Tĩnh
tâm với Tin Mừng theo thánh Gio-an - Bài 1
Tác giả: Nguyễn Công Đoan S.J., ngày 17
tháng 4 năm 2018
Đọc Tin
Mừng theo Thánh Gio-an ta thường thấy thích thú, đồng thời cũng cảm thấy “chóng
mặt”. Dựa trên hình ảnh bốn sinh vật trong thị kiến về xa giá của Thiên Chúa
trong sách Ê-dê-ki-en, truyền thống đã dùng làm hình ảnh tượng trưng của bốn
sách Tin Mừng :
“4 Tôi nhìn, thì kìa một
cơn gió bão từ phương Bắc thổi đến ; có đám mây lớn, có lửa loé ra và ánh
sáng chiếu toả chung quanh ; ở chính giữa như có một kim loại lấp lánh, ở
chính giữa lửa. 5 Ở chính giữa, có cái gì tựa như
bốn sinh vật. Đây là dáng vẻ của chúng : chúng trông giống như người
ta. 6 Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn cánh. 7 Còn
chân của chúng thì thẳng ; bàn chân tựa bàn chân con bê, lấp lánh như đồng
sáng loáng. 8 Bên dưới cánh, có những bàn tay giống tay
người quay về bốn phía ; mặt và cánh của bốn sinh vật cũng đều như
thế. 9 Cánh của chúng giáp vào nhau. Lúc đi, chúng không
quay mặt vào nhau, nhưng cứ thẳng phía trước mặt mà tiến.10 Còn
bộ mặt của chúng, thì chúng đều có mặt người, cả bốn đều có mặt sư tử bên phải,
cả bốn đều có mặt bò rừng bên trái, cả bốn đều có mặt phượng hoàng. 11 Đó
là mặt của chúng. Còn cánh của chúng thì giương lên cao. Mỗi sinh vật có hai
cánh giáp vào nhau và hai cánh khác phủ thân mình. 12 Chúng
cứ thẳng phía trước mặt mà đi, thần khí đẩy phía nào, chúng đi phía đó ;
lúc đi chúng không quay mặt vào nhau.
13 Ở
giữa các sinh vật ấy, có cái gì giống như than hồng rực lửa, giống như ngọn
đuốc, đang di chuyển giữa các sinh vật. Lửa phát ra ánh sáng và từ lửa phóng ra
những tia chớp. 14 Các sinh vật đi đi lại lại nhanh như
chớp” (Ed 1,4-14).
Bốn sinh vật làm thành cỗ xe (xa giá)
của Thiên Chúa : mỗi sinh vật đều mang bốn khuôn mặt, quả là một hình ảnh
đẹp để diễn tả bốn sách Tin Mừng. Bốn cuốn sách khác nhau trình bày cùng một
Tin Mừng, nhưng mang bốn khuôn mặt khác nhau. Bốn sinh vật làm thành xa giá của
Thiên Chúa, bốn sách Tin Mừng là “xa giá” của Đức Giê-su Ki-tô để di chuyển đến
tận cùng trái đất và mọi loài thụ tạo.
“Mặt người” tượng trưng cho Tin
Mừng Mát-thêu, vì sách này bắt đầu với gia phả, kể nguồn gốc Chúa
Giê-su trong dòng dõi loài người,
“Mặt sư tử” tượng trưng cho Tin
Mừng Mác-cô, vì sách này mở đầu với tiếng hô trong hoang địa,
“Mặt bò rừng” tượng
trưng cho Tin Mừng Lu-ca, vì sách này mở đầu với việc tư tế Da-ca-ri-a phục vụ
trong Đền Thờ,
“Mặt phượng hoàng” tượng trưng
cho Tin Mừng Gio-an, vì sách này mở đầu với nguồn gốc Chúa Giê-su từ cung lòng
Thiên Chúa. Phương hoàng vẫn là loài chim bay cao tận đỉnh trời. Chúng ta chóng
mặt vừa vì lối văn của Gio-an, vừa vì nội dung luôn nối kết đất với trời nhằm
giúp chúng ta “tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa, và để nhờ
tin mà được sự sống đời đời.” (Ga 20,31)
Thêm vào đó, chúng ta hay bị “nhồi sọ”
rằng sách Tin Mừng Gio-an cao siêu, khó hiểu. Cao siêu thì chắc chắn rồi, nhưng
khó hiểu hay không là tùy ta có tìm được hay không chìa khóa để vào lâu
đài và nút bật đèn cho có ánh sáng dẫn đường đưa tới kho tàng trong
lâu đài là Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa.
