Người Đi Tìm Anh Em
L.M.Nguyễn công Đoan S.J.
Ngày 19 tháng 3 năm 2019
(dongten.net)
Cuối năm thánh Lòng
Chúa Thương Xót, đọc chuyện Ông Giu-se trong Cựu
Ước
Đầu Năm Thánh, tôi đã
giới thiệu chuyện “Ông Giô-na”, nhân vật “nguyên mẫu” của người con cả trong dụ
ngôn “Người cha nhân hậu và hai đứa con” (x. Lc 15,11-32).
Cuối Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót, xin mời đọc chuyện “Ông
Giu-se : người đi tìm anh em” trong Cựu Ước, để kiểm nghiệm xem
chúng ta đã hoán cải được tới đâu để thực thi lời Chúa mời gọi : ”Hãy
thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng hay thương xót” (Lc 6,38).
Đây là một câu chuyện
dài trong sách Sáng Thế (chương 37 và chương 39 tới hết sách,
chương 50). Về phương diện vai trò của chuyện này trong cấu trúc
của Ngũ Thư, thì ta có thể nhận ra đây là một phần trong câu chuyện về nguồn
gốc dân Ít-ra-en, giải thích tại sao dòng dõi Áp-ra-ham lại di cư sang Ai-cập,
và sống ở đó suốt hơn bốn trăm năm ; chuyện chuẩn bị cho cuốn sách tiếp
theo là sách Xuất Hành, kể về dân Ít-ra-en được cứu thoát khỏi ách
nô lệ Ai-cập.
Câu chuyện này vừa mở
đầu ở chương 37 thì lại gián đoạn bởi câu chuyện dòng dõi ông Giu-đa (chương
38), có lẽ vì sau này các bộ tộc phía Bắc (vương quốc phía Bắc) do dòng dõi
Giu-se (Ép-ra-im) dẫn đầu, sẽ xung đột với dòng dõi Giu-đa (vuơng quốc phía
Nam).
Mở đầu : hạt
giống ghen ghét
Câu chuyện về ông
Gia-cóp (St 25,19 – 37,1), kể nguồn gốc của hai dân tộc sống kế bên
nhau, Ê-đôm và Ít-ra-en. Hai ông tổ là anh em sinh đôi, Ê-xau và Gia-cóp, con
ông I-xa-ác và bà Re-béc-ca. Gia-cóp được mẹ thương nên âm mưu giúp đoạt quyền
trưởng nam của Ê-xau. Ê-xau căm thù và muốn giết Gia-cóp. Bà mẹ tiếp tục âm mưu
nói nhỏ với ông I-xa-ác, giúp Gia-cóp trốn về nhà ông ngoại (St 28,2).
Tại đây Gia-cóp được người anh của mẹ (trong tiếng Việt,
ngrười miền Bắc gọi là bác, người miền Nam gọi là cậu) tên là La-ban đón về
nuôi và gả hai cô con gái Lê-a và Ra-khen cho Gia-cóp. Gia-cóp lại mánh mung
làm giàu từ một phần đàn chiên bố vợ chia cho ông để trả công. Sự thành công
của Gia-cóp gây ra sự ghen tức của các con trai ông La-ban, khiến chính ông
La-ban cũng tỏ thái độ không thân thiện. Thiên Chúa bảo Gia-cóp trốn trở về quê
nội.
Gia-cóp đem vợ con và
đàn vật trở về đất Ca-na-an, làm hòa được với Ê-xau, rồi định cư tại “đất mà
cha của ông đã trú ngụ, là đất Ca-na-an” (St 37,1).
Trong thời gian ở quê
ngoại, ông Gia-cóp đã sinh được 11 người con, trên đường trở về đất Ca-na-an,
bà Ra-khen sinh đứa con thứ hai và là thứ mười hai trong các con ông Gia-cóp,
và bà đã chết sau khi sinh đứa con này. Trước khi tắt thở, bà đặt tên cho nó là
Ben-ộ-ni (con của nỗi đau của tôi), nhưng ông Gia-cóp đặt tên lại cho nó là
Ben-gia-min (con của tay phải = mạnh) vì ông đã già mà còn sinh được đứa con
trai này. Ông Gia-cóp vốn thương bà Ra-khen ngay khi gặp nhau bên bờ giếng ngày
đầu tiên, vì nàng “sắc xảo mặn mà, so bề tài sắc lại là phần hơn” (x.
truyện Kiều). Nhưng khi giữ đúng giao kèo, gả con gái cho Gia-cóp sau bảy năm
phục vụ ông, thì ông La-ban lại đánh tráo, sau ngày đầu của tiệc cuới, đêm tân
hôn ông đưa cô chị Lê-a “mắt lờ đờ” (St 29,17) vào lều cho Gia-cóp.
“Tối lửa tắt đèn”, Gia-cóp tưởng đã lấy được người mình yêu. Sáng ra mới thấy
“người thật việc thật”. Gia-cóp khiếu nại, ông La-ban chống chế : “Phong
tục ở đây như thế, không được gả em trước khi gả chị. Thôi con cứ hưởng tuần lễ
cưới với đứa này đã, rồi cha sẽ gả cho con cả đứa kia, để bù lại công con phục
vụ ở nhà cha thêm bảy năm nữa” (x. St 29,15-30).
Lấy được người mình
yêu rồi thì phục vụ thêm bảy năm nữa có là bao. Trớ trêu là người vợ được yêu
thì chờ mãi chẳng sinh được mụn con, còn người vợ không được yêu thì lại được
Thiên Chúa bù, cho bà sinh một chuỗi liên tiếp bốn đứa con trai : Rưu-vên,
Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa. Niềm hy vọng của bà sau mỗi lần sinh là “sẽ được
chồng yêu” nhờ đã sinh cho ông một đứa con trai (x. St 29,31-35).
Đến phiên Ra-khen “ghen với chị” và bắt đền ông Gia-cóp. Ông Gia-cóp trả
lời : “Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa là Đấng đã không cho bà sinh đẻ”(St 30,1-2).
Bà Ra-khen nảy ra sáng kiến : “Đây Bin-ha, nữ tỳ của tôi, ông hãy đi
lại với nó, để nó sinh con trên đầu gối tôi và nhờ nó mà cả tôi nữa cũng có
con.”
