thuận của Người đã được bộc lộ sau khi đã trình bày nỗi khó
khăn gây ra bởi quyết định giữ mình trinh khiết, mà Người đã ôm ấp vì muốn
thuộc trọn về Chúa.
Sau khi đã nhận được lời giải đáp của thiên sứ, Đức Maria
đã lập tức bày tỏ thái độ sẵn sàng của mình, qua sự phục vụ khiêm tốn.
Chính sự phục vụ khiêm tốn quý giá mà biết bao nhiêu phụ
nữ, dõi theo gương của Đức Maria đã và đang cống hiến cho Giáo hội nhằm mở rộng
Nước Chúa.
3.- Hình ảnh của Đức Maria nhắc nhở cho các phụ nữ ngày
nay giá trị của chức làm mẹ. Trong thế giới hôm
nay, không phải lúc nào người ta cũng nhìn nhận giá trị đó một chỗ đứng quân
bình. Tại một vài nơi, hiện tượng các phụ nữ phải đi kiếm việc làm để trám vào
những yêu sách không ngừng gia tăng của gia đình và quan niệm sai lầm về tự do
đã coi việc săn sóc con cái như là một trở ngại cho sự tự lập và những khả năng
khẳng định của phụ nữ; não trạng đó đã làm lu mờ ý nghĩa của chức làm mẹ đối
với sự phát triển nhân cách phụ nữ. Ngược lại, trong một vài trường hợp khác,
người ta đề cao quá đáng khía cạnh sinh đẻ về thể chất đến nỗi đã làm mờ nhạt
những khả năng khác mà người phụ nữ có thể biểu lộ chức năng thiên phú làm mẹ.
Nơi Đức Maria, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích đáng
của thiên chức làm mẹ, được đạt tới cao điểm trong ý định cứu rỗi của Thiên
Chúa. Đối với Người, việc làm mẹ không những mang lại sự phát triển trọn vẹn
cho nhân cách phụ nữ, bởi vì người nữ đã được hướng tới việc trao ban sự sống,
nhưng mà đồng thời nó còn tạo nên một sự đáp ứng trong đức tin cho thiên chức
đặc hữu của người phụ nữ; thiên chức này chỉ đạt được giá trị chân chính trong
ánh sáng của giao ước với Thiên Chúa (tông huấn Mulieris
dignitatem, số 19).
4.- Khi chú ý ngắm nhìn Đức Maria, chúng ta khám phá nơi
Người khuôn mẫu của sự trinh khiết vì Nước Trời.
Là Trinh nữ điển hình, Người đã nuôi dưỡng trong tâm hồn
lòng ước ao muốn sống hoàn cảnh đó ngõ hầu có thể đạt tới sự thân mật khắng
khít mãi mãi với Thiên Chúa.
Đối với những người nữ được gọi vào sự khiết tịnh đồng
trinh, Đức Maria khi bày tỏ ý nghĩa cao cả của ơn gọi đặc biệt này, đã lôi kéo
chú ý đến sự phong nhiêu tinh thần mà sự trinh khiết bao hàm ở trong chương
trình của Thiên Chúa: một tình mẹ ở vào hệ trật cao cấp hơn, tình mẹ trong Chúa
Thánh Thần (tông huấn Mulieris dignitatem, số 21).
Trái tim hiền mẫu của Đức Maria, được mở rộng tới hết mọi
nỗi khổ đau của nhân loại, cũng nhắc nhở các phụ nữ rằng sự phát triển nhân
cách phụ nữ đòi hỏi sự xả thân cho tình bác ái. Rất bén nhạy với những giá trị
của con tim, người phụ nữ tỏ ra một khả năng cao cả biết trao hiến bản thân.
Đối lại với những ai vào thời đại hôm nay chỉ muốn trưng
bày những khuôn mẫu ích kỷ để khẳng định nhân cách phụ nữ, thì khuôn mặt sáng
ngời và thánh thiện của người Thân mẫu của Chúa cho thấy rằng chỉ có trong việc
trao hiến bản thân và quên mình đi vì tha nhân thì mới có thể thực hiện cách
chân chính kế hoạch Thiên Chúa dành cho cuộc đời của mỗi người.
