Chúa
Giê-su gọi La-da-rô, “người Chúa thương mến” ra khỏi mồ
(Ga 11, 1-54)
(Tìm hiểu Tin Mừng theo thánh
Gio-an) – Bài 10
Tác
giả: Linh Mục Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J., ngày 4 tháng 11 năm 2018
Sách Tin Mừng thứ tư kể sáu dấu hiệu (1) Chúa Giê-su
làm để tỏ ra và chứng thực Người là ai. Dấu hiệu cuối cùng (thứ bảy) sẽ là
chính sự phục sinh của Chúa sau khi ở trong mồ ba ngày, như Chúa đã nói với
giới lãnh đạo ở Giê-ru-sa-lem (Ga 2,18-22).
Chú ý tới một sự khác biệt quan trọng : năm dấu
lạ trước thì lời giải thich theo sau, còn lần thứ sáu, thì lời giải thích đi
trước, kèm theo những xúc động và nước mắt của chính Chúa Giê-su.
Các nhân vật
Mở đầu tác giả cho chúng ta biết về các nhân vật và
tương quan của họ với Chúa Giê-su. Ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô :
ba người được Chúa Giê-su thương mến, ở làng Bê-ta-ni-a, bên sườn phía
Chuyện xảy ra là đang khi Chúa Giê-su ở Bê-ta-ni-a bên
kia sông Gio-đan thì La-da-rô đau nặng. Hai bà chị cho người đến nói với Chúa
Giê-su : “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau”. [Nghe như
một SMS ngày nay !]. Phản ứng của Chúa Giê-su : “Bệnh
này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên
Chúa : qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”
Khi gặp người mù từ lúc mới sinh, Chúa Giê-su đã trả
lời thắc mắc của các môn đệ : “để thiên hạ được thấy công trình của
Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh”. Lần này long trọng hơn
nhiều : “để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa và để Con
Thiên Chúa được tôn vinh.” Mỗi lần Chúa Giê-su nói đến “được
tôn vinh” là ám chỉ tới được tôn vinh bằng cái chết và sự phục sinh của bản
thân Người. Lần này thì cơn bệnh của “Cục Cưng” lại trở thành dịp để Con Thiên
Chúa được tôn vinh.
Ở chương 4, viên sĩ quan đi hai ngày đường từ
Ca-phác-na-um lên Ca-na, “xin Chúa xuống chữa con ông vì nó sắp chết”,
rồi hối thúc : “Xin Ngài xuống cho kẻo cháu nó chết mất”,
Chúa cho ngay từ xa : “Ông cứ về đi, con ông sống rồi”.
Thế là người xa lạ, và có lẽ là người ngoại, xin và hối thúc thì Chúa cho ngay.
Những người Chúa thương mến thì cư xử khác : chỉ
báo tin cho Chúa, không xin cũng không nài nỉ, hối thúc. Chúa biết họ cần gì và
Chúa muốn cư xử cách nào tùy ý. Chúa cũng cư xử cách khác, không chữa từ xa,
cũng không vội lên đường : “Sau khi được tin, Người còn lưu lại thêm hai
ngày tại nơi đang ở.”
Các môn đệ thắc mắc, can ngăn khi Chúa tỏ ý đi lên
Giu-đê :
7 Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ : “Nào chúng ta cùng
trở lại miền Giu-đê !” 8 Các môn đệ nói : “Thưa
Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó
sao ?” 9 Đức Giê-su trả lời : “Ban ngày chẳng có
mười hai giờ đó sao ? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng
mặt trời. 10Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng
nơi mình !”
11 Nói những lời này xong, Người bảo họ : “La-da-rô, bạn của
chúng ta, đang yên giấc ; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” 12 Các
môn đệ nói với Người : “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ
khoẻ lại.” 13 Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô,
còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. 14 Bấy giờ
Người mới nói rõ : “La-da-rô đã chết. 15 Thầy mừng
cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào
chúng ta đến với anh ấy.” 16 Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô,
nói với các bạn đồng môn : “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết
với Thầy !”
Khi Chúa làm dấu lạ đầu tiên ở Ca-na, “Người
bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2,11).
Hôm nay Chúa như cố tình nán lại chờ La-da-rô chết, chôn, sau bốn ngày trong
mộ, đã “nặng mùi” rồi, Chúa mới đến. Chúa giải thích lý do : “Thầy
mừng cho anh em, vì Thầy không có mặt ở đó, để anh em tin.”
“Cục Cưng của Chúa” thì Chúa cố tình dùng làm dấu hiệu cho các môn đệ tin. Ở
Ca-na họ đã tin, nhưng họ còn phải lớn lên mãi trong đức tin. Được Chúa “cưng”
thì Chúa cho chung phần với Chúa như vậy đó, ai sẵn sàng chung chia cả cay đắng
lẫn vinh quang với Chúa thì Chúa mới nhận làm “Cục Cưng”.
Ông Tô-ma, gọi là Đi-đi-mô, nói với các bạn đồng
môn : “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy !”
Ông muốn nói gì ? Can Thầy không được thì cùng đi với Thầy để cùng chết
với Thầy. Đã trót theo Thầy thì theo cho trót : cùng chết với Thầy.
Mác-ta tuyên xưng lòng tin
Bầu không khí tang tóc như bao trùm cả Bê-ta-ni-a. Bạn
bè từ Giê-ru-sa-lem cũng đến chia buồn với hai chị em. Chúa mới tới đầu làng
thì không biết ai đã chạy vào báo tin cho cô Mác-ta. Cô không nói gì với em,
lẳng lặng chạy ra đón Chúa. Cô tuyên xưng ngay lòng tin của cô vào quyền năng
của Chúa Giê-su : “Nếu có Thầy ở đây thì em con đã không chết”,
và tin vào hiệu năng lời cầu xin của Chúa Giê-su : “Bất cứ
điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.”