Thế là bà đã theo sách
của bà nội ông Gia-cóp : bà Xa-ra hiếm muộn, bà đề nghị với ông
Áp-ra-ham : “Xin ông đi lại với nữ tỳ Ha-ga của tôi, may ra nhờ nó mà
tôi sẽ có con”. Bà được như ý… Nhưng thảm kịch gia đình nổ ra ngay. Bà
trách ông Áp-ra-ham : “Tôi bị sỉ nhục là tại ông đấy ! Chính tôi
đã đặt nữ tỳ của tôi vào lòng ông. Thế mà từ khi nó thấy mình có thai, nó coi
khinh tôi”. Bà Xa-ra tỏ ra cao tay : “Bà hành hạ Xa-ra khiến nàng
phải trốn đi” (St 16,1-6). Do sự can thiệp của Thần Sứ Thiên
Chúa, Ha-ga quay lại sinh con trong nhà ông Áp-ra-ham. Nhưng khi bà Xa-ra đã
sinh được I-xa-ác thì bà thẳng tay bắt ông Áp-ra-ham phải đuổi mẹ con Ha-ga đi
(x. St 20,8-21) (1).
Ra-khen đã thành công.
Bin-ha sinh cho bà một đứa con trai. Bà sung sướng đặt tên cho nó là “Đan” vì “Thiên
Chúa đã xét xử cho tôi ; Người cũng đã nghe tiếng tôi và đã cho tôi một
đứa con trai” (St 30,7). Bin-ha lại sinh cho bà một đứa con
trai nữa. Ra-khen nói : “Tôi đã chiến đấu với chị tôi những cuộc chiến
đấu thần thánh, và tôi đã thắng” ; và bà đặt tên cho nó là Náp-tha-li”.Nhưng
bà chị Lê-a cũng chưa chịu cho cô em chiến thắng. Bà hết sinh nở rồi, nhưng bà
nhập cuộc “chạy đua vũ trang” ; bà cũng áp dụng sách của Ra-khen. Lê-a
cũng có một nữ tỳ tên là Din-pa. Bà yêu cầu ông Gia-cóp đi lại với Din-pa.
Din-pa sinh liên tiếp hai đứa con trai, bà Lê-a lần lượt thấy mình “may mắn
quá” và “hạnh phúc biết bao” sau mỗi đứa con Din-pa sinh cho bà (2).
Một chuyện “bây giờ
mới kể”, cho chúng ta thấy rõ nỗi cay đắng của “cuộc chiến thần thánh”
giữa hai chị em, và như hé cho thấy tại sao bà Lê-a ngừng sinh đẻ sau một loạt
bốn thằng con trai. Chuyện xảy ra vào mùa gặt. Rưu-vên (con trai cả của Lê-a)
ra đồng, hái được mấy trái ngải sâm đem về cho mẹ. Ra-khen xin : “Xin
chị cho em mấy quả ngải sâm của con chị”. Ai ngờ quả bom nổ chậm vẫn nằm im
bao lâu nay giữa hai chị em bỗng nổ tung : “Đoạt chồng của tôi, đối với
cô chưa đủ hay sao, mà cô lại muốn lấy cả quả ngải sâm của con tôi nữa ?”
Không biết vì quá thèm trái ngải sâm hay vì muốn làm hòa với chị, Ra-khen đề
nghị đánh đổi : “Thế thì ông ấy cứ nằm với chị đêm nay, để đổi lấy mấy
quả ngải sâm của con chị”. Chuyện như đùa mà có thật ! “Đến chiều,
khi ông Gia-cóp ở ngoài đồng về ; bà Lê-a ra đón ông và bảo : “Ông
phải đến với tôi, vì tôi đã bỏ ra mấy quả ngải sâm của con tôi để đổi lấy ông”. Và
ông đã nằm với bà đêm ấy”. Thiên Chúa cũng nhập cuộc : “Thiên Chúa
đã nhận lời bà Lê-a. Bà có thai và sinh một người con trai thứ năm cho ông
Gia-cóp. Bà Lê-a nói : Thiên Chúa đã trả công cho tôi, vì tôi đã hiến nữ
tỳ của tôi cho chồng tôi”… Bà Lê-a lại có thai và sinh một người con trai thứ
sáu cho ông Gia-cóp. Bà Lê-a nói : “Thiên Chúa đã tặng tôi một món quà
quý. Phen này chồng tôi sẽ ở với tôi, vì tôi đã sinh cho ông sáu đứa con trai”…
Sau đó bà lại sinh một đứa con gái và đặt tên nó là Đi-na” (St
30,1-31). Cô con gái rượu này sẽ mang tai họa cho dân Si-khem (x. St 34).
Mỗi lần đặt tên cho
một đứa con, ta lại thấy được nỗi lòng của mỗi người vợ. Điệp khúc của bà Lê-a
là : “bây giờ thì chồng tôi sẽ yêu tôi” ; “Đức Chúa
đã nghe biết là tôi không được yêu” ; “phen này
thì chồng tôi sẽ gắn bó với tôi” ; sau đứa con thứ tư thì
bà nói “Phen này thì tôi sẽ tạ ơn Đức Chúa”. Khi nữ tỳ của
bà sinh đứa con trai thứ nhất thì bà nói “tôi may mắn quá” ; đứa
thứ hai thì bà nói “tôi hạnh phúc quá”. Đến phiên bà lại đích thân sinh
đứa con thứ năm thì bà nói : “Thiên Chúa trả công cho tôi vì
tôi đã hiến nữ tỳ của tôi cho chồng tôi”. Khi bà sinh đứa con thứ sáu thì
niềm hy vọng lại vươn lên trong lòng bà : “Phen này chồng tôi
sẽ ở với tôi, vì tôi đã sinh cho ông sáu đứa con trai”. Những
lời tâm sự của bà cho thấy thân phận của bà : là người vợ không được yêu,
bà đã chịu số phận “ăn cơm nguội, nằm nhà ngoài”, mà một nữ thi sĩ Việt Nam đã
diễn tả nỗi đắng cay ai oán : “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung, kẻ đắp
chăn bông kẻ lạnh lùng…” Trong nếp sống du mục, hai bà vợ thì tất nhiên mỗi bà
có một lều. Ông Gia-cóp “thường trú” trong lều bà vợ yêu. Lúc đầu vì ham con
thì ông còn năng lui tới với bà Lê-a, nhưng sau khi được bốn thằng con trai,
thì có vẻ ông giống cá lia thia : “Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi”.
Bởi vì ông có bao giờ thật lòng muốn cưới Lê-a làm vợ đâu ! Nhờ mấy trái
ngải sâm bà mới “chuộc” được ông, rồi được trớn nhờ đứa con thứ năm, bà có thêm
đứa con thứ sáu và một cô con gái “đội sổ”. Nhưng xem ra ước mong của bà “chồng
tôi sẽ ở với tôi” cũng chưa thành sự thật. Chưa có dấu hiệu nào cho thấy
ông Gia-cóp đổi “địa chỉ thường trú”.