Vì thế, sự hiện diện của Đức Maria khuyến khích các người
phụ nữ nuôi dưỡng những tâm tình trắc ẩn và liên đới đối với những hoàn cảnh
đau thương của nhân loại, và gợi lên những ý định muốn xoa dịu những nỗi khổ
cực của những người đang đau khổ: những người nghèo, những người bệnh và những
người hoạn nạn đang cần được cứu giúp. Nhờ mối dây liên kết đặc biệt với
Đức Maria, người phụ nữ trải qua dòng lịch sử thường thể hiện việc Thiên Chúa
gần gũi với nỗi mong chờ tình nhân ái âu yếm của nhân loại bị thương tổn do sự
căm thù và do tội lỗi. Họ gieo vào thế giới những mầm mống của một nền văn minh
lấy tình thương đáp lại hận thù.
Bài thứ năm: Chiều thứ Bảy Tuần thánh
Phụ Nữ Trong Các Dụ Ngôn Về Nước Trời
Trong những bài vừa qua chúng ta đã suy nghĩ về những phụ
nữ bằng xương bằng thịt đã gặp gỡ Chúa Giêsu trong cuộc đời hoạt động. Chiều
nay chúng ta muốn suy gẫm về những phụ nữ được Người nhắc đến trong các dụ ngôn
về Nước Trời (x. MD số 13), một cách cụ thể qua bốn dụ ngôn sau: 1/ người phụ
nữ vùi men trong bột (Mt 13,33); 2/ người phụ nữ đi tìm đồng tiền bị mất (Lc
15,8-10); 3/ bà góa kiên trì (Lc 18,1-8); 4/ Mười cô trinh nữ đi đón chàng rể
(Mt 25,1-13).
1/ Người phụ nữ vùi men trong bột
Dụ ngôn này nằm trong chương 13 của Matthêu. Trong chương
này, tác giả gom lại 7 dụ ngôn về Nước Trời (hoặc Nước / Vương quốc Thiên
Chúa), với đặc tính chung là thái độ hy vọng vào tương lai (Nước sẽ đến) đang
khi trung thành với bổn phận trong hiện tại.
Dụ ngôn thứ nhất là người gieo giống (13,3-9, chung cho cả
ba Nhất Lãm), rồi đến dụ ngôn về cỏ lùng (13,24-30); thứ ba là dụ ngôn về hạt
cải (13,31-32); thứ tư (nằm ở giữa) là dụ ngôn về người đàn bà vùi men
trong bột (13,33); kế đó là hai dụ ngôn về kho tàng trong ruộng (13,44) và viên
ngọc quý (13,45-46); cuối cùng là dụ ngôn chiếc lưới (13,47-50).
Dụ ngôn đang bàn rất ngắn, chỉ có một câu: “Nước trời
cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất
cả bột dậy men”. Thoạt tiên xem ra không có kết luận, nhưng đọc
trong bối cảnh của toàn chương 13, thì sẽ thấy ý nghĩa: Nước trời xảy đến cũng
giống như chuyện một phụ nữ vùi một chút men vào ba thúng bột. Công việc đơn
giản mà có lẽ các bà đã được mẹ dạy khi còn là thiếu nữ. Làm xong động tác rồi,
bà chỉ còn chờ đợi một thời gian, cho đến khi bột dậy men.
Bài học ở đây là kiên nhẫn chờ đợi: chừng nào bột dậy men?
Chừng nào Nước trời sẽ hoàn tất? Duy một mình Chúa Cha biết thôi (x. Mt 24,36).
Một chút men vùi trong bột: tượng trưng cho mầu nhiệm Nước trời, mang tính ẩn
kín; nhưng nó có sức làm cho tất cả thúng bột dậy men, nghĩa là biến đổi toàn
thể nhân loại. Dụ ngôn này cũng tương tự như người gieo giống: anh ta gieo hạt
giống, rồi chờ cho đến khi nó đâm chồi nảy hạt.