Chúa đáp lại lòng tin của cô : “Em chị
sẽ sống lại !”
Cô Mác-ta chưa hiểu hết lời Chúa nói. Cô tuyên xưng
lòng tin rằng kẻ chết sẽ sống lại trong ngày sau hết, và em cô cũng sẽ sống lại.
Chúa Giê-su cho cô biết một điều mới : “Chính
Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù
đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải
chết. Chị có tin thế không ?” Chúa không nói “sự sống và sự
sống lại”, nhưng “sự sống lại và sự sống”,
nghĩa là sự sống theo sau sự sống lại, sự sống mới, vĩnh cửu chứ không phải sự
sống hiện thời chúng ta đang sống trong xác phàm này.
Mác-ta đáp lại bằng một lời tuyên xưng bao trùm tất
cả : “Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng
phải đến thế gian”.
“Cô chạy về gọi em và nói nhỏ : “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy !”
Ma-ri-a đang khóc rũ rượi, nhưng nghe “Thầy
đến rồi” thì cô bật dậy như lò xo, chạy ra gặp Chúa. Những người
bạn từ Giê-ru-sa-lem xuống, tưởng cô chạy ra mộ, cũng chạy theo. Chúa vẫn đứng
ở đầu làng chờ cô. Vừa thấy Người, cô lao đến phủ phục dưới chân Người và cũng
nói như Mác-ta : “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây thì em con đã
không chết.”
“Thấy cô khóc và những người Do-thái cùng đi với
cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi :
các người để xác anh ấy ở đâu ? Họ trả lời : “Mời Thầy đến mà xem”.
Đức Giê-su liền khóc.”
Hôm hai môn đệ đầu tiên lẽo đẽo theo sau Chúa, vụng về
không biết làm cách nào nói với Người, thì “Người quay lại hỏi họ : “Các anh tìm
gì ?” Họ đáp : “Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?” Người mời họ :
“Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy”. Hôm
nay những người Chúa thương mến mời Chúa đến xem nơi “Cục Cưng của Chúa” đang
ở. Và Chúa khóc.
Thấy Người khóc, người Do-thái bình luận với
nhau : Người thì bảo : “Kìa xem, ông ta thương La-da-rô biết
mấy !” Kẻ lại thắc mắc : “Ông ta
đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi phải chết ư ?”.
Những lời bình luận này như xoáy vào tim khiến “Đức Giê-su lại thổn thức
trong lòng.”
“Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có
phiến đá đậy lại. Đức Giê-su nói : “Đem phiến đá này đi !” Cô Mác-ta
là chị người chết liền nói : “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong
mồ đã được bốn ngày.” Đức Giê-su bảo : “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng
nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?” Rồi người
ta đem phiến đá đi.”
Trong các dấu lạ kể trước, chỉ có khi bẻ bánh nuôi đám
đông là tác giả kể Chúa Giê-su “tạ ơn”, theo nghi thức thông thường
của người Do-thái trước bữa ăn. Hôm nay trước mộ La-da-rô thì khác :
“Đức Giê-su ngước mắt lên và
nói : “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. 42 Phần
con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.”
Chúa công khai xác nhận lời tuyên xưng của
Mác-ta : “Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa thì Thiên Chúa cũng
ban cho Thầy” và nói rõ mục đích của việc Người sắp làm.
43 Nói xong, Người kêu lớn tiếng :
“Anh La-da-rô, hãy ra ngoài này !” 44 Người chết liền
ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo : “Cởi khăn
và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”
Ở chương 5, Chúa đã nói : “Giờ đã
đến – và chính là lúc này đây – giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên
Chúa ; ai nghe thì sẽ được sống.” (Ga 5,25).
Hình ảnh La-da-rô từ trong mồ nghe tiếng Con Thiên Chúa gọi, liền bật ra đứng
trước cửa mồ, minh họa lời ấy.
Hình ảnh La-da-rô đứng trước cửa mồ “chân
tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” lại cho hình dung được khi
Chúa Giê-su nằm ở trong mồ thì như thế nào. Nhưng khi Chúa ra khỏi mồ thì khác.
Nghe bà Ma-ri-a Mác-đa-la hốt hoảng báo tin, hai môn đệ chạy ra mồ “thấy
những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với
các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.” (Ga20,6-7).
Phản ứng của người Do-thái và của giới lãnh đạo
45 Trong số những người Do-thái đến thăm
cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. 46 Nhưng
lại có những người
đi gặp nhóm Pha-ri-sêu và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm. 47 Vậy các thượng tế và các người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng Hội Đồng và
nói : “Chúng ta phải làm gì đây ? Người này làm nhiều dấu lạ.
Trong số những người đã chứng kiến, có hai phản
ứng : nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng lại có những
kẻ đi báo cáo với nhóm Pha-ri-sêu.
Được tin báo, Thượng tế và Pha-ri-sêu triệu tập Thượng
Hội Đồng bàn cách đối phó.
“Chúng ta phải làm gì đây ? Người
này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người
sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rô-ma sẽ đến phá hủy
cả nơi thánh lẫn dân tộc ta.”
Hai điều mỉa mai
Ở chương hai, họ yêu cầu Chúa cho MỘT dấu
lạ để chứng tỏ Chúa có quyền thanh tẩy Đền Thờ. Bây giờ
thì họ lại sợ, vì Chúa quảng đại quá, họ xin một mà Người cho nhiều quá, họ lóa
mắt.
Họ quy kết cho Chúa Giê-su là mối
nguy gây đại họa cho Đạo và Đời, Đền Thờ và Dân tộc !
Nhưng vào cuối thế kỷ thứ nhất, khi sách Tin Mừng này được viết ra thì “người
Rô-ma đã phá cả ĐếnThờ lẫn dân tộc ta rồi !” Có phải vì Chúa
Giê-su hay vì những người tin Chúa không ? Người đọc đương thời ắt phải
mỉm cười.