Chuyện kể tiếp :
“Thiên Chúa nhớ đến bà Ra-khen, Thiên Chúa đã nhận lời bà và đã cho bà sinh
đẻ được. Bà có thai và sinh một đứa con trai. Bà nói : “Thiên Chúa
đã cất nỗi hổ nhục của tôi” ; bà đặt tên cho nó là Giu-se, bà
nói : Xin Đức Chúa thêm cho tôi một đứa con trai khác”. Thiên Chúa
cũng nhận lời bà, cho bà thêm một đứa con trai nữa, nhưng bà phải trả giá bằng
chính mạng sống của bà (3).
Hai chị em mang hai
nỗi khát vọng : người không được yêu thì Chúa cho bù nhiều con, nhưng chỉ
mong được yêu. Người được yêu thì lại hiếm hoi, muộn màng, chỉ mong có con.
Nhưng giữa hai chị em có một cuộc chiến dai dẳng, chỉ một lần bùng nổ cũng đủ
cho ta thấy sức nặng của nó. Cuộc chiến này đi vào huyết quản của những đứa
con. Sáu đứa con của bà Lê-a làm sao quên được nỗi đau của mẹ phải chịu số phận
hẩm hiu “ăn cơm nguội nằm nhà ngoài”. Bốn đứa con của hai người nữ tỳ, cũng
thấy và chung phần thân phận “nữ tỳ” của mẹ. Thế là cái mầm mống ganh tị đã nối
kết mười đứa con này với nhau.
Thêm vào đó, ông
Gia-cóp tiếp tục dồn tình yêu dành cho bà vợ yêu sang hai đứa con của bà, nhất
là cho Giu-se. “Ông Ít-ra-en (4) yêu Giu-se hơn tất cả các
con, vì ông đã già mới sinh được cậu, và ông may cho cậu một áo chùng dài tay”.
Cái lý do “ông đã già mới sinh được cậu” xem ra là lý do bề mặt thôi, lý
do sâu xa là ông thấy ở nó hình ảnh của mẹ nó. Tình yêu đặc biệt dành cho nó
chỉ là sự nối dài của tình yêu ông đã dành cho mẹ nó. Hậu quả tất yếu không
phải chờ lâu : “Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn tất cả các anh, thì
sinh lòng ghét cậu và và không thể nói năng tử tế với cậu”. Đó là cách biểu
lộ tối đa lúc này, vì Giu-se được cha “nâng như nâng trứng”, các anh đâu có thể
làm gì hơn.
Chính Giu-se lại đổ
dầu vào lửa. Chuyện thứ nhất : “Giu-se được mười bảy tuổi thì đi chăn
chiên dê với các anh. Khi ấy cậu còn trẻ, cậu đi với các con trai bà Bin-ha và
các con trai bà Din-pa, là các bà vợ của cha cậu. Cậu mách cha tiếng đồn không
hay về họ”
Chuyện thứ hai. Với
tâm hồn ngây thơ trong trắng, đuợc cha bao bọc, Giu-se chưa hiểu được cái khúc
mắc trong tương quan giữa cậu với mười người anh em cùng cha khác mẹ kia, nên
cậu kể những giấc chiêm bao (St 37, 8-11) khiến chính ông Gia-cóp
cũng phải kinh ngạc : “Giấc chiêm bao mày đã thấy là gì ? Tao, mẹ
mày và các anh mày lại phải đến sụp xuống đất lạy mày hay sao ?” Tuy
nhiên ông đã gồm thâu cả trái tim của Ra-khen để yêu thương đứa con mồ côi mẹ,
nên “ông ghi nhớ điều ấy”. Các anh nghe những chuyện ấy thì “ghen với
cậu”. Thế là đủ cặp “ghen - ghét” rồi !
Hồi thứ nhất :
đường đi tìm các anh
Xem ra chính ông
Gia-cóp cũng chưa lường được sự ghen ghét của các anh đối với Giu-se đã tới mức
nào. Ông sai Giu-se : “Các anh con đang chăn chiên dê tại Si-khem phải
không ? Lại đây, cha sai con đến với các anh. Cậu thưa : “Dạ, con
đây !” Ông bảo cậu : “Con hãy đi xem các anh con có được yên lành,
xem chiên dê có được yên lành không, rồi đem tin về cho cha”. Rồi ông sai cậu
đi từ thung lũng Khép-rôn, và cậu đến Si-khem”.
Khép-rôn là nơi ông
Áp-ra-ham đã ở, và đã mua đất làm phần mộ của gia đình. Si-khem là nơi ông
Gia-cóp ở khi từ quê ngoại trở về. Sau vụ các con ông trả thù dân Si-khem về
chuyện cô Đi-na bị làm nhục, ông Gia-cóp di chuyển xuống phía nam về với ông
I-xa-ác ở Khép-rôn (x. St 34,1 – 35,29).
“Có người gặp thấy
Giu-se đi lang thang ngoài đồng : người đó hỏi cậu rằng : “Anh tìm gì
đấy ?” Cậu đáp : “Tôi đang tìm các anh tôi”… Nhờ người tốt bụng
chỉ chỗ, “Giu-se theo các anh và tìm thấy họ ở Đô-than”.
Giu-se đã đi hơn 100
cây số, hẳn cậu mừng rỡ vì tuởng mình đã thấy các anh. Nhưng “Họ thấy cậu từ
xa, và trước khi cậu tới gần họ thì họ lập mưu giết chết cậu.” Họ
bảo nhau : Thằng tướng chiêm bao đang đến kìa ! Bây giờ,
nào ta giết và ném nó xuống một cái giếng. Ta sẽ nói là một thú dữ đã ăn thịt
nó. Rồi ta sẽ thấy các chiêm bao của nó đi tới đâu !”
Xem ra những chiêm bao
của Giu-se đã đẩy sự ghen ghét tới tột độ. Ông Gia-cóp đã đọc ra ý nghĩa :
“Tao, mẹ mày và các anh em mày lại phải đến sụp xuống đất lạy mày sao ?”
Nhưng ông chỉ giữ trong lòng. Còn các anh cũng đọc ra ý nghĩa ngay từ giấc
chiêm bao đầu tiên : “Mày muốn làm vua làm chúa thống trị chúng tao
sao ?” Và họ càng ghét cậu thêm, vì những chiêm bao và những lời nói của
cậu.” Âm mưu của họ hôm nay nhằm thách đố những giấc chiêm bao của
Giu-se : giết Giu-se để xem những chiêm bao của cậu đi tới đâu.