2/ Người phụ nữ tìm đồng tiền đã mất (Lc 15,8-10)
Dụ ngôn này nằm trong chương 15 của Luca, trong đó tác giả
gom lại ba câu chuyện để nói về lòng thương xót của Chúa Cha, đặc biệt là niềm
vui khi gặp lại tội nhân trở về, để trả lời cho những lời cáo buộc Đức Giêsu
gần gũi phường tội lỗi. Thứ tự đi từ thấp lên cao: dụ ngôn về con chiên lạc
(câu 3-7); du ngôn về đồng tiền rơi mất (câu 8-10), và tột đỉnh là đứa con
hoang đàng (câu 11-30). Nói ngược lại cũng được: cao điểm là bữa tiệc hân hoan
mà Thiên Chúa thiết đãi người con trở về; nó được chuẩn bị bằng một dụ ngôn
nhìn từ phía người nam (một ông chủ có 100 con chiên) và từ phía người nữ (một
bà có 10 quan tiền). Tất cả ba dụ ngôn đều cho thấy rằng quan điểm của Thiên
Chúa khác xa sự tính toán của chúng ta: bỏ 99 con chiên tốt để tìm một con
chiên lạc. Dụ ngôn về người nữ cho thấy việc đi tìm rất là tỉ mỉ, kỹ lưỡng,
không bỏ qua một ngóc ngách nào hết, cho đến khi tìm thấy đồng tiền. Thiên Chúa
cũng đi tìm chúng ta như vậy đó. Và nếu chúng ta để cho tình yêu của Ngài ôm ấp
thì Ngài sẽ vui mừng khôn tả, Ngài sẽ chia vui với tất cả triều thần thiên
quốc.
"Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng
may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ
được ? 9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: `Xin
chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.“ 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên
Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."
3/ Dụ ngôn về bà góa kiên trì (Lc 18,1-8)
Dụ ngôn này được Luca đặt giữa lời loan báo về Triều đại
Thiên Chúa đến bất chợt (17,20-37) và dụ ngôn về hai người (Pharisêu và thu
thuế) lên đền thờ cầu nguyện (18,9-14). Chúng ta hãy đọc bản văn:
1 Đức
Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn,
không được nản chí. 2 Người nói : "Trong thành kia, có một ông quan toà.
Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3 Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần
đến thưa với ông : `Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.“ 4 Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng,
ông ta nghĩ bụng : `Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai
ra gì, 5nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo
mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.“" 6 Rồi Chúa nói : "Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói
đó ! 7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ
Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao ? Lẽ nào Người bắt họ
chờ đợi mãi ? 8 Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho
họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa
chăng ?"
Ở đầu dụ ngôn, tác giả cho biết ý nghĩa của nó, đó là phải
cầu nguyện liên lỉ, không mệt mỏi. Hai nhân vật chính là quan tòa và bà góa. Bà
góa tượng trưng cho thành phần yếu ớt trong xã hội, thường bị lãnh quên. Tuy
nhiên, ở đây bà không xin ân huệ mà chỉ xin công lý: bà yêu cầu quan tòa phán
quyết cho quyền lợi của bà đã bị đối phương vi phạm. Kết quả là bà được toại nguyện,
sau khi trải qua nhiều vất vả, bởi vì quan tòa là người bất chính, chẳng đếm
xỉa đến Thiên Chúa hoặc công lý.
Dụ ngôn này muốn mời gọi chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện,
cách riêng bởi vì Thiên Chúa thì khác hẳn các thẩm phán trên đời: Ngài công
minh, biết điều gì hợp lý cho người kêu xin. Trên thực tế, đâu là vấn đề? Thưa
là chúng ta cầu nguyện nhiều mà chẳng được đáp ứng; vì thế ta dễ bỏ cuộc! Nói
cách khác, chúng ta thiếu đức tin, như Chúa nói trong kết luận ở câu 8: “Khi
Con Người ngự đến, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” Thế nào là
thiếu đức tin? thiếu đức tin rằng Thiên Chúa sẵn sàng nghe lời ta cầu nguyện,
nếu là cầu nguyện chân chính. Lời nguyện kiên trì chưa đủ; cần nhiều đức tính
khác nữa. Dụ ngôn kế tiếp về người Pharisêu và người thu thế lên đền thờ nhắc
ta điều ấy. Anh biệt phái lợi dụng buổi cầu nguyện để biểu dương chính mình,
thay vì chúc tụng Thiên Chúa. Vì thế lời cầu của anh không được chấp nhận: anh
ra khỏi đền thờ mà không được nên công chính. Nên biết là Sách Giáo lý Hội
thánh Công giáo (số 2613) còn nhắc thêm một dụ ngôn nữa về sự cầu nguyện trong
Phúc âm Luca, đó là “người bạn quấy rầy” (Lc 11,5-13).