Thượng Tế đương kim tên là Cai-pha, tỏ ra mình là nhà
lãnh đạo sáng suốt : “Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng
nghĩ đến điều lợi ích cho các ông là : thà một người chết thay cho dân còn
hơn là toàn dân bị tiêu diệt”. Thế là ông muốn phong tước anh hùng
dân tộc cho Chúa Giê-su trước khi giết !
Nhưng Gio-an lại mở rộng tới vô
biên : “Điều đó ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế
năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Ki-tô sắp phải chết thay cho dân,
và không phải chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để qui tụ con cái
Thiên Chúa khắp nơi về một mối”.
Bước tiến mới
Từ ngày đó họ QUYẾT ĐỊNH giết
Đức Giê-su. Án đã tuyên rồi ! Thế là ý định giết Chúa
Giê-su đã được nhắc tới ở chương thứ năm rồi được nhắc lại quyết liệt hơn ở
chương 8, chương 10, nay đã thành QUYẾT ĐỊNH của Thượng Hội
Đồng, Nhưng chưa tới GIỜ của Chúa nên Chúa lánh
đi.
Phản ứng của Chúa Giê-su : “Người
không đi lại công khai giữa người Do-thái nữa ; nhưng từ nơi ấy, Người đến
một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Ép-ra-im. Người ở lại đó với các
môn đệ.” (3)
Đến đây là hết phần về “Các dấu hiệu”. Chương 12,
chính Chúa Giê-su sẽ công bố ĐÃ ĐẾN GIỜ.
Vậy chúng ta hãy tạm dừng ở phần GIỜ chưa
đến, để nghiền ngẫm kỹ hơn trước khi theo Chúa Giê-su vào GIỜ của Người.
Giê-ru-sa-lem, ngày lễ thánh Tê-rê-xa A-vi-la, Thầy
dạy của Hội Thánh, 15-10-2018
Linh Mục Giu-se Nguyễn công Đoan, S.J.
(1) Sáu dấu hiệu : Nước lã thành rượu ngon (Ga 2,1-12) ;
chữa lành con vị sĩ quan (4,46-54) ; chữa lành người bất toại
(5,1-9 ; bẻ 5 chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người ăn no vẫn còn dư
(6,1-15) ; chữa lành người mù từ lúc mới sinh (9,1-7) ; Gọi La-da-rô
chết đã bốn ngày ra khỏi mồ (11,1-44).
(2) Hiện nay bức tường do Ít-ra-en xây, gọi là để
chống khủng bố, cắt làng này khỏi Giê-ru-sa-lem, nên từ Giê-ru-sa-lem phải đi
xe buýt vòng 16 cây số mới tới làng này. Ở đây có nhà kính nhớ phép lạ Chúa làm
cho La-da-rô. Bên cạnh đó có ngôi mộ ở sâu đưới đất, do một gia đình Hồi Giáo
giữ chìa khóa, muốn xuống phải trả tiền – nhưng không xuống cũng không có gì
phải tiếc !
(3) Nơi này được coi là Taybeh ngày nay, cách
Giê-ru-sa-lem khoảng 20 cây số về phía Bắc, một giáo xứ đông đúc sầm uất trên
phần đất dưới quyền chính phủ Pa-lét-tin. Ở đây có nhà máy bia lớn, hàng năm
cũng mở đại hội uống bia theo kiểu bên Đức.
Đã Đến Giờ
(Tìm
hiểu Tin Mừng theo thánh Gio-an) – Bài 11
Tác
giả: Linh mục Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J., ngày 3 tháng 11 năm 2018
Tại Ca-na, trong tiệc cưới, Chúa Giê-su đã nói với
thân mẫu một lời bí ẩn : “Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4)
Đó là lần đầu trong sách Tin Mừng thứ tư này, tác giả làm như đạo diễn phim,
cho chúng ta thấy chiếc đồng hồ trên tường tíc tắc, với hai cây kim phút và giờ
lững thững di chuyển, khiến ta hồi hộp chờ đợi. Bao giờ mới đến giờ của
Ngài ? Giờ ấy đến thì cái gì sẽ xảy ra ? Suốt những chương tiếp theo,
thỉnh thoảng đạo diễn lại cho chúng ta nghe đồng hồ tích tắc, và thấy kim đồng
hồ vẫn nhích từ từ, “giờ chưa tới”.
Ở chương thứ năm, tại Giê-ru-sa-lem thì Chúa lại nói
đến một giờ khác : “Tôi bảo thật các ông : giờ đã
đến, và chính là lúc này đây – giờ các kẻ chết
nghe tiếng Con Thiên Chúa ; ai nghe thì sẽ được sống… Giờ đã
đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó.”
(Ga 5,25.28).
Hai giờ này có trùng với nhau không ?
Đến chương mười một, ta lại thấy Chúa Giê-su như minh
hoạ “giờ” đã nói ở chương thứ năm, khi Chúa khóc và đến
tận mồ của La-da-rô, “cục cưng của Chúa”. Chúa đứng
ngoài, cất tiếng gọi : “La-da-rô, ra ngoài này !” Lập
tức La-da-rô bật ra đứng trước cửa mồ, “chân tay còn quấn vải, mặt còn phủ khăn”.
Chúa phải ra lệnh : “Cởi khăn và băng vải cho anh ấy, rồi để anh ấy
đi !” “Cục cưng của Chúa” nghe tiếng Chúa gọi liền ra khỏi mồ,
trở về cuộc sống, ngồi ăn với Chúa. Nhưng các thượng tế đã quyết định giết Chúa
Giê-su vì Chúa “làm nhiều dấu lạ”, nay lại “quyết định giết cả anh
La-da-rô nữa, vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giê-su”
(Ga 12,10-11).