1. Con đường đi xuống,
rơi vào tay một bọn sát nhân
Họ bàn nhau “giết
và ném nó xuống một cái giếng”. Người anh cả là “Rưu-vên tìm cách cứu em
khỏi tay họ”, đề nghị : “Đừng đổ máu, cứ ném nó xuống cái giếng kia
trong sa-mạc, nhưng đừng giơ tay hại nó.” Họ chấp nhận đề nghị của Rưu-vên.
“Vậy khi Giu-se đến chỗ các anh, thì họ lột chiếc áo chùng dài tay cậu đang
mặc. Họ túm lấy cậu và ném xuống cái giếng : giếng đó cạn, không có nước.
Rồi họ ngồi xuống dùng bữa”.
Lời cuối cùng ta nghe
từ miệng Giu-se là : “Tôi đang đi tìm các anh tôi. Xin làm ơn chỉ cho
tôi biết họ đang chăm ở đâu ?” Sự ghen ghét đã khiến “các anh không
thể nói năng tử tế với cậu”, bây giờ đã trở thành bạo lực. Ta không nghe
thấy cả đến tiếng kêu khóc của Giu-se. Giu-se đã biến khỏi chân trời của họ. Họ
có thể thản nhiên ngồi ăn uống. Sự tàn bạo đã đến tột đỉnh.
Đến đây ta bỗng thấy
hai truyền thuyết về việc Giu-se bị bán đuợc ghi nhận mà không giải thích.
Truyền thuyết thứ nhất là do sự can thiệp của Giu-đa, con trai thứ tư của bà
Lê-a. Sau khi quăng em xuống giếng, họ cúi xuống bữa ăn. Khi ngước mắt lên, họ
thấy một đoàn người It-ma-en với lạc đà chở hàng xuống Ai-cập. Một giải pháp
khác xuất hiện. Giu-đa đề nghị : “Giết em và phủ lấp máu nó (5) thì
chẳng được ích gì ? Thôi, ta hãy bán nó cho người It-ma-en, nhưng đừng
động tay tới nó, vì nó là em ta, là ruột thịt của ta”. Các anh em
nghe cậu.”
Truyền thuyết thứ hai
lại kể : “Những lái buôn người Ma-đi-an đi qua đó kéo Giu-se lên khỏi
giếng, rồi bán cậu cho người It-ma-en hai mươi đồng bạc. Những người này đưa
Giu-se xuống Ai-cập”. Hai truyền thuyết khác nhau ở điểm ai bán Giu-se cho
người It-ma-en, trùng nhau ở điểm người It-ma-en mua Giu-se và đưa xuống
Ai-cập.
Sau khi cho ta biết
điểm tới của Giuse, chuyện tiếp tục cho ta biết phần thứ hai trong kế hoạch của
các anh : “Ta sẽ nói là một thú dữ đã ăn thịt nó”. Họ không nói rõ
là họ sẽ nói với ai, nhưng chỉ có một người họ cần phải báo tin về Giu-se là
ông Gia-cóp, cha của họ. Kế hoạch của họ cũng tinh vi : “Họ lấy áo
chùng của Giu-se, giết một con dê đực (6), rồi nhúng áo chùng vào
máu. Họ gởi người mang cái áo chùng dài tay về cho cha họ và nói : “Chúng
con đã thấy cái này. Xin cha nhận ra xem có phải là áo của con cha hay không.”
Chú ý là họ gởi
người đem về chứ không ai đích thân về. Họ lạnh lùng với cha đến
thế. Họ để cha tự rút kết luận. Cái áo này thì ông Gia-cóp phải nhận ra ngay,
không lầm vào đâu được. Cái áo đẫm máu, mang đi cả trăm cây số thì đã khô cứng.
Ông Gia-cóp đâu có phương tiện ngày nay để phân biệt được máu người hay máu thú
vật. “Ông nhận ra cái áo và kêu lên : Áo chùng của con tôi đây !
Thú dữ đã ăn thịt nó ! Giu-se đã bị xé xác rồi !” Kế hoạch của họ
đã thành công.
Chuyện ngược đời xảy
ra : cha để tang con ! “Ông Gia-cóp xé áo mình ra, quấn áo vải thô
ngang lưng và để tang Giu-se lâu ngày”. Bây giờ thì “Tất cả các con trai
con gái ông đến an ủi ông, nhưng ông không để cho người ta an ủi ; ông
nói : “Cha sẽ để tang mà xuống với con cha ở âm phủ”. Và cha cậu khóc
thương cậu.” Mười người anh mang “nước mắt cá sấu”về an ủi cha và họ
để cho ông sống trong nỗi tuyệt vọng. Ở phần trên ta chỉ thấy nói đến một cô
con gái là Đi-na, bây giờ lại nói đến “tất cả các con trai con gái ông”.
Cô Đi-na được nhắc đến vì cô là nguyên cớ cho việc tàn sát dân Si-khem. Những
cô con gái khác không được kể đến, vì phong tục trọng nam khinh nữ giống Việt
Nam xưa : “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một đứa con trai
cũng là có, mười đứa con gái cũng là không). Thế là ông Gia-cóp đã gieo hạt
giống ghen ghét trong gia đình với vợ yêu vợ ghét, con yêu con ghét, thì bây
giờ phải ăn trái đắng.
Số phận thật của
Giu-se được kể tiếp, nhưng lại tiếp tục truyền thuyết về lái buôn người
Ma-đi-an : “Người Ma-đi-an đem bán cậu tại Ai-cập cho ông Pô-ti-pha, là
thái giám của Pha-ra-ô và là chỉ huy thị vệ.” (7)
Câu chuyện tạm dừng ở
đây, với việc Giu-se đã có một “bãi đáp“ có vẻ may mắn, nhường chỗ cho câu
chuyện về dòng dõi ông Giu-đa, giống như khi xem một bi kịch dài, giữa chừng có
một kịch ngắn chen vào, cho bớt căng thẳng.
2. Con đường đi xuống,
rơi xuống ngục tù
Câu chuyện tới đây xem
ra chỉ là chuyện xung khắc giữa anh em trong gia đình. Nhưng người kể bắt đầu
nối lại với câu chuyện của Gia-cóp khi trốn về quê ngoại, cho ta thấy bàn tay
Thiên Chúa can thiệp : “Ông Pô-ti-pha… đã mua cậu từ tay những người Ít-ma-en,
là những người đã đứa cậu xuống đó. Đức Chúa ở với Giu-se và
cậu là một con người thành công”. Khi ông Gia-cóp trốn về quê ngoại, Thiên
Chúa đã hiện ra với ông trong giấc mộng ở Bê-ten và nhắc lại cho ông lời Chúa
đã hứa với Áp-ra-ham. “Này Ta ở với ngươi ; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta
sẽ giữ gìn ngươi và Ta sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến
khi Ta hoàn thành điều Ta đã phán với ngươi” (x. St 28,10-22).