4/ Mười cô trinh nữ (Mt 25,1-13)
Dụ ngôn này nằm trong bài giảng cánh chung của Matthêu
(chương 24-25). Trong khung cảnh này, tác giả kể ra bốn dụ ngôn: về người đầy
tớ trung tín (24,45-51); về mười trinh nữ (25,1-13); về những yến bạc
(25,14-30). Giữa ba dụ ngôn này có điểm trùng nhau và khác biệt (như vậy là bổ
túc cho nhau. Dụ ngôn thứ nhất (24,45-51) nêu bật tôi tới trung tín và khôn
ngoan. Dụ ngôn các cô trinh nữ đào sâu khía cạnh khôn ngoan. Dụ ngôn thứ ba đào
sâu khía cạnh trung tín. Điểm chung cho cả ba là chờ đợi, vì có sự chậm trễ,
hay nói đúng hơn, không biết khi nào ông chủ đến. Cả ba dụ ngôn đều cho thấy
những phản ứng trái ngược: a) người tôi tớ trung tín và khôn ngoan đối lại với
người tôi tớ lạm quyền xử tệ với đồng bạn; b) có những cô khôn ngoan và những
cô khờ dại; c) có hai người tôi tớ trung tín nhưng có một người lười biếng. Cả
ba đều dẫn tới một kết luận là cuối cùng sẽ có một cuộc phân xử để định rõ phải
trái.
Dụ ngôn đang bàn nói đến 10 trinh nữ đi đón chàng rể,
nhưng không thấy đả động đến cô dâu. Phải chăng cô đã đến nhà rồi, vì thế chỉ
cần chàng rể đến là mở tiệc mừng? Một điểm khó hiểu nữa là cả 10 đều thiếp ngủ
hết: như vậy có trái với lời khuyên răn phải tỉnh thức chờ đợi không? (câu kết
13: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”) Hai điểm
này không được bản văn nói đến. Chỉ có sự đối chọi giữa một bên là 5 cô mang
theo dầu, và bên kia là 5 cô không mang theo dầu. Các cô này phải chạy ra quán
mua, nhưng khi đến nhà thì cửa đã đóng lại. Các cô bị từ chối không được vào dự
tiệc.
“Dầu” được hiểu như thế nào? Phải chăng đó là những việc
tốt lành, những việc bác ái cho tha nhân, như sẽ nói ở cuối chương 25 (câu
31-46 về sự phán xét chung)? Phải chăng nếu ai đã làm việc lành thì cứ yên trí
ngủ? Có lẽ ở đây, ngủ mang một ý nghĩa ám dụ (giấc ngủ của cái chết, bước sang
thế giới bên kia), chứ không phải là ăn no ngủ kỹ, là điều các tôi tớ khôn
ngoan cần phải tránh. Điều quan trọng là phải liệu cho đèn luôn được thắp sáng
nhờ những việc lành (theo sách Châm ngôn 13,9).
Kết luận
Phúc âm đã kể lại Nước Trời bằng những dụ ngôn lấy từ
những kinh nghiệm quen thuộc của đời sống hằng ngày. Nhưng ta cũng có thể nói
ngược lại: chính những công việc quen thuộc của đời sống hằng ngày có thể trở
nên cơ hội để ta xây dựng Nước Trời, để đáp lại tình yêu của Chúa.