Như vậy thì “cục cưng của Chúa” ra khỏi mồ ở đây mới chỉ là dấu hiệu chứ chưa
phải như Chúa đã nói : “Ai nghe thì sẽ được sống… Ai đã làm điều lành,
thì sẽ sống lại để được sống ; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị
kết án” (Ga5,25.29).
Vậy thì “giờ của những kẻ ở trong mồ” lệ
thuộc vào “Giờ” của Chúa Giê-su. “Giờ của Con Người”
phải đến trước. Ở chương 12, Chúa sẽ reo lên và cho ta biết : “Đã đến
giờ Con Người được tôn vinh” (Ga12,23). Ta bỗng nghe tiếng tích
tắc rõ hơn, và thấy kim chỉ phút trên mặt đồng hồ đã nhích tới gần số 12.
Gio-an đang
dẫn chúng ta vào Giờ của Chúa và từng bước giải thích cái gì sắp xảy ra. Ta hãy
đi theo và nghe kỹ lời giải thích.
1. Sáu ngày trước lễ Vượt Qua
Ở đầu sách, Gio-an đếm ngày, kể từ hôm ông
Gio-an Tiền Hô trả lời phái đoàn chính thức từ Giê-ru-sa-lem tới, bằng ba lần “hôm
sau, hôm sau, hôm sau”, rồi “ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na”
(Ga1,29.35.43 ;
2,1), tức là ngày thứ sáu, tương ứng với ngày Thiên Chúa tạo dựng con
người, “có nam có nữ” (St 1,26-31).
Đến đây, Gio-an lại đếm lui, lấy điểm
tới là Lễ Vượt Qua : “Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức
Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở” (Ga 12,
1). Đây là điểm then chốt cần tìm hiểu để có thể đọc phần thứ hai của cuốn
sách, từ chương 12 đến hết.
Sau tiệc cưới ở Ca-na, dịp lễ Vượt Qua, Chúa
Giê-su lên Giê-ru-sa-lem và đụng độ với giới lãnh đạo trong Đền Thờ. Các môn đệ
nghe lời Chúa đối đáp, nhưng chỉ đến “khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới
nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”
(Ga 2,22).
Tình huống này gợi lại tình huống của dân được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập
và ý nghĩa của Lễ Vượt Qua. Dân sống dưới ách nô lê không tin vào Thiên Chúa
cũng không tin ông Mô-sê ; họ thà yên thân làm nô lệ hơn là trải qua nguy
hiểm để được tự do (x. Xh 5,19-23 ; 14,10-12).
Chỉ đến khi đã vượt qua Biển, “thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân
Ai-cập, toàn dân mới kính sợ Đức Chúa và tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người”
(Xh 14,31).
Ở chương 11, khi đang lánh nạn ở Bê-ta-ni-a bên kia
sông Gio-đan (x. Ga 10, 39-40) Chúa Giê-su
quyết định trở lại xứ Giu-đê thì các môn đệ run : “Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ : “Nào chúng
ta cùng trở lại miền Giu-đê !” 8 Các môn đệ
nói : “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại
còn đến đó sao ?” (Ga 11,7-8)
Ngay chính “người môn đệ Chúa Giê-su thương mến”
thì cũng chỉ sau khi đã thấy ngôi mộ trống và “thấy các băng vải và khăn
che đầu” còn đó, xếp gọn gàng riêng biệt, mới “đã thấy
và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông [cả ông Phê-rô] chưa
hiểu rằng : theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.”
(Ga 20,8-9).
Nhắc lại những điều này để thấy mối liên kết giữa ba
lần Lễ Vượt Qua mà Gio-an kể tới, và lần thứ ba này thì chính Chúa Giê-su là
Con Chiên Vượt Qua để giải thoát chúng ta, tất cả loài người chứ không phải
riêng một dân nào ; khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết, mà đưa vào
cuộc sống vĩnh cửu trong Thiên Chúa, chứ không phải tới một miền đất nào trên
trần gian này.
Để hiểu ý nghĩa của “sáu ngày trước lễ Vượt Qua”,
chúng ta phải trở lại quy định về Con Chiên để ăn lễ Vượt Qua trong sách Xuất
Hành. Điểm cốt lõi, chính yếu của việc mừng lễ Vượt Qua là ăn thịt con
chiên dành cho ngày lễ này. Sách Xuất Hành quy định :
1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên đất
Ai-cập : 2 “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng
đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. 3 Hãy nói
với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en : Mồng mười tháng này, ai nấy phải
bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. 4 Nếu
nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm
gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người
ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. 5 Con chiên đó phải
toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng
được. 6 Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này,
rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, 7 lấy
máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. 8Còn thịt, sẽ
ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng. 9 Các
ngươi không được ăn sống hay luộc, nhưng chỉ được ăn nướng, với cả đầu, chân và
lòng. 10 Không được để lại gì đến sáng ; cái gì còn
lại đến sáng, phải đốt đi. 11 Các ngươi phải ăn thế
này : lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội
vã : đó là lễ Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA. (Xh 12,1-11)
Thời gian : ngày
mồng mười thì phải sắm một con chiên tùy theo số người
để ăn cho hết (1), nhà ít người thì có thể hùn chung (miền Bắc nói : đánh
đụng) với nhà khác. Chọn được con chiên đúng cỡ, đúng qui định rồi thì phải
nhốt riêng nó ra. Lúc mặt trời lặn vào ngày
mười bốn thì sát tế (2). Phải nướng chứ không được làm
món gì khác. Rồi phải ăn hết, còn dư thì đốt đi chứ không được để tới hôm sau.
Như vậy khi họ ăn thì đã là ngày 15, vì Sách Thánh tính ngày
từ lúc mặt trời lặn tới mặt trời lặn, chứ không tính từ lúc mặt trời mọc như ta
(x. St 1,5). Tính lui lại sẽ thấy là “sáu
ngày trước lễ Vượt Qua” thì phải sắm con chiên và dành
riêng, nhốt riêng ra.