Ông La-ban đã nhận ra : “Nhờ bói toán, cha biết được Đức Chúa đã vì con
mà chúc phúc cho cha” (St 30,27) Ông Pô-ti-pha cũng nhận ra : “Chủ
cậu thấy rằng Đức Chúa ở với cậu và mọi việc cậu làm thì Đức Chúa cho thành
công... Đức Chúa chúc phúc cho nhà người Ai-cập ; phúc lành
của Đức Chúa xuống trên mọi tài sản của ông, trong nhà cũng như ngoài đồng. Tài
sản của ông, ông phó mặc tất cả trong tay Giu-se, và có Giu-se thì ông không
còn lo gì cả, chỉ biết đến bữa là ăn”.
Bấy lâu nay ta chỉ
thấy Giu-se được cha yêu hơn các anh vì “ông đã già mới sinh được cậu”.
Nay ông được chủ tín nhiệm vì “cậu là một con người thành công”. Người
kể bỗng cho ta biết thêm một điều : “Giu-se lại có duyên và đẹp trai”.
Cái gì sẽ xảy ra ?
“Có duyên và đẹp
trai” nên bà chủ để mắt tới cậu. Ông Pô-ti-pha là “thái giám và chỉ huy
thị vệ” nên suốt ngày bận việc quan. Việc nhà thì đã có Giu-se quán xuyến
tuyệt vời. Bà chủ chỉ có ngồi chơi xơi nước, đánh móng tay, thoa móng chân, đi
ra đi vô... cho hết ngày. Không biết ông là “thái giám” theo nghĩa nào ?
Nếu ông là “thái giám” theo nghĩa của Việt Nam thì thật là tội nghiệp cho bà.
Còn nếu ông được gọi là thái giám chỉ vì là “quản gia của nhà vua”, bà chủ ở
nhà từ sáng đến tối cứ thấy chàng thanh niên “có duyên và đẹp trai” đi
ra đi vô, đi lên đi xuống, thì khác nào con mèo thấy cục mỡ đu đưa trước mặt.
Con mèo vờn hoài mà cục mỡ không chịu rơi vào tay. Giu-se có Chúa ở với cậu thì
cậu cũng là người công chính, kính sợ Thiên Chúa nên luôn nói “không” với lời
mời mọc của bà chủ. Nhưng rồi …
Một ngày kia tai họa
ập xuống, khi con mèo thấy vắng người, nhảy lên chộp cục mỡ…
Giu-se chạy thoát,
nhưng chiếc áo còn lại trong tay bà chủ. Bà giữ áo làm tin. Nhưng không phải
thơ mộng như ca dao Việt Nam : “Hôm qua tát nước đầu đình - để quên
chiếc áo trên ngành hoa sen - em được thì cho anh xin - hay là em giữ làm tin
trong nhà.”
Hụt ăn lại té đau, con
mèo trả thù. Ngậm máu phun người : bà tru tréo gọi người nhà và bắt họ làm
chứng : “Các người xem đấy, người ta đã đưa về cho chúng ta một tên
Hip-ri để đú đỡn với chúng ta. Hắn đã đến với tôi để nằm với tôi, nhưng tôi đã
lớn tiếng kêu. Khi nghe tôi cất tiếng kêu, thì hắn bỏ áo lại bên cạnh tôi, chạy
trốn và ra ngoài.”
“Bà để áo cậu bên
cạnh mình cho đến khi ông chủ cậu về nhà”. Bà ca lại đủ sáu câu vọng cổ lâm
ly ai oán, khiến “ông chủ đùng đùng nổi giận. Ông chủ của Giu-se bắt cậu và
tống vào nhà tù, nơi các tù nhân của nhà vua bị giam giữ.” Vẫn còn chút may
mắn, vì Giu-se không bị tống vào nhà tù hình sự, nhưng nhà tù dành cho quan
chức trong triều đình. Lần trước bị anh em lột áo đẹp bán làm nô lệ, lần này bị
bà chủ giữ áo kêu chồng bỏ Giu-se vào thù
Thế là bãi đáp an toàn
thứ nhất bỗng trở thành cầu trượt để rớt xuống đáy : vào tận nhà tù.
3. Con đường đi lên, ở
với hai quan lớn trong tù
“Bĩ cực thái lai”. Đức
Chúa đã hứa với ông Gia-cóp : “Ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ gìn giữ
ngươi”, nay Đức Chúa cũng giữ lời hứa ấy với đứa con yêu dấu của ông. “Bấy
giờ Giu-se bị cầm tù, nhưng có Đức Chúa ở với cậu. Người tỏ lòng yêu thương cậu
và cho cậu được cảm tình của viên quản đốc nhà tù. Viên quản đốc nhà tù giao
phó cho Giu-se hết mọi tù nhân trong nhà tù, và tất cả những gì họ làm, đều do
cậu cho làm. Viên quản đốc nhà tù chẳng ngó ngàng chi đến tất cả những công
việc đã giao phó cho Giu-se, vì Đức Chúa ở với cậu, và điều gì cậu làm thì Đức
Chúa cho thành công”.
Cơ may lại tới khi hai
vị quan hầu cận của vua Pha-ra-ô, người dâng bánh và người dâng rượu, bị thất
sủng và bỏ vào nhà tù nơi Giu-se đang ở. Giu-se, người nô lệ ở tù, lại được
giao việc hầu hạ hai quan lớn. Lời cuối cùng chúng ta nghe từ miệng Giu-se là
khi trả lời một người hỏi cậu : “Anh đi tìm gì đấy”và cậu
đáp : “Tôi đang tìm các anh tôi. Xin làm ơn chỉ cho tôi biết họ đang
chăn ở đâu ?” Nay ta mới lại thấy cậu mở miệng.