Bài 6. Đêm
Vọng Phục Sinh
Những phụ nữ tuyên xưng đức tin
Chiều hôm qua chúng ta đã suy gẫm những phụ nữ đi theo
Chúa Giêsu ngay từ khi bắt đầu sứ vụ. Họ đã đi theo Người cho đến cùng, nghĩa
là cho đến lúc Chúa chịu chết trên thập giá và được mai táng. Chúng ta cũng đã
lưu ý đến lối trình bày “liên hoàn” của các tác giả Tin mừng, nghĩa là các phụ
nữ là những chứng nhân của cuộc tử nạn – an táng – và phục sinh của Chúa. Chúng
ta sẽ trở lại đề tài này trong Thánh lễ ngày mai đặc biệt với bà Maria Magdala;
còn đêm nay chúng ta chú ý các phụ nữ đã tuyên xưng đức tin. Lát nữa đây, chúng
ta cũng sẽ tuyên xưng đức tin qua việc lặp lại những lời hứa khi lãnh bí tích
Thánh Tẩy. Việc loan báo Tin mừng giả thiết niềm thâm tín gắn bó với Chúa Cứu
thế: “Tôi đã tin cho nên tôi mới nói”. Chúng ta sẽ dừng lại cách riêng nơi ba
nhân vật được kể lại trong Tin mừng thứ bốn, đó là: người phụ nữ Samaria, bà
Marta, và bà Maria Bêtania.
I. Phụ nữ Samaria
Khi đọc Tin mừng thứ bốn, chúng ta nhận thấy khung cảnh
của nó khác với Tin mừng nhất lãm. Thánh Gioan ít khi trình bày Chúa Giêsu xuất
hiện giữa đám đông; Ngài thích những cuộc tiếp xúc cá nhân, để đối thoại. Điều
này được nhận thấy ngay từ những chương đầu của tác phẩm: cuộc đối thoại với
thân mẫu ở tiệc cưới Cana, với ông Nicôđêmô, với bà Samaria. Khung cảnh đối
thoại giúp đi sâu vào nhiều điểm then chốt của đức tin. Trong cuộc đối
thoại với bà Samaria, xem ra chủ đề quan trọng có liên quan đến đức tin là
“Nước”: Đức Giêsu là Nước ban sự sống. Đó cũng là lối nhìn của Phụng vụ khi
tuyên đọc bài này vào Chúa nhật thứ ba Mùa Chay (Năm A); hai Chúa nhật tiếp
theo sẽ khai triển đề tái “Ánh Sáng” và “Sự sống lại”. Còn nhiều lối tiếp cận
khác nữa, chẳng hạn như về sự thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật,
một đề tài mà Chúa Giêsu muốn giải thích cho bà. Chúng ta chỉ muốn chú trọng
đến cách thức Chúa nói chuyện với một người phụ nữ, ngoại đạo, ngoại tình. Đây là
một sự xé rào quan trọng đối với xã hội thời đó, nhưng với kết quả là chị ta
trở nên người sứ giả đầu tiên loan báo Tin mừng.
Để nắm bắt ý nghĩa của câu chuyện, chúng ta cần hiểu bối
cảnh văn hóa xã hội đương thời, cách riêng là hoàn cảnh của nhân vật chính. Thứ
nhất, các bà không được phép tiếp xúc riêng tư với nam giới. Khi khách đến nhà,
các bà phải rút lui vào phòng riêng hoặc xuống bếp; còn bà này lại gặp gỡ một
người đàn ông bên bờ giếng, là nơi hẹn hò của tình nhân. Thứ hai, người Do thái
và người Samari là thù địch với nhau, về chính trị cũng như về tôn giáo (x. Lc
9,51; Ga 8,48). Hai bên không tiếp xúc với nhau. Người Galilê cố gắng tránh đi
ngang qua xứ Samaria mỗi khi phải lên Giêrusalem (x. Mt 10,5). Cần phải biết
bối cảnh đó thì mới hiểu được sự táo bạo của Chúa Giêsu khi ca ngợi người
Samari nhân hậu cứu giúp một người lâm nạn (Lc 10,33), hoặc khi ghi nhận rằng
chỉ có người Samari trong số 10 người được chữa khỏi bệnh phong trở lại tạ ơn
Chúa (Lc 17,16). Tuy nhiên, điều đáng ghi nhận là Chúa gặp gỡ người phụ nữ này
đang khi các môn đệ đi kiếm lương thực, và khi trở về thì họ ngạc nhiên không
phải vì Chúa nói chuyện với một người Samari nhưng vì Chúa nói chuyện với một
phụ nữ (câu 27). Ngoài ra, qua câu chuyện, chúng ta biết rằng bà này đã sống với
năm người đàn ông mà không phải là chồng của bà. Có lẽ đây là mộtcách nói
bóng nói gió để cho thấy rằng bà còn tệ hơn những người ngoại tình nữa!