* * *
Lời Tựa chính là Chìa khóa được
cắm sẵn ở cửa. Nút bật đèn soi dưới chân cũng được chỉ dẫn ở
ngay cửa, đó là toàn bộ Cựu Ước : từ sách Sáng Thế tới các
sách Khôn ngoan.
·
1 Lúc khởi đầu đã có
Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
3.
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và
không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành (Ga 1,
1-3) … Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn
này đến ơn khác.
17.Quả thế, Lề Luật đã
được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ
Đức Giê-su Ki-tô mà có.
18 Thiên Chúa, chưa bao
giờ có ai thấy cả ; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi
cung lòng Chúa Cha, chính Người đã kể cho chúng ta biết.”
Còn nút bật đèn soi
từ trên trần xuống, lại đặt ở cuối hành lang, khi Chúa phục sinh đến và
đứng giữa nhóm Mười Một :
“19 Vào chiều ngày ấy,
ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ
người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : "Bình an
cho anh em !" 20 Nói xong, Người cho các ông xem
tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người
lại nói với các ông : "Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai
Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và
bảo : Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho
ai, thì người ấy được tha : anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm
giữ” (Ga 20,19-21).
Trong bữa ăn cuối cùng với họ, Chúa
Giê-su đã nói rõ :
“16 Thầy sẽ xin Chúa Cha
và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn
mãi. 17 Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế
gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn
anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14,16-17).
“12 Thầy còn nhiều điều
phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. 13 Khi
nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người
sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói
lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.14 Người
sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.15 Mọi
sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói : Người lấy những gì
của Thầy mà loan báo cho anh em. (Ga16,12-15).
Thần Khí mà Chúa Giê-su xin Cha gởi đến
vừa là Thần Khí của sự thật, vừa là ơn tha tội. Các lời hứa Giao Ước Mới trong
sách I-sai-a (54,1), Giê-rê-mi-a (31,33-34), Ê-dê-ki-en đều
bao gồm ơn tha tội và ơn “biết” Thiên Chúa, tức là hai mặt của tương quan mới
với Thiên Chúa trong Giao Ước mới, như Giê-rê-mi-a loan
báo :
“33 Đây là giao ước Ta
sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ ghi
vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là
Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. 34 Chúng
sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia : "Hãy học
cho biết ĐỨC CHÚA", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn,
sẽ biết Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ tha thứ tội ác cho
chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.
Ê-dê-ki-en cho biết cả ơn tha
tội và ơn biết Thiên Chúa đều do tác động của Thần
Khí của Thiên Chúa :
“25 Rồi Ta sẽ
rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi
sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. 26 Ta sẽ ban tặng
các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta
sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một
quả tim bằng thịt. 27 Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt
vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các
phán quyết của Ta và đem ra thi hành. 28 Các ngươi sẽ cư
ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn
Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi. 29 Ta sẽ cứu các ngươi
khỏi mọi ô uế” (Ed36,25-28).
Chúa Giê-su đã thiết lập Giao Ước Mới
bằng Máu của Người, “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.” (Ga 1,29).
Từ trên thập giá, Người đã trao hơi thở [Thần Khí], như khi tạo dựng Thiên Chúa
đã thổi hơi vào lỗ mũi con người (x. St2,7). Khi đã phục sinh Chúa
đến thổi hơi vào các môn đệ và nói : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”
(Ga 20,22).