Một buổi sáng, Giu-se
đến với hai quan lớn, “thấy họ ủ rũ”. Cậu lên tiếng hỏi : “Sao
hôm nay mặt mày các ông buồn bã thế ?” Họ trả lời cậu : “Chúng
tôi đã chiêm bao mà không ai giải thích cho”. “Ông tướng chiêm bao” ngày
nào, nay trở thành người giải thích chiêm bao. Cậu nói ngay : “Giải
thích chẳng phải là việc của Thiên Chúa sao ? Nhưng xin hai ông
cứ kể cho tôi”. Quan dâng rượu kể trước. Giu-se giải thích như điềm may,
báo cho biết ba ngày nữa ông sẽ được “vua nâng đầu lên” nghĩa là phục
chức cho ông. Sẵn dịp, Giu-se tâm sự với ông về hoàn cảnh oan ức của
mình : bị bắt cóc, bị tù oan, và xin ông khi được phục chức thì nhớ đến
cậu, tâu xin vua đưa cậu ra khỏi nhà này.
Quan dâng bánh nghe
lời giải thích thuận lợi, cũng phấn khởi kể giấc mơ của mình. Lời giải
thích : “Ba ngày nữa vua sẽ nâng đầu ông lên khỏi thân ông. Vua sẽ treo
ông lên cây, và chim choc sẽ rỉa thịt ông”.
Mọi chuyện diễn ra
đúng như lời “ông tướng chiêm bao” giải thích. Nhưng quan dâng rượu đã được
phục chức “không nhớ đến Giu-se, ông đã quên mất cậu”.
4. Con đường đi lên, lên xa giá thứ hai của Pha-ra-ô
Giu-se tiếp tục thân
phận trong nhà tù.
“Hai năm sau,
Pha-ra-ô chiêm bao… “, hai lần trong một đêm. “Sáng ngày ra, tâm thần
vua xao xuyến, vua vời tất cả các phù thuỷ và hiền sĩ Ai-cập đến. Pha-ra-ô kể
lại cho họ các giấc chiêm bao của mình, nhưng không có ai giải thích được cho
vua”. Bấy giờ quan dâng rượu mới nhớ lại chuyện cũ và tâu với vua về chuyện
“một chàng thanh niên Hip-ri, nô lệ của viên chỉ huy thị vệ… Anh ta đã giải
thích cho chúng tôi các chiêm bao của chúng tôi…Sự việc đã xảy ra như anh ta đã
giải thích”.
Quả là chết đuối vớ
được cọc ! “Pha-ra-ô vời ông Giu-se đến. Người ta vội đưa
cậu ra khỏi hầm. Cậu cạo râu, cắt tóc, thay quần áo vào chầu vua”.
Vua nói với
Giu-se : “Ta đã chiêm bao mà không có ai giải thích. Ta đã nghe nói
rằng ngươi chỉ cần nghe kể lại chiêm bao là giải thích được. Giu-se thưa vua
Pha-ra-ô rằng : “Không phải tôi, mà là Thiên Chúa sẽ cho câu trả
lời đem lại bình an cho Pha-ra-ô”.
Vua kể hai giấc chiêm
bao. Giu-se giải thích chiêm bao và kết luận : “sự việc đã được Thiên
Chúa quyết định và Thiên Chúa sẽ thực hiện.”
Giu-se còn vượt quá
việc giải thích : cậu hiến kế cho Pha-ra-ô : “Vậy bây giờ xin
Pha-ra-ô xem có người nào thông minh và khôn ngoan thì đặt người ấy cai quản xứ
Ai-cập…”
Vua nói với triều
thần : “Chúng ta tìm đâu được một người như người này, một người có
Thần Khí Thiên Chúa ?” Vua lập tức tấn phong Giu-se : “Coi
đây, Ta đặt ông cai quản toàn cõi Ai-cập”. Pha-ra-ô rút nhẫn ra khỏi tay mình
và xỏ vào tay ông Giu-se,mặc cho ông y phục vải gai mịn, và đeo vào cổ
ông chiếc vòng vàng.Vua cho ông lên xa giá thứ hai của vua, và người ta hô
trước mặt ông : “Quỳ xuống !”.
Đường đi xuống, hai
lần mất áo, rơi xuống đáy ; đường đi lên, hai lần thay áo, lần thứ hai thì
chính Pha-ra-ô mặc cho áo vải gai mịn. Lên tới đỉnh !
Đặt làm quan rồi,
Pha-ra-ô mới trao quốc tịch : “Pha-ra-ô nói với ông Giu-se : “Ta
là Pha-ra-ô. Không có lệnh của ông, không ai được cử động tay chân trong toàn
cõi Ai-cập. Pha-ra-ô đặt tên cho ông Giu-se là Xóp-nát Pa-nê-át và gả cô Át-nát
cho ông, cô là con gái ông Pô-ti Phê-ra, tư tế thành Ôn. Ông Giu-se đi kinh lý
xứ Ai-cập.”
Quả là như một giấc
mơ. Sau cơn ác mộng kéo dài từ khi bị các anh quăng xuống giếng, bị đem xuống
Ai-cập, làm nô lệ rồi bị quăng vào hầm giam tù. Hôm nay trời lại sáng, sáng rực
rỡ. Cũng vì “có duyên và đẹp trai” mà bị tù oan. Hôm nay được kéo lên
khỏi hầm ngục tù, cạo râu, cắt tóc, mặc áo vải gai mịn, đeo nhẫn của vua, đeo
vòng vàng, lên xa giá thứ hai của nhà vua. Là nô lệ trong nhà Pô-ti-pha, thì
chủ giao phó mọi việc. Vào tù thì lại được quản đốc nhà tù giao phó mọi tù nhân
trong nhà tù, “và tất cả những gì họ làm, đều do cậu cho làm”. Và từ hôm
nay thì “trong cả nước Ai Cập, không ai đuợc cử động tay chân
nếu không có lệnh của ông”. Pha-ra-ô chỉ còn hơn ông có cái ngai vua !
Thế là khi đưa Giu-se qua những chặng đường gian truân, Thiên Chúa đã chuẩn bị
cho cậu để cai quản toàn cõi Ai-cập. “Ông Giu-se được ba mươi tuổi khi ra
trình diện Pha-ra-ô, vua Ai-cập”.
Bảy năm sung túc trên
toàn cõi Ai-cập. Giu-se đã được hai đứa con trai. Tên mỗi đứa con diễn tả tâm
sự của ông : đứa thứ nhất, Mơ-na-se : “Thiên Chúa đã làm cho tôi
quên đi mọi gian khổ của tôi và tất cả nhà cha tôi” ; đứa thứ hai,
Ép-ra-im : “Thiên Chúa đã cho tôi sinh sôi nảy nở trong xứ tôi phải
chịu khổ cực”. Phải chăng Giu-se đã thực sự quên “tất cả nhà cha tôi” ?