Bất chấp những thành kiến ấy, Chúa Giêsu đã đối thoại với
chị, không phải là chuyện thời sự (thời tiết nóng lạnh, giá cả hàng hóa) hoặc
chuyện sức khỏe cá nhân, nhưng là câu chuyện thần học về đức tin. Đôi bên trân
trọng lẫn nhau, và dám đề cập những câu chuyện hóc búa về tôn giáo; nhìn dưới
viễn cảnh của thánh Gioan, đó là bàn luận về tiến trình của đức tin. Đức tin là
một tiến trình, trải qua nhiều chặng. Chúa Giêsu khởi đầu từ một câu chuyện
thực tế khi ngồi bên bờ giếng nước, tức là nước uống, rồi bước sang câu chuyện
thờ phượng Thiên Chúa, để rồi đi đến thần học về Đấng Mesia. Một sợi chỉ liên
kết tất cả các đề tài ấy với nhau là “ân huệ Thiên Chúa”, được gợi lên ngay từ
lúc mở đầu: “Giả như chị nhận ra ân huệ của Thiên Chúa” (câu 10). Ân huệ ấy
chính là ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến cho những ai biết đón nhận.
Chúa Giêsu không ngần ngại đàm đạo với người phụ nữ về
những đề tài ấy, nghĩa là Người đã vượt lên trên thành kiến đương thời về phụ
nữ. Đối lại, người phụ nữ nhận thấy mình được kính trọng, vì thế không ngần
ngại gì bộc lộ hết tâm can, kể cả đời tư của mình. Chị sẵn sàng đặt mình trong
tư thế học hỏi, tìm hiểu sự thật. Và chị đã được nghe sự thật: sự thật về tình
trạng rối ren của mình, và sự thật về tình yêu Chúa dành cho chị.
Điều thú vị là hồi kết của câu chuyện. Chị ta đã đi vào
làng kể lại cho đồng bào của mình rằng Đấng Mêsia đã tỏ mình cho chị. Và thánh
Gioan ghi nhận rằng “nhiều người đã tin vào lời chị nói”. Chị trở thành người
loan báo Tin mừng tiên khởi của Kitô giáo. Hôm nay là lễ Phục sinh, chúng
ta vẫn nghĩ rằng bà Maria Magđala là người đầu tiên rao giảng Tin mừng, nhưng
kỳ thực trước đó khá lâu, người phụ nữ Samaria đã đi loan báo Tin mừng về Đức
Giêsu là Mêsia; hơn thế nữa, lời giảng của chị đã mang lại kết quả, vì có nhiều
người tin theo lời của chị (câu 39.42).
II. Lời tuyên xưng của bà Marta
Mỗi lần nghe nói đến Marta, chúng ta liền liên tưởng đến
câu chuyện hai người chị em đón tiếp Chúa tại nhà; và bà ta đã bị Chúa trách vì
quá xao xuyến. Nhưng đó là trình thuật theo thánh Luca mà chúng ta đã suy gẫm
trong Thánh lễ chiều thứ Năm. Tác giả của Tin mừng thứ bốn, ở chương 11, trình bày
cho chúng ta một bức chân dung khác về bà Marta, khi kể lại chuyện ông Ladaro
được Chúa cho sống lại.
Ngay từ những câu đầu tiên, tác giả đã giới thiệu khung
cảnh, đó là các bà chị sai người đến thông tin cho Chúa biết là ông Ladaro “bạn
của Chúa” đang bị bệnh (câu 3). Vài dòng kế tiếp, tác giả bình luận thêm rằng
Chúa yêu thương ông cũng như các bà chị của ông (câu 5). Như vậy, câu chuyện
xảy ra trong một cộng đoàn tình yêu. Chúng ta có thể hiểu từ ngữ này theo nghĩa
tự nhiên (bạn hữu) hay theo nghĩa siêu nhiên cũng được (Chúa Giêsu gọi tất cả
các môn đệ là bạn hữu, bởi vì Người đã mặc khải Chúa Cha cho họ: Ga 15,13-15).