2. Quang cảnh dọn mừng lễ tại Giê-ru-sa-lem
Khi ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do-thái.
Từ miền quê, nhiều người lên Giê-ru-sa-lem để cử hành các nghi thức thanh tẩy
dọn mình mừng lễ. 56 Họ tìm Đức Giê-su và đứng trong Đền
Thờ bàn tán với nhau : “Có thể ông ấy sẽ không lên dự lễ, các ông có nghĩ
thế không ?” 57 Còn các thượng tế và người Pha-ri-sêu
thì ra lệnh : ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt. (Ga 11,55-57).
Trong khung cảnh chuẩn bị lễ Vượt Qua, dân chúng “từ miền
quê lên Giê-ru-sa-lem để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng
lễ”. Mọi người đi tìm sắm con chiên. Thì tại Giê-ru-a-lem Dân
chúng đi tìm Chúa Giê-su, tụm năm tụm ba trong Đền Thờ ban tán về Người. Còn
các thượng tế và người Pha-ri-sêu thì đã phát lệnh truy nã Chúa Giê-su. Những
động thái này gợi nhớ lời ông Gio-an Tiền Hô giới thiệu Chúa Giê-su
là Con Chiên của Thiên Chúa (x. Ga 1,29).
“Con
Chiên của Thiên Chúa” đã trở thành Con Chiên Vượt Qua Người
ta đang đi tìm để giết mà “ăn lễ Vượt Qua”. Các thượng tế điệu
Chúa Giê-su đến dinh Phi-la-tô cũng sẽ “không vào kẻo bị
nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được” (Ga 18,28).
3. Tại Bê-ta-ni-a
Trong quang cảnh nhộn nhịp đó, Chúa
Giê-su trở lại Bê-ta-ni-a gần Giê-ru-sa-lem, đến nhà ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a
và La-da-rô,
Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi
anh La-da-rô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết.
Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết
đãi Đức Giê-su ; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những
kẻ cùng dự tiệc với Người. 3 Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu
thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau.
Cả nhà sực mùi thơm. (Ga 12,2-3)
Ba chị em này là những người “Chúa
Giê-su thương mến” (x. Ga 11,5). Ba chị em tiếp đãi
Chúa, mỗi người một vị trí. Chị Mác-ta đứng hầu
bàn ; La-da-rô ngồi ăn với Chúa ; Ma-ri-a lấy
một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất quý giá, ngồi dưới chân Chúa, đổ dầu lên
chân Chúa rồi lấy tóc mà lau. “Cả nhà sực nức mùi thơm”. Hành
động của Ma-ri-a xem ra là trung tâm trình thuật này : gây phản ứng, dẫn
tới lời giải thích và bênh vực của Chúa.
Có nhiều khía cạnh cần tìm hiểu. Trước hết, trong
khung cảnh Chúa Giê-su đang ngả lưng dự tiệc, một khối lượng lớn dầu thơm, “một cân
dầu thơm cam tùng nguyên chất quý giá” đổ lên chân Chúa, làm “cả nhà
sực nức mùi thơm”, gợi nhớ lời trong sách Diễm
ca :
Lúc quân vương ngự giữa nội cung,
dầu cam tùng của tôi toả hương thơm ngát (Dc 1,12).
Với hình ảnh này, Gio-an đã
dạo lên cung đàn của sách Diễm ca (3) làm nhạc nền cho
cả phần thứ hai này. Giờ của Chúa Giê-su
là giờ của Tình Yêu :
“Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi ban Con Một...“ (Ga 3,16)
Chúa Giê-su muốn tỏ cho “thế
gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Người đã
truyền cho Thầy” (Ga 14,31)
Chúa Giê-su tỏ lòng “yêu đến cùng”,
thí mạng vì những kẻ mình yêu mến (x. Ga 10,15 ; 15,13) :
“Trước lễ Vượt Qua, Đức
Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa
Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”. (Ga13,1)
Ma-ri-a đại diện cho những người được Chúa Giê-su
yêu mến, đón nhận và đáp lại tình yêu của Chúa bằng dầu thơm và bằng cả trái
tim nồng nàn, như hình ảnh trong sách Diễm ca :
Người tôi yêu là chùm mộc dược
nằm gọn trên ngực tôi. (Dc 1,13)
Ông Ni-cô-đê-mô sẽ làm trọn hình ảnh này, khi
đem một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương đến
tẩm liệm xác Chúa Giê-su (x. Ga 19,39-40).
Cân dầu thơm đổ lên chân Chúa vừa diễn tả tình yêu của
ba chị em dành cho Chúa, vừa cho thấy là nhà này đã chọn được con chiên để ăn
lễ Vượt Qua, là chính Con Chiên của Thiên Chúa.
Sự phản kháng của Giu-đa là dịp để Chúa Giê-su giải
thích cho người ta biết làm thế nào đáp lại tình yêu hải hà của Chúa. Bố thí
cho người nghèo là việc tốt. Nhưng Chúa cũng đáng được yêu mến và đáp đền. Chúa
cũng đang trở thành người nghèo đến tột cùng đây. Chúa sẽ bị lột hết từ phẩm
giá con người cho tới manh áo cuối cùng và không có nơi tựa đầu trên thập giá.
“Người
nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có”. Lời Chúa nói như vang
vọng lời sách Đệ nhị luật (4). Trong
kinh “thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối”, mối thứ
bảy là chôn xác kẻ chết. Chúa đón nhận cân dầu thơm này như là tẩm liệm trước
thân xác của Chúa để mai táng. Nghĩa tử là nghĩa tận. Lần đầu và cũng là lần
cuối, không có lần thứ hai đâu. Kẻ không yêu mến thì luôn luôn thấy là lãng
phí, và tìm ra những lý do hào nhoáng nhất để che đậy cho bụng dạ xấu xa hẹp
hòi của mình (5).