Các môn đệ đã sống với Chúa Giê-su cũng
chỉ hiểu được Mầu nhiệm Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, là Con Thiên Chúa nhờ luồng
sáng của Lời Chúa trong Cựu Ước và Thánh Thần. Các sách Tin Mừng được viết ra
cho chúng ta là do Thánh Thần linh hứng và đều quy chiếu vào Cựu Ước để giải
nghĩa nhiệm mầu cho chúng ta khi kể cho chúng ta nghe lời Chúa Giê-su đã nói và
việc Chúa đã làm.
Các khoa học liên quan tới Thánh Kinh
(lịch sử, khảo cổ, ngôn ngữ, các phương pháp phân tích…) giúp ta hiểu nhiều
điều bằng trí tuệ. Nhưng Thánh Kinh là Lời Chúa do Thánh Thần linh hứng cho các
tác giả viết ra, để đưa chúng ta vào mầu nhiệm của Thiên Chúa, vào kế hoạch cứu
độ, ý định bày tỏ lòng yêu thương của Thiên Chúa, nên các khoa học nghiên cứu
chỉ giúp chúng ta thỏa mãn trí tuệ, chứ không đưa được chúng ta vào trong Thiên
Chúa, trong tình yêu của Thiên Chúa. Người ta có thể tìm được một bức thư tình
của một nhân vật nổi tiếng và dùng mọi phương pháp phân tích để giải nghĩa, kể
cả xác minh xem tác giả có đúng là người mà người ta nghĩ không, nhưng chẳng ai
có thể vào được trong những tâm tình mà bức thư muốn truyền tải, ngoài hai
người trong cuộc của mối tình ấy. Kinh Thánh là bức thư tình xuyên thế kỷ của
Thiên Chúa hằng sống, do Thánh Thần của Thiên Chúa - là chính Tình Yêu nối kết
Cha và Con trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, và nối kết người đón nhận Tình
Yêu của Thiên Chúa vào trong mầu nhiệm của Thiên Chúa Tình Yêu – dùng con người
để viết, và đầu bên kia, người nhận thư, bất cứ ai đón nhận bức thư ấy là bức
thư viết cho đích danh mình, và để cho Tình Yêu ấy cuốn mình vào trong lòng Ba
Ngôi Thiên Chúa, vì chỉ có “Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu
thẳm nơi Thiên Chúa” ví như nơi con người, “ai trong loài người biết
được những gì nơi con người, nếu không phải là thần trí của con người trong con
người” (x. 1 Cr 2,10-11). Vậy thì chỉ có sự gặp gỡ
giữa Thần Khí Thiên Chúa với thần trí con người mới đưa con người vào
trong mầu nhiệm của Thiên Chúa Tình Yêu qua bức thư tình của Thiên Chúa. Một
chuyên viên Thánh Kinh có thể giảng dạy, viết hàng trăm cuốn sách về Kinh
Thánh, rất bác học uyên thâm, giống như bất cứ nhà bác học nào khác trong ngành
chuyên môn của họ, nhưng chưa chắc đã đón nhận đó là bức thư tình của Thiên
Chúa gởi cho đích danh mình. Trái lại một người quê mùa chất phác, chỉ nhớ được
vài câu khi nghe đọc trong thánh lễ, nhưng lại sống như là lời của Trái Tim
Thiên Chúa nói với trái tim mình, ban sức sống để soi sáng và ban sức sống cho
mình suốt đời. Thời các tông đồ đã có bao nhiêu nhà thông luật ngày đêm nghiên
cứu Kinh Thánh mà Chúa Giê-su nhắc đến : “Các ông nghiên cứu Kinh
Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông tìm được sự sống đời đời. Mà Kinh Thánh
làm chứng về tôi. Các ông không muốn đến cùng tôi để tìm được sự sống” (Ga 5,39-40).