Hồi thứ hai : tìm
các anh
1. Bọn do thám
Thời hạn hán đã tới. Không
chỉ đất Ai-cập bị mất mùa, đói kém. Ca-na-an cũng chung số phận. Tin tốt cũng
lan tới tai ông Gia-cóp. Ông nói với các con : “Sao các con cứ ngồi
nhìn nhau ?... Cha nghe nói bên Ai-cập có lúa bán ; các con hãy xuống
đó mua lúa về, để chúng ta sống chứ không phải chết.” Khi muốn khử trừ “ông
tướng chiêm bao” thì các anh có giải pháp ngay. Bây giờ đến chuyện sống chết
của cả gia đình thì các anh “ngồi nhìn nhau” ! May mà ông Gia-cóp
nghe được tin. Ông sai muời người anh đi, nhưng giữ Ben-gia-min ở nhà vì ông
nói : “Lỡ ra nó gặp tai họa”.
Giu-se tưởng đã “quên
được tất cả nhà cha tôi”. Nhưng kìa mười kẻ đồng lõa giết em thuở nào bỗng
xuất hiện trong đám người đến mua lúa. Họ làm sao nhận ra “ông tướng chiêm bao”
nơi nhân vật đầy uy quyền này. “Họ sấp mặt xuống đất lạy ông”. Lời ông
Gia-cóp giải thích chiêm bao của Giu-se bỗng ứng nghiệm trước mắt ông. Ông bình
tĩnh đóng kịch. Ông làm như người xa lạ đối với họ, và nói với họ cách cứng
cỏi : “Các ngươi từ đâu đến ?” Họ đáp : “Thưa từ Ca-na-an, để
mua lương thực.” Giu-se bắt đầu buộc tội họ là một bọn đồng lõa đi do thám.
Để chứng minh họ là
người lương thiện, họ kể hoàn cảnh gia đình : “Chúng tôi đều là con
cùng một cha.” Giu-se tiếp tục buộc tội. Họ kể thêm : “Các tôi tớ
ngài là mười hai anh em, chúng tôi là con cùng một cha, ở đất Ca-na-an. Đứa út
hiện ở nhà với cha, còn một đứa thì không còn nữa”. Không hỏi mà
khai ! Giu-se vẫn tỉnh bơ kết luận : “Đúng như ta đã nói với các
ngươi ; các ngươi là bọn do thám !” Gia đình gồm cha và mười hai
an hem là lý chứng duy nhất của họ để chứng minh họ là ngươi lương thiện.
Giu-se bắt đầu thử
thách tình anh em của họ : “Ta sẽ thử thách các ngươi thế
này : Ta lấy mạng sống Pha-ra-ô mà thề rằng các ngươi sẽ không được ra
khỏi đây, trước khi đứa em út của các ngươi đến. Hãy cho một anh em về tìm đứa
em, còn các ngươi thì phải ở tù. Ta sẽ thử xem lời các ngươi nói có đúng sự
thật hay không. Bằng không, ta lấy mạng sống Pha-ra-ô mà thề rằng : các
ngươi là bọn do thám.” Rồi ông giam giữ họ ba ngày.
Để tỏ ra mình là
Ai-cập chính tông, hai lần ông “lấy mạng sống Pha-ra-ô mà thề”. Nhưng
khi giáp mặt lại sau ba ngày, ông lại nói : “Các ngươi muốn sống thì hãy
làm thế này, vì ta kính sợ Thiên Chúa. Nếu các ngươi là những kẻ
lương thiện, thì một anh em cứ phải chịu giam trong nhà tù này, còn các người
khác thì hãy ra đi, đem lúa về cho gia đình khỏi đói. Rồi các ngươi hãy đem đứa
em út đến cho ta. Bấy giờ sẽ rõ là các ngươi nói đúng, và các ngươi sẽ không
phải chết.” Họ đã làm như vậy.” Ông đảo ngược giải pháp ban đầu. Nhưng
bấy nhiêu đủ để cho mười người nhớ lại những gì họ đã làm cho Giu-se, và họ tự
trách mình. Đến đây người kể mới cho chúng ta biết là ông Giu-se dùng thông
ngôn để nói với họ. Nhưng ông không quên tiếng mẹ đẻ, nên khi họ tự trách mình
thì ông nghe được hết. Bây giờ chúng ta mới biết là khi bị các anh lột áo quăng
xuống giếng thì Giu-se đã năn nỉ các anh. Nay thì họ năn nỉ ông. Ông làm mặt ngầu
với họ, nhưng lòng ông đâu phải là khối đá. “Bấy giờ ông lánh ra chỗ khác mà
khóc, sau đó mới trở lại nói chuyện với họ. Trong số họ, ông bắt Si-mê-ôn và
cho trói trước mặt họ”. Ông không bắt Rưu-vên là anh cả, vì Rưu-vên đã tìm
cách cứu ông. Si-mê-ôn là người con thứ hai của bà Lê-a, mang tâm sự của
bà : “Đức Chúa đã nghe biết là tôi không được yêu”.
Sau màn công khai tỏ
uy quyền và răn đe rất thành công, thì ở hậu trường Giu-se lại ra lệnh “đổ
đầy lúa mì vào bao của họ, và trả lại bạc, của ai thì để vào bao người ấy, đồng
thời cho họ lương thực ăn đường.”
“Họ chất lúa mì của
mình lên lưng lừa và đi khỏi đó”. Nhưng đến chỗ nghĩ đêm thì một người hát
hiện bạc của mình được trả lại ở miệng bao lúa. “Họ hết hồn hết vía, kinh
hoàng nói với nhau : “Thiên Chúa làm gì cho chúng ta thế này”. Từ đầu
câu chuyện tới bây giờ ta mới nghe những người này nói đến Thiên Chúa can thiệp
vào cuộc đời họ !
2. Bọn cướp
Về đến nhà họ kể cho
cha những gì đã xảy ra và điều kiện để có thể xuống mua lúa lần nữa. Rồi họ
phát hiện điều kinh hoàng hơn nữa khi đổ lúa ra : “mỗi người thấy trong
bao có túi bạc của mình. Thấy những túi bạc, họ và cha họ phát sợ”.
Nhưng ông Gia-cóp chỉ quan tâm tới những đứa con. “Chúng mày cướp con
tao : Giu-se không còn nữa. Si-mê-ôn không còn nữa, mà Ben-gia-min chúng
mày cũng muốn bắt đem đi. Mọi chuyện đổ lên đầu tao !”
Thật là khốn khổ,
xuống Ai-cập mua lúa thì bị “ông chúa xứ ấy ăn nói cứng cỏi và coi chúng con
là bọn do thám”. Về nhà thì lại bị cha mắng là bọn cướp, không phải cướp
của mà cướp người : “Chúng mày cướp con tao !”