4. Chúa Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và được chào đón như
vua của Ít-ra-en
Ý nghĩa “quân vương” của cân dầu thơm cam
tùng quý giá ở Bê-ta-ni-a và lời sách Diễm ca sẽ bộc lộ ra ngày hôm
sau, khi Chúa Giê-su vào Giê-ru-sa-lem.
12 Hôm sau, dân chúng lũ lượt tuôn đến
mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem, 13 họ
cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò : Hoan hô ! Hoan hô !
Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa ! Chúc tụng vua Ít-ra-en ! 14 Đức Giê-su
gặp một con lừa nhỏ, liền cỡi lên như có lời chép : 15 Hỡi
thiếu nữ Xi-on, đừng sợ ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng
lừa con. 16 Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy.
Nhưng sau khi Đức Giê-su được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã
chép những điều đó về Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như
vậy. (Ga 12,12-16)
“Họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo
hò”. Quang cảnh này gợi lại cảnh đoàn quân trở về sau khi Đa-vít hạ
được Gô-li-át :
Lúc quân dân đến, khi ông Đa-vít hạ được
tên Phi-li-tinh trở về, thì phụ
nữ từ hết mọi thành của Ít-ra-enkéo
ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un,
với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Phụ nữ vui đùa ca hát rằng : “Vua Sa-un hạ
được hàng ngàn, ông Đa-vít hàng vạn.” (1 Sm
18,6-7).
Hôm nay thi họ tung hô Chúa Giê-su : “Hoan hô ! Hoan hô ! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân
danh Chúa ! Chúc tụng vua Ít-ra-en”.
Khi vua Đa-vít truyền đưa thái tử Sa-lô-môn lên làm
vua thì ra lệnh :
“Hãy đưa các bề tôi của chúa thượng
các ngươi đi theo các ngươi ; để Sa-lô-môn con ta
cỡi con la cái của ta, rồi đưa nó xuống Ghi-khôn. 34 Ở
đấy, tư tế Xa-đốc và ngôn
sứ Na-than sẽ xức dầu phong nó
làm vua Ít-ra-en ; các ngươi sẽ
rúc tù và, và hô : ‘Vua Sa-lô-môn muôn
năm !’ 35 Rồi các ngươi sẽ theo nó đi lên, nó
sẽ vào ngự trên ngai của ta, nó sẽ làm vua thay thế ta, vì nó chính là
người mà ta đã đặt lên cai quản Ít-ra-en và Giu-đa.
Chúa Giê-su là Vua Ít-ra-en, nhưng không cỡi con la
của Đa-vít, mà cỡi một con lừa con. Gio-angiải nghĩa việc Chúa cỡi con
lừa con bằng lời sách Da-ca-ri-a :
Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ !
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo
hò !
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi :
Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng,
khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa con vẫn còn theo mẹ. (Dcr 9,9)
Lúc ấy các môn đệ chẳng hiểu gì, chỉ “sau khi
Chúa Giê-su được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép những điều
ấy về Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy”.
Đám đông dân chúng ra đón Chúa là một đoàn chứng
nhân : một số đã có mặt khi Chúa gọi La-da-rô ra khỏi mồ, một số thì nghe
biết Người đã làm dấu lạ đó.
Còn người Pha-ri-sêu thấy cảnh ấy thì thất vọng, quay
ra cắn xé lẫn nhau : “Các ông thấy chưa, các ông chẳng làm nên trò
chống gì cả ! Thiên hạ đi theo ông ấy rồi kìa !”
5. Đã đến giờ Con Người được tôn vinh
20 Trong số những người lên
Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. 21 Họ
đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng :
“Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su.” 22 Ông
Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa
với Đức Giê-su. 23 Đức Giê-su trả lời : “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !
Ở chương 11, Thiên Chúa đã dùng miệng thượng tế
Cai-pha mà nói tiên tri : “Đức Giê-su sắp phải chết thay cho dân, và không
chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa tản
mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,51-52). Hai lần Chúa
Giê-su đã lánh mặt khỏi Giu-đê và Giê-ru-sa-lem (x. Ga10,39-40 ;
11,54), vì giờ chưa đến. Hôm nay, khi người Hy-lạp đến tìm thì Chúa như reo
lên : “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh !”
Tôn vinh bằng
cách nào ? Ở chương thứ ba, khi nói chuyện với ông
Ni-cô-đê-mô, Chúa đã gợi lại hình ảnh con rắn bằng đồng mà ông
Mô-sê treo cao trong hoang địa (x. Ga 3,14) ;
ở chương thứ tám, Chúa lại nói : “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ
các ông sẽ biết là tôi hằng hữu…” (Ga 8,28).
Ở đây thì Chúa nói “Con Người được tôn vinh”. Ở chương 2, câu 22, Gio-an nói :
“Khi
Đức Giê-su từ cõi chết trỗi dậy…” Khi Chúa vào Giê-ru-sa-lem và
được dân chúng tung hô, Gio-an nói : “Sau khi Đức Giê-su được tôn vinh, các môn đệ
mới nhớ lại…” (Ga 12,16). Ở chương 6, khi
nhiều môn đệ bỏ đi sau bài giảng về bánh ở Ca-phác-na-um, Chúa bảo : “Vậy nếu
anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ?” (Ga 6,62).
Trong những lời Chúa nói với các môn đệ sau bữa Tiệc Ly, còn nhiều lời khác
giúp ta hiểu “được tôn vinh” nghĩa là gì và bằng cách nào : đó là Chúa
được giương cao trên thập giá và vào trong vinh quang của Chúa Cha,
vinh quang Người vẫn có nơi Chúa Cha (x. Ga 17,1.5).