Các môn đệ của Chúa cũng đã từng học với các chuyên gia ấy, rồi đã được ở với
Chúa mấy năm trời mà vẫn chưa hiểu, cho tới khi Chúa Phục Sinh “giải huyệt ngu”
cho các ông : “Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”
(Lc24,45). Nội lực để “giải được huyệt ngu” chính là Thánh Thần mà Chúa
Phục Sinh đem cho các ông và cho chúng ta hôm nay (Lc 24,49).
Tôi nhớ có một bài của một nhà thơ Việt
Nam thế kỷ 20, tựa đề “lời mẹ dặn” : “Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ
bảo là ghét - dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu - dù ai
ngon ngọt nuông chiều, cũng không nói yêu thành ghét”. “Lời mẹ dặn”
ấy cùng với tình yêu của mẹ sẽ soi sáng cả cuộc đời của người con, sống trung
thực, dù phải trá giá bằng chính mạng sống mình. Trong lịch sử Việt Nam, chúng
ta có một nhân vật rất nổi tiếng đã thay đổi dòng lịch sử : vì lòng hiếu
thảo, ông quyết theo cha, sống chết với cha, lúc ấy bị quân Tàu bắt đem về bên
kia biên giới. Nhưng tới biên giới thì cha ông bảo ông quay về, vì nợ nước nặng
hơn tình nhà. Ông vâng lời cha quay về và đã giúp vua Lê Lợi xoay lại dòng lịch
sử, giải phóng dân ta khỏi ách đô hộ của phương Bắc. Một lời người cha nói với
người con đủ thay đổi không chỉ cuộc sống của một người con, mà thay đổi vận
mạng, lịch sử của cả một dân tộc.
Một lời thôi, vâng chỉ một lời của một
người cha được người con đón nhận đã giúp thay đổi vận mạng cả một dân tộc, từ
thân nô lệ phương Bắc lại hiên ngang làm Con Rồng Cháu Tiên, ngày ngày đứng
trên mảnh đất bé nhỏ hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương, đón nắng mặt trời lên
thẳng từ chân trời, không bị bóng đế quốc nào che khuất ! Việt Nam quê
hương tôi ! Việt Nam đất nước tôi ! Việt Nam hai ngàn năm lịch sử
chống ngoại xâm, một Mẹ Âu Cơ tay bồng trăm đứa con đi đánh giặc, lần lượt xua
tan năm đế quốc sừng sỏ nhất của mỗi thời đại. Một lời người cha của Nguyễn
Trãi nói với ông, đã thành lời của Mẹ Âu Cơ nói với cả trăm đứa con. Chỉ một
lời thôi, Mẹ Âu Cơ ơi ! Mẹ thật tuyệt vời ! Đế quốc nào nữa dám lăm
le ? Coi chừng Mẹ tôi sẵn sàng ra tay nữa đấy nhé !
Thế còn Lời Chúa Toàn Năng, Đấng phán
một lời làm nên trời đất nói với tôi, có thay đổi được cuộc đời tôi và giúp tôi
góp phần thay đổi thế giới đầy tội ác, phi nhân phi nghĩa ngày nay không ?
Tùy tôi đấy. Chẳng lẽ tôi có thể làm mất mặt Thiên Chúa toàn năng mà tôi tuyên
xưng : “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên
trời đất”. Chúa phán một lời dựng nên trời đất mà không biến đổi được một
con người bé nhỏ là tôi… Tôi to gan thật ! Nhưng Chúa đã lỡ chấp nhận để
lời toàn năng của Chúa lệ thuộc vào tôi, nên Chúa đành chịu đấy ! Tôi có
chịu nghĩ lại không ?
Sách Tin Mừng theo thánh Gio-an đưa
chúng ta vào mầu nhiệm Chúa Giê-su Ki-tô bằng con đường chiêm niệm rất ngọt
ngào. Có thể ví như khi đứng trước một lâu đài, chúng ta thấy có vẻ kỳ bí và sợ
bước vào, nhưng nếu có một người sống trong lâu đài ấy, biết mọi ngóc ngách,
cầm tay dắt chúng ta vào, vừa dẫn đi vừa giải thích cho chúng ta thì chúng ta
hết sợ. Cứ để người ấy dẫn đi và uống lấy những lời giải thích, ta sẽ ngất ngây
chiêm ngắm những kỳ diệu trong lâu đài và không muốn ra nữa, như hai người môn
đệ đầu tiên được Chúa mời “đến mà xem, họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại
với Người ngày hôm ấy”… (Ga 1,39). Rồi ở luôn !
Bây giờ chúng ta hãy xin Chúa cho cùng
đi theo với hai người môn đệ đầu tiên này, “đến xem nơi Chúa ở, ở lại với
Chúa ngày hôm ấy”… rồi nấn ná xin ơn ở lại luôn.
1. Lời Tựa
Mười tám câu đầu sách Tin Mừng này được
coi như lời tựa. Lời tựa một cuốn sách bao giờ cũng nhằm giới thiệu
tổng quát chủ đề, mục đích, phương pháp nghiên cứu và cách trình bày.
Lời tựa của sách Tin Mừng thứ tư khởi từ
“thân thế và sự nghiệp” của “Ngôi Lời”. Người là “Lời” hiện hữu từ ban đầu ở
nơi Thiên Chúa. “Lời” của loài người thì chỉ diễn tả ra, còn Lời của Thiên Chúa
thì vừa diễn tả chính Thiên Chúa vừa là Thiên Chúa. Thư Cô-lô-xê dùng
kiểu nói tương tự, diễn tả Người là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”.
Hình ảnh của Thiên Chúa là thực thể cùng hiện hữu và là Thiên Chúa, không tách
rời khỏi Thiên Chúa, ở nơi Thiên Chúa, luôn hướng về Thiên Chúa.
“Hình ảnh” của chúng ta, lời chúng ta
diễn tả chính mình, thay đổi tùy lúc, không nhất thiết trung thực ; vì thế
nhiều khi chúng ta phải hỏi : “anh/chị nghĩ anh/chị là ai thế ?” khi
thấy một người không biết mình là ai, tưởng mình là ông to bà lớn và cư xử như
ông to bà lớn, tới mức bệnh tâm thần, tưởng mình là vua, thậm chí là một trong
Ba Ngôi Thiên Chúa nữa. Lời, hình ảnh của chúng ta diễn tả cái chúng ta mơ ước,
mong muốn chứ không phải thật. Đánh phấn tô son hàng giờ trước gương là để tạo
khuôn mặt mình muốn. Có chuyện cô gái trông thật xinh đẹp vẫy xích lô từ Chợ
Saigon đi xuống Chợ Lớn giữa mùa hè, mồ hôi ra làm trôi son phấn ... Khi tới
nơi quay mặt lại trả tiền thì bác đạp xích lô hét lên, ù té chạy mất, vì tưởng
gặp ma giữa ban ngày ! Cái mơ ước đầu tiên quỷ đã bày cho con người là mơ
ước nên bằng, nên như Thiên Chúa, và đi đường tắt để đạt tới đích : cưỡng
lời Thiên Chúa, để tỏ ra mình bằng Thiên Chúa. Kết quả là nên bằng với thằng
“cha sự dối trá”.