Điều quan trọng là cần có đức tin mới có thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa
đối với nhân loại. Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu bằng những đường lối không như
chúng ta quan niệm, bởi vì (như mọi người điều biết), tình yêu Thiên Chúa được
tỏ lộ qua thập giá của Đức Kitô, chứ không phải qua sự xuất hiện của một vị
Mêsia oai hùng.
Bà Marta cũng cần phải trải qua một cuộc thanh luyện đức
tin như vậy. Lúc đầu, bà nhắn tin cho Chúa là người bạn đang bệnh, và mong Chúa
đến gấp để chữa. Ai ngờ, Chúa để cho người bạn chết rồi Ngài mới đến. Vinh
quang của Chúa biểu lộ qua một tình thế xem ra vô phương cứu chữa dưới cái nhìn
tự nhiên.
Bà đã có lý khi trách Chúa đến quá muộn: “Giả như Thầy ở
đây thì chắc là em con không chết” (câu 21). Bà chưa hình dung được làm thế nào
một người chết có thể sống lại đươc trước ngày tận thế (câu 22). Chính trong
hoàn cảnh bi đát đó mà Chúa mới mặc khải một chân lý đức tin cho bà biết:
“Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng
sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (câu 25-26).
Bà Marta được mời gọi hãy chuyển từ lòng tin vào Chúa Giêsu dựa trên tình cảm
bạn hữu tự nhiên, và kể cả theo lòng tin của đạo Do thái, để bước sang đức tin
của mặc khải mới: tin vào Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Chúa hỏi
bà: “Con có tin như vậy không?”
Bà đã đạt được hồng ân ấy, khi thốt lên lời tuyên xưng:
“Lạy Chúa, con tìn rằng Ngài là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế
gian” (câu 27). Đây cũng là lời tuyên xưng của ông Simon Phêrô, được ghi lại
trong Tin mừng nhất lãm: “Thầy là Đấng Mêsia (Kitô), Con Thiên Chúa hằng sống”
(Mt 16,16; x.Mc 8,29; Lc 19,20). Sau lời tuyên xưng ấy, Chúa Giêsu đã nói với
ông rằng đây là một ân huệ mặc khải, chứ không phải suy tư tự nhiên đâu (Mt
16,17). Dĩ nhiên, ta cũng phải nói như vậy về bà Marta. Có điều là chúng ta
thường chỉ trưng dẫn lời tuyên xưng của ông Phêrô, chứ không mấy khi nghĩ đến
bà Marta, bởi vì chúng ta bị ám ảnh bởi chân dung của một phụ nữ chạy lăn xăn
trong bếp.
III. Bà Maria và hương thơm Tin mừng
Như vừa nói, mỗi lần nghe đến bà Marta, chúng ta vội nghĩ
đến cảnh hai chị em đón tiếp Chúa Giêsu vào nhà: một bà ngồi nghe lời Chúa, một
bà bận rộn với việc cơm nước. Tuy nhiên, đó là bức tranh của Luca (10,38-42).
Sang đến Tin mừng Gioan thì ta có bức chân dung khác. Khi kể lại việc ông
Ladaro được Chúa cho sống lại, bà Marta được giới thiệu như là một kẻ tuyên
xưng đức tin. Bà Maria cũng xuất hiện trong chương 11, nhưng không có gì nổi
bật: bà chỉ khóc và trách Chúa Giêsu đã đến muộn (câu 32); thế rồi không hiểu
tại sao mà Chúa cũng khóc theo bà (câu 34). Nhưng bước sang đầu chương 12 (câu
1-8), thì bà Maria trở thành nhân vật chính của một hành động mang tính ngôn
sứ, đó là xức dầu để báo trước cái chết và sự phục sinh của Chúa. Câu chuyện
một phụ nữ xức dầu thơm lên đầu Chúa ở Bêtania cũng được thuật lại trong
Matthêu (26,6-13) và Marco (14,3-9), tuy hai tác giả này không nêu rõ danh
tánh. Nên biết là trong quá khứ, việc xức dầu này được đồng hóa với việc xức
dầu của người phụ nữ tội lỗi được Luca nói đến ở chương bảy (7,36-50), vì thế
bà ấy cũng được đồng hóa với người chị em của Marta và Ladaro, về sau sẽ đi
truyền giáo ở Marseille và miền Nam nước Pháp.