Lại Rưu-vên, người con
cả lên tiếng năm nỉ cha cho em đi và cam đoan sẽ đưa em trở về. Nhưng ông
Gia-cóp cương quyết : “Con tao sẽ không xuống đó với chúng mày,
vì anh nó đã chết, chỉ còn lại một mình nó thôi. Nó mà gặp tai họa trong chuyến
đi chúng mày sắp thực hiện, thì chúng mày sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải buồn
sầu mà xuống âm phủ”. Lời đay nghiến thật khủng khiếp : chỉ có
Ben-gia-min và Giu-se mới là “con tao”, chúng mày là bọn cướp !
Mạng sống tao gắn với “con tao”. Con tao mà chết thì tao cũng chết theo
vì buồn phiền. Khi Giu-se mất tích ông đã tuyên bố, “cha sẽ để tang mà xuống
âm phủ với con cha”.
Nhưng lúa ăn sắp hết
trong khi nạn đói trở nên trầm trọng hơn. Ông Gia-cóp lại giục các con xuống
Ai-cập mua lúa. Lần này thì Giu-đa lên tiếng, nhắc lại điều kiện của “ông chúa
xứ ấy”. Nhân dịp này ta mới biết thêm. Ở trên thì câu chuyện giữa họ với “ông
chúa xứ ấy” được kể vắn gọn. Trong câu chuyện hôm nay, bị cha trách “sao lại
đi khai với ông ấy rằng các con còn một đứa em ?” thì họ kể rằng cuộc
“điều tra lý lịch” dài hơn : “Ông ấy hỏi đi hỏi lại về chúng con và họ
hàng chúng con ; ông ấy hỏi :’Cha các ngươi còn sống không ? Các
ngươi có em không ?’Chúng con cứ theo các câu hỏi mà khai với ông ta. Có
ngờ đâu ông ấy sẽ bảo chúng con : Đưa em các ngươi xuống đây !”
Rồi Giu-đa cam đoan sẽ đưa em về.
Phải chọn giữa sống và
chết cho cả gia đình, ông Gia-cóp đành phải nhượng bộ. Ông bảo các con đem theo
sản phẩm địa phương làm quà, đem gấp đôi số bạc để giao lại bạc lần trước và trả
cho lần này. Ông phó thác cho Thiên Chúa : “Xin Thiên Chúa toàn năng
làm cho ông ấy chạnh lòng thương các con, mà để cho người anh em kia và
Ben-gia-min cùng về với các con. Còn cha, nếu phải mất con, thì cha đành chịu
mất vậy.” Thế là ông Gia-cóp chấp nhận đổi mạng đứa con duy nhất để cả nhà
được sống !
3. Bữa ăn đoàn tụ
không lời
“Họ đứng lên, xuống
Ai-cập và vào trình diện ông Giu-se. Khi ông Giu-se thấy Ben-gia-min cùng đến
với họ, thì nói với người quản gia của ông : “Anh đưa những người này về
nhà, giết một con vật, và làm các món ăn, vì những người này sẽ dùng bữa với
tôi trưa nay”.
Hôm ở Đô-than, sau khi
quăng Giu-se xuống giếng thì các anh ngồi xuống ăn uống. Hôm nay có cả đứa em
út thì Giu-se mời họ ăn trưa với ông. Đứng trước sự tử tế của “ông chúa xứ ấy”
thì họ lại “suy bụng ta ra bụng người”. Hình ảnh họ xông vào lột áo Giu-se và
quăng em xuống giếng trở thành mẫu cho họ tưởng tượng : “Chúng ta bị
đưa đi vì chuyện số bạc đã được trả lại trong bao lúa của chúng ta lần trước.
Người ta sắp xông tới, nhảy bổ vào chúng ta, bắt chúng ta làm nô lệ, và lấy lừa
của chúng ta”. Tới lối vào nhà, họ đánh bạo nói với người quản gia về
chuyện số bạc lần trước. Ông này trấn an và giải thích cho họ : “Thiên
Chúa của các ông, Thiên Chúa của cha ông các ông đã đặt cho các ông một kho
tàng trong các bao lúa của các ông…Sau đó ông đưa Si-mê-ôn ra cho họ”.
Vào trong nhà, quản
gia “lấy nước cho họ rửa chân, lấy cỏ cho lừa của họ ăn”. Còn họ thì “bày
quà ra”, chờ ông Giu-se về.
Khi ông Giu-se vào
nhà, họ dâng quà, và “sụp xuống đất lạy ông”. Ông hỏi thăm ngay về cha
của họ. Họ đáp : “Tôi tớ ngài, là cha của chúng tôi, vẫn được bình an,
người vẫn còn sống”. Rồi họ quỳ sụp xuống lạy”... Họ nói “tôi tớ ngài là
cha của chúng tôi… “ rồi họ quỳ sụp xuống lạy, tức là thay cho cha họ mà
lạy. Chiêm bao thứ nhất của Giu-se là bó lúa của Giuse vươn dạy, “những bó
lúa của các anh bao quanh và sụp xuống lạy”. Giấc chiêm bao thứ hai là “mặt
trời, mặt trăng và mười một ngôi sao đang sụp xuống lạy em”. Ông Gia-cóp
nói : “Tao, mẹ mày và các anh mày lại phải đến sụp xuống lạy mày sao ?”Hôm
trước mười anh đã sấp mặt xuống đất xuống đất lạy. Hôm nay thì mười một anh em
và qua họ cả ông Gia-cóp đã quỳ sụp lạy Giu-se.
“Ngước mắt lên, ông
thấy Ben-gia-min, người em cùng mẹ với ông, ông liền hỏi… “ Vẫn giữ vai
quan lớn, ông nói với em : “Con ơi, xin Thiên Chúa đoái thương con”.
Nhưng liền đó “ông xúc động nghẹn ngào, rồi đi vào phòng riêng mà khóc.”
Sau đó ông rửa mặt và đi ra… Hôm trước ông đã “lánh ra chỗ khác mà khóc”
khi nghe các anh ân hận vì đã không đếm xỉa tới lời năn nỉ của ông. Hôm nay ông
“vào phòng riêng mà khóc” vì đã gặp lại đứa em cùng mẹ với ông.
Chú ý tới sự thay đổi nơi ông khóc : từ “chỗ khác” ở nơi làm việc, tới
“phòng riêng”ở trong nhà ông.
Ông truyền dọn bữa ăn
lên. Ba bàn khác nhau : bàn riêng cho Giu-se, bàn