Chúa Giê-su được tôn vinh qua hai thì : chết trên
thập giá và về trong vinh quang của Chúa Cha. Chúa dung quy luật của hạt giống
để giải thích sự tôn vinh “hai thì” của Chúa và áp dụng cho môn đệ :
24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều
hạt khác. 25 Ai
yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất ; cònai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì
sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 26 Ai phục vụ Thầy,
thì hãy theo Thầy ; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý
trọng người ấy. (Ga 12,24-26)
“Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
Theo làm môn đệ Chúa thì cũng phải qua “hai thì”thập giá và vinh quang.
Không có con đường nào khác để vào hưởng vinh quang.
Biết rằng thập giá là đường vào vinh quang, nhưng Chúa
Giê-su vẫn thú nhận là khi thấy thập giá tới gần thì Chúa cũng “ngọng”, không
biết nói gì :
“Bây giờ, tâm hồn Thầy xao
xuyến ! Thầy biết nói gì đây ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này,
nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. 28 Lạy Cha, xin tôn
vinh Danh Cha.” Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống : “Ta đã tôn vinh Danh
Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa !”
Gio-an kể
lời cầu nguyện bộc phát của Chúa ở đây, cùng một nội dung tương ứng với lời cầu
nguyện ở Ghết-sê-ma-ni, hay Núi Cây Dầu, trong các Tin Mừng Nhất Lãm (x. Mt 26,36-44 ; Mc 14,32-42 ; Lc 22,39-46). Gio-an kể
tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống, xác nhận và làm chứng về Người trước mặt đám
đông, tương ứng với tiếng từ trời khi Chúa chịu phép rửa (x. Mt 3,17 ; Mc 1,11 ; Lc3,22),
và khi Chúa Giê-su tỏ vinh quang trên núi (x. Mt 17,5 ; Mc 9,7 ; Lc 9,35).
29 Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền
nói : “Đó là tiếng sấm !” Người khác lại bảo : “Tiếng một thiên
thần nói với ông ta đấy !” 30 Đức Giê-su đáp :
“Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người.
Lời đám đông bàn tán và lời Chúa Giê-su giải thích về
tiếng từ trời gợi nhớ cảnh Thiên Chúa phán với ông Mô-sê ở núi Xi-nai :
9 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê :
“Này Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc, để khi Ta nói với ngươi thì dân
nghe thấy và cũng tin vào ngươi luôn mãi”…
18 Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì ĐỨC
CHÚA ngự trong đám lửa mà xuống ; khói bốc lên như khói lò lửa và cả
núi rung chuyển mạnh. 19 Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên
rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. (Xh 19,9.18-19)
Rồi Chúa giải thích ý nghĩa của GIỜ này :
31 Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét
thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài !32 Phần
tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với
tôi.” 33 Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết
cách nào.
Đây là giờ phán xét thế gian : Chúa Giê-su chiến
thắng Xa-tan và giải thoát cho dòng dõi người đàn bà như lời Thiên Chúa hứa
trong sách Sáng Thế :
15 Ta
sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy ;
dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3,15).
Dân chúng bày tỏ thắc mắc của họ và Chúa Giê-su trả
lời ; Chúa nhắc lại điều Người đã công bố dịp Lễ Lều (x. Ga 8,12) và nêu
rõ tính khẩn trương :
34 Vậy, dân chúng thưa Người :
“Chúng tôi đã học biết trong sách Luật rằng : Đấng Ki-tô phải trường tồn
mãi mãi. Thế sao ông lại nói : ‘Con Người phải được giương cao’ ? Con
Người đó là ai ?” 35 Đức Giê-su bảo họ : “Ánh
sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các ông
còn có ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì
không biết mình đi đâu. 36 Bao lâu các ông còn có ánh
sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng.”
Đã đến giờ, Chiên Vượt Qua đã được dành riêng,
nhưng còn phải đợi tới đúng giờ, tức là giờ sát tế chiên
Vượt Qua (x. Ga 19,14). Vì thế Chúa lại lánh đi, như con chiên được nhốt
riêng : “Nói thế xong, Đức Giê-su rời nơi đó và lánh đi không cho họ thấy.”
6. Tổng kết tạm thời về sứ mạng rao giảng của Chúa
Giê-su :
1/ Sự cứng lòng của một số người :
37 Người đã làm ngần ấy dấu lạ trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin vào Người. 38 Như vậy là ứng nghiệm lời
ngôn sứ I-sai-a : Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời chúng tôi rao giảng ?
Và quyền lực của Đức Chúa đã được tỏ cho ai ?
39 Sở dĩ họ không thể tin là vì ngôn sứ I-sai-a còn nói : 40 Thiên
Chúa đã làm cho mắt chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng
thấy và lòng chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành !
41 Ngôn sứ I-sai-a nói những lời đó, vì đã thấy vinh quang của Đức
Giê-su, và ông đã nói về Người.
Ngôn sứ I-sai-a đã thấy Vinh Quang của Thiên Chúa khi
được Thiên Chúa gọi trong Đền Thờ.Gio-an coi đó là “vinh
quang mà Chúa Giê-su vẫn được hưởng bên Cha từ trước khi có thế gian”
(Ga 17,5).
Nhưng Thiên Chúa cho I-sai-a biết là ông sẽ thất bại, vì ông càng rao giảng thì
người ta càng bưng tai bịt mắt và trở nên chai đá, giống như số phận của ông
Mô-sê (x. Is 6,1-10). Chính ông Mô-sê khi giã từ dân chúng để
lên núi Nê-bô và được Thiên Chúa cất đi, đã giải thích sự cứng lòng của họ suốt
40 năm qua : “Nhưng cho đến ngày hôm nay,
ĐỨC CHÚA đã không cho anh em lòng để biết, mắt để thấy, tai để nghe” (Đnl 29,3).