Theo Tin mừng Gioan, hôm ấy Chúa Giêsu đến nhà bà Marta và
dự tiệc, và lần này, nhiều người khác cũng hiện diện, trong số đó có ông
Ladaro. Đang bữa ăn, bà Maria bước vào, mang một cân dầu thơm cam tùng nguyên
chất và quý giá để xức chân cho Chúa và lấy tóc mình mà lau. Bà chẳng nói lời
nào hết. Tại sao bà làm như vậy? Có thể đoán được là để tỏ lòng biết ơn Chúa vì
đã cho em mình đã được hồi sinh. Nhưng Chúa lại hiểu cách khác, và giải thích
cho những người hiện diện để bênh vực hành động của cô trước sự chỉ trích của
ông Giuđa Iscariot. Ông nói: "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm
quan tiền mà cho người nghèo ?"… Chúa Giêsu trả lời :
"Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng
Thầy. Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh
em không có mãi đâu."
Có lẽ lúc đầu câu nói của Chúa chỉ muốn ca ngợi tình yêu
không tính toán, không vị lợi của bà Maria, nhằm trả lời cho lời tố cáo phung
phí. Nhưng bên cạnh đó, Chúa còn muốn gán cho nó một ý nghĩa tiên tri: sự xức
dầu này tiên báo việc ngài sẽ chịu chết và mai táng. Việc xức dầu trên tử thi
thuộc về nghi thức tẩm liệm theo phong tục Do thái.
Có nhà chú giải nêu bật một chi tiết khá thú vị. Thánh
Gioan thuật lại rằng khi bà Maria xức chân cho Chúa Giêsu thì “cả nhà sực mùi
thơm” (Ga 12,3). Trong chương trước (Ga 11,39), bà Marta nói rằng thân xác
Ladaro trong mồ đã nặng mùi (hiểu là mùi thối); còn bây giờ, dầu thơm chạm đến
thân xác Chúa Giêsu tỏa ra hương thơm: phải chăng đó cũng là một lối nói tiên
tri về việc Chúa Giêsu chiến thắng sự chết, chiến thắng sự hủy diệt của thân
xác trong mồ, như sẽ nói trong bài giảng của thánh Phêrô trong sách Tông
đồ công vụ (Cv 2,24.27.31)?
Sau cùng, có lẽ cử chỉ của bà Maria còn mang thêm một ý
nghĩa khác nữa: đó là bà trở thành dấu chỉ của cuộc đời hy sinh của Chúa Giêsu.
Sang đến chương 13, thánh Gioan thuật lại việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn
đệ, như là bài học về yêu thương và phục vụ trong cộng đoàn (Ga 13,14). Phải
chăng bà Maria đã đi bước trước? Hơn thế nữa, cả cuộc đời của Chúa là một sự hy
sinh vô vị lợi, không tính toán. Cử chỉ của bà Maria đã chẳng muốn nói lên điều
đó sao?
Kết luận
Chúng ta đã học hỏi ba mẫu gương tuyên xưng đức tin và
loan báo Tin mừng dựa theo thánh Gioan. Người phụ nữ Samaria đã mang Tin mừng
cho dân ngoại ngay cả trước khi Chúa sống lại: đó là một cử chỉ ngôn sứ. Bà
Marta đã tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu như là Mêsia, là Con Thiên Chúa; bà
đã đi từ một tình cảm bạn hữu tự nhiên lên đến đức tin theo mặc khải Tân ước.
Bà Maria Bêtania đã thực hiện một hành động ngôn sứ: bà làm chứng nhân cho cuộc
Tử nạn và Phục sinh của Đức Kitô không bằng lời nói nhưng bằng hành vi trao
hiến vô vị lợi. Cầu xin cho tất cả chúng ta cũng noi gương ấy, nhờ ánh sáng Chúa
Phục sinh và trong sức mạnh của Thánh Linh tình yêu.