Lời Thiên Chúa làm nên mọi sự. “Thiên
Chúa phán : ‘Hãy có ánh sáng’, liền có ánh sáng.” Với mười lần “phán”,
Thiên Chúa đã làm nên cả trời đất và mọi loài. Chỉ có con người được Thiên Chúa
tạo thành “giống hình ảnh” của Thiên Chúa [chứ không phải LÀ hình ảnh
của Thiên Chúa] mới có thể cưỡng lại Lời Thiên Chúa. Thiên Chúa sai Mô-sê đem
MƯỜI LỜI cho vua Pha-ra-ô, mười lần Pha-ra-ô đều cưỡng lại, nên trở thành mười
tai họa cho vua và dân. Ở núi Xi-nai Thiên Chúa tuyên bố nhận đám dân hỗn tạp
vừa được Người giải thoát khỏi ách nô lệ, làm dân của Thiên Chúa và ban
cho họ MƯỜI LỜI để sống làm Dân của Thiên Chúa. Tương lai của họ tùy
thuộc họ có làm theo những lời ấy hay không : nếu họ làm theo thì họ sẽ
được vào Đất của Thiên Chúa, cưỡng lại thì họ không phải là Dân của Thiên Chúa
nữa, nên sẽ không được vào. Khi vào rồi họ vẫn phải tiếp tục làm theo Mười Lời
đó để “làm dân của Thiên Chúa”, nếu không thì sẽ bị đuổi ra, sẽ phải lưu đầy xa
Đất của Thiên Chúa.
Con người được giao cho hai nhiệm
vụ : quản lý những gì Thiên Chúa đã tạo thành và thi hành, làm
theo Mười Lời Thiên Chúa đã ban để sống làm dân của
Thiên Chúa và được hưởng những gì Thiên Chúa hứa. Lời con người nói thì chỉ bay
theo gió, Lời Thiên Chúa thì làm nên mọi sự. Vinh dự của con người là nếu làm
theo Lời Thiên Chúa thì cũng làm được điều Thiên Chúa
giao cho mình. Thiên Chúa đã hạ mình xuống và nâng con người lên bằng cách
đó : lời Thiên Chúa lệ thuộc vào con người, con người được dự phần vào
quyền năng của Thiên Chúa bằng cách làm theo Lời Thiên Chúa.
Ngày nay mọi thứ máy móc, dụng cụ đều có
bản chỉ dẫn kèm theo. Muốn sử dụng được phải làm theo những chỉ dẫn, vì người
chế tạo mới biết và cho biết cách sử dụng. Người ta sẵn sàng tìm người giúp
hiểu đúng lời chỉ dẫn, và tuân theo… rất tỉ mỉ. Thế nhưng người ta lại không
muốn làm theo lời chỉ dẫn của Thiên Chúa, nhưng muốn làm theo ý mình. “Thiên
Chúa biết ta được Người nhồi nắn bằng gì” (Tv 103/102,14) và
muốn chúng ta nên như thế nào, mới có thể chỉ dẫn cho chúng ta biết làm thế nào
để trở nên chính mình, để làm dân, làm con của Thiên Chúa.
Cuộc xung đột giữa ánh sáng và bóng tối
ngay từ lúc tạo thành trời đất thì Thiên Chúa đã giải quyết bằng Lời của Ngài,
tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, ngày và đêm phân biệt rõ ràng. Nhưng từ khi tạo
dựng nên con người thì Thiên Chúa gặp sự từ chối, chống đối : Thiên Chúa
bị từ chối. Thiên Chúa muốn ban cho con người sự sống, thế mà cũng bị từ chối.
Từ chối sự sống thì chỉ còn sự chết, cũng như từ chối ánh sáng thì chỉ còn bóng
tối. Nhưng Thiên Chúa không ép buộc, cũng không chịu thua, vì Thiên Chúa trung
thành với chính mình, không thể rút lại lời hứa ban sự sống. Thua keo này Thiên
Chúa bày keo khác. Gởi Lời đến bằng công trình tạo dựng thì con người “mù” hoặc
lóa mắt, không nhận ra, tưởng đó là thần và thờ mặt trời, mặt trăng, sao
trời ; gởi Lời đến bằng lời loài người qua Môsê và các ngôn sứ, thì con
người “điếc” không nghe. Kế sách cuối cùng của Thiên Chúa là gởi Lời đến làm
người bằng xương bằng thịt : “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư
ngụ giữa chúng ta”. Kết quả ra sao ? Có hơn gì không ?
Bên cạnh đó, Thiên Chúa còn gởi một
người đến làm chứng cho ánh sáng, cho sự thật, để mọi người nhờ ông mà
tin. Kết quả ra sao ? Có hiệu lực không ?
Con người vẫn có thể sáng mắt thính tai,
hay mù và điếc “có chọn lựa” ! Thiên Chúa chẳng cưỡng ép được con người,
vì đã “lỡ” làm nên con người có tự do chọn lựa, có thể đối diện với Thiên Chúa,
có thể đáp lời hay từ chối Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đến làm người, có họ có
tên, có nơi sinh, nơi sống ở giữa chúng ta, để nói với chúng ta bằng môi miệng
của một con người, bằng tiếng nói và ngôn ngữ của loài người.
Xưa Thiên Chúa ban Mười Lời để người
ta sống làm dân của Thiên Chúa và nhờ thế được ở trên đất
của Thiên Chúa.Đó mới là bài tập ; nay mới là quyết liệt, định đoạt số
phận đời đời : Thiên Chúa gởi nguyên khối cả Lời của Người,
cốt để cho chúng ta được trở nên con Thiên Chúa giống như Người và được sống
đời đời với Người. Nhận hay không, nghĩa là tin hay không. Nhận nghĩa là tin
rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, thì được quyền trở nên Con Thiên Chúa, được
biết Thiên Chúa một cách thiết thân như con biết cha, vì Người là Con Một từ
trong lòng Cha đến để kể cho chúng ta. Tất cả vũ trụ nói với chúng ta về Thiên
Chúa, “kể cho chúng ta vinh quang của Thiên Chúa” bằng cách phản ánh vinh quang
ấy qua vẻ đẹp kỳ diệu. Thiên Chúa sai Mô-sê và các ngôn sứ đến nói lời của
Thiên Chúa bằng lời loài người, nhưng chưa bao giờ, và chưa có ai đươc thấy
Thiên Chúa. Ông Mô-sê xin được thấy mặt Thiên Chúa, thì Thiên Chúa trả lời
không được ! Thấy là chết liền ! (x. Xh 33,18-23).
Ở núi Xi-nai, cả toàn dân của Thiên
Chúa, khi nghe tiếng của Thiên Chúa thì cũng run sợ, và yêu cầu ông
Mô-sê : “Xin chính ông nói với chúng tôi thì chúng tôi mới dám
nghe ; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất !”
(x. Xh 20,19).
“Ngôi lời đã trở thành người phàm và
cư ngụ giữa chúng ta”, đây là nỗ lực cuối cùng của Thiên Chúa để ban ơn cho
loài người, như lời mở đầu thư Híp-ri diễn tả :
“1 Thuở xưa, nhiều lần
nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn
sứ ; 2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán
dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt
Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. 3 Người là
phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là
Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội
lỗi, Người lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời. 4 Danh
hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì
Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu.”
Quả thật, “từ nguồn sung mãn của
Người, tất cả chúng ta lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16) :
tạo dựng là ơn đầu tiên, Lề Luật là ơn ban của Thiên Chúa để diễn tả tình yêu
của Thiên Chúa, nay trong Đức Ki-tô Giê-su Thiên Chúa đã ban trọn khối tình yêu
và thành tín của người, thành tín thực hiện mọi lời đã hứa từ xưa qua các giai
đoạn, và bây giờ thì Thiên Chúa đã cho trọn khối, vì đã ban chính Con Một của
Người và ban chính mình Người cùng với Con Một, vì Con Một vốn ở trong lòng
Thiên Chúa, không tách rời được. “Thiên Chúa đã yêu mến thế gian đến nỗi đã
ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự
sống đời đời.” (Ga 3,16).
“Từ nguồn sung mãn của Người, tất
cả chúng ta lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” : Tạo
dựng : “nhờ Người mà muôn vật được tạo thành.” Lề Luật “được
ban qua Mô-sê”, là công trình của Lời ; đón nhận và thi hành thì được làm
Dân của Thiên Chúa, được vào và sống trên đất của Thiên Chúa. Ân sủng
và sự thật thì không phải là công trình của Người, nhưng là chính
Người, Con Một của Thiên Chúa. Lời được Cha sai đến, đến bằng xương bằng thịt,
để nhờ Người, Cha tự ban chính mình cho loài người chúng ta, vì tin vào Người
thì được trở nên anh em của Người, vì được trở nên con Thiên Chúa : “Cha
của Thầy cũng là Cha của anh em” (Ga 20,17).
Ân sủng và sự thật ở đây tương ứng với
kiểu nói quen thuộc trong Cựu Ước (tiếng Híp-ri) : “Khe-sét và Emet” ; Khe-sétnghĩa
là Tình Yêu : “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi…” và Emet nghĩa
là Sự Thật, tức là sự thành tín của Thiên Chúa, Thiên Chúa trung thành giữ lời
đã hứa với Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp : cho đất và một dòng dõi đông
như sao trời cát biển ; sau này có thêm lời hứa cho Đa-vít nữa : cho
dòng dõi Đa-vít làm vua muôn đời. Nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, với Người và trong
Người, mọi lời hứa đã thành sự thật. Ông Mô-sê chán nản, mệt mỏi xin được chết,
cũng thưa : “Ấy là nếu con được ơn nghĩa (Khe-sét) trước mắt Ngài”
(Ds 11,15) ; khi năn nỉ Thiên Chúa cùng đi lên với dân, ông cũng
nói : ”Nếu không, làm sao người ta biết rằng con và dân Ngài được ơn
nghĩa (khe-sét) trước mắt Ngài”, nghĩa là con và dân của Ngài được Ngài
thương (Xh33,16). Sau này khi sứ thần nói với Đức Mẹ : “Bà đã
được nghĩa trước mặt Thiên Chúa” (Lc 1,30), nghĩa là Bà được
Thiên Chúa thương, chính vì thế “Bà đầy ơn phúc” (Lc 1,28),
bà là một khối ơn phúc, vì người Con bà sẽ sinh ra là trọn khối ân tình của
Thiên Chúa cho loài người.
PHƯƠNG PHÁP ĐỌC :
sự liên hệ mật thiết giữa Lời đã ban qua Mô-sê và các ngôn sứ và Lời do chính
Lời hằng hữu đến làm người nói với chúng ta, mở cho chúng ta thấy phải đọc sách
Tin Mừng này như thế nào.
Trước hết, đây là một cuốn
sách nên phải đọc trong mạch văn của cuốn sách, đừng lẫn lộn với ba
sách Tin Mừng kia, kẻo thành ra “râu ông nọ cắm cằm bà kia” thì sẽ rối mù.
Thứ hai là đừng tách ra khỏi mạch văn
của toàn thể Sách Thánh : từ Lời đã đến qua Mô-sê và các ngôn
sứ tới Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta, từ sách Sáng Thế cho tới sách
Khải Huyền của Tân Ước đều do MỘT LỜI, “nhiều thể nhiều
cách”, qua nhiều giai đoạn, phối hợp với nhau để đưa ta vào kế hoạch yêu
thương của Thiên Chúa, kế hoạch được vén mở từng bước, bước trước rước bước
sau, bước sau tiếp bước trước, giải thích lẫn nhau cách hài hòa, như một
bản trường ca của Tình Yêu Thiên Chúa, diễn tả “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Tác giả dẫn chúng ta vào khúc tuyệt đỉnh
của bản trường ca ấy, tựa đề là “Ân Sủng và Sự Thật”. Phải mở
lòng, mở trí, mở tai, mở mắt mà cảm nếm từng nốt nhạc vang lên đúng trường độ
và cả những dấu lặng, cảm nếm sự vang vọng giữa khúc này với khúc khác, như khi
nghe một kiệt tác âm nhạc, không có gì là dư, là thừa hay thiếu ở đây. Đừng sửa
tác giả. Đừng vẽ rắn thêm chân, kẻo làm hỏng hết kiệt tác đấy !