Sách Tin Mừng Mác-cô cho thấy Chúa Giê-su
cũng áp dụng lời này cho các môn đệ trước khi ông Phê-rô tuyên xưng đức
tin :
17 Biết thế, Người nói với các
ông : “Sao anh em lại bàn tán về chuyện anh em không có bánh ? Anh em
chưa hiểu chưa thấu sao ? Lòng anh em ngu muội thế ! 18 Anh
em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư ? Anh
em không nhớ sao ? (Mc 8,17-18)
Kiểu nói trong sách I-sai-a mà Gio-an trích
dẫn ở đây khiến chúng ta ngạc nhiên. Sao Thiên Chúa sai ngôn sứ đi rao giảng mà
chính Thiên Chúa lại làm cho người nghe ra đui mù, chai đá, kẻo họ hoán cải mà
được chữa lành ? Đây là kiểu nói quen thuộc trong Sách Thánh, cái gì không
giải thích được thì cho là Thiên Chúa làm, cũng như sách Xuất hành nói, Thiên
Chúa đã làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá để ông không cho dân Ít-ra-en ra đi,
rồi để ông đuổi theo họ và cuối cùng ông bị tiêu diệt dưới đáy biển cùng với binh
lực của ông :
10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron làm mọi
phép lạ đó trước mặt Pha-ra-ô ; nhưng ĐỨC CHÚA làm cho lòng Pha-ra-ô
ra chai đá, và vua không thả con cái Ít-ra-en ra khỏi đất ấy. (Xh 11,10)
4 Ta sẽ làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai
đá và vua ấy sẽ đuổi theo dân. Nhưng Ta sẽ được vẻ vang hiển hách vì đã đánh
bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực của vua ấy, và người Ai-cập sẽ biết Ta là
ĐỨC CHÚA.” Con cái Ít-ra-en đã làm như vậy. (Xh 14,5)
2/ Tuy nhiên ngay cả trong giới lãnh đạo cũng có nhiều
người đã tin
Nhưng không phải tất cả đều cứng lòng như nhau :
42 Tuy nhiên, ngay cả trong giới
lãnh đạo Do-thái cũng có nhiều người đã tin vào Đức Giê-su. Nhưng họ không
dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pha-ri-sêu khai trừ khỏi hội đường. 43 Thật
thế, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên
Chúa. (Ga 12,42-43).
Cụ thể, mặc dầu ở chương thứ năm Chúa Giê-su đã cảnh
báo : “Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ
Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được ?”
(Ga 5,44), chúng ta đã thấy ông Ni-cô-đê-mô, ông là một thủ lãnh của người
Do-thái, nhưng ông đến gặp Chúa Giê-su ban đêm (Ga 3,1-2).
Sau này ông sẽ công khai, tuy gián tiếp, bênh vực Chúa (x. Ga 7,50-51).
Rồi khi Chúa đã chết thì ông mang một trăm cân mộc dược, đến mai táng Chúa cùng
với ông Giô-xép. Ông này là “một thành viên có thế giá trong Thượng Hội Đồng”
(Mc 15,42 ; Lc 23,51),
nhưng cũng từng là môn đệ “chui”, “vì sợ người Do-thái” (Ga 19,38-39).
3/ Chúa Giê-su tổng kết sứ mạng và sứ điệp của mình
44 Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng :
“Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai
tôi ; 45 ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. 46 Tôi
là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng
tối. 47 Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì
không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian,
nhưng để cứu thế gian. 48 Ai từ chối tôi và không đón nhận
lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy : chính lời tôi đã nói sẽ xét xử
người ấy trong ngày sau hết. 49 Thật vậy, không phải tôi
tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi
phải nói gì, tuyên bố gì.50 Và tôi biết : mệnh lệnh của
Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha
đã nói với tôi.” (Ga 12,44-50)
(1) Chiên Vượt Qua phải được sát tế trong Đền Thờ, nên
ngày nay người Do-thái không giết chiên Vượt Qua vì không còn Đền Thờ. Người
Sa-ma-ri thì vẫn họp nhau trên núi Ga-ri-dim, giết chiên Vượt Qua và cùng nhau
ăn tại chỗ ; họ tính 15 người ăn một con.
(2) Ngày này, người Sa-ma-ri họp nhau trên núi
Ga-ri-dim, vị Thượng Tế đọc đoạn sách Xuất Hành kể chuyện Thiên Chúa giải thoát
dân như thế nào. Họ căn rất chính xác, đọc sách vừa xong là mặt trời khuất sau
núi và họ bắt đầu giết chiên Vượt Qua. Họ có những cái lò đào xuống đất như
những cái giếng, đã đốt củi suốt buổi chiều cho nóng đỏ. Khi giết chiên xong là
củi đã cháy hết, chỉ còn than, họ bỏ con chiên xuống rồi đậy lại. Chừng hai
tiếng đồng hồ sau là thịt đã chín.
(3) Sách Diễm ca diễn tả “chuyện tình”
giữa Thiên Chúa và dân của Giao Ước. Người Do-thái ngày nay vẫn đọc sách này
vào dịp lễ Vượt Qua.
(4) Đnl 13,4-5.7-8.11 : 4 Tuyệt nhiên giữa anh
(em) sẽ không có người nghèo, vì ĐỨC CHÚA sẽ chúc phúc dồi dào cho anh
(em) trong miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm
gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu, 5 miễn là anh (em) thật
sự nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà lo đem ra thực hành tất cả
mệnh lệnh hôm nay tôi truyền cho anh (em) đây… Nếu giữa anh (em), trong
một thành nào của anh (em), trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban
cho anh (em), có một người anh em nghèo, thì anh (em) đừng có lòng chai
dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo
túng ; 8 nhưng phải mở rộng tay, và cho họ vay mượn
tất cả những gì họ thiếu… Vì trong đất của anh (em) sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh (em) : hãy mở rộng tay giúp
người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh (em), trong miền đất của anh (em).
(5) Ở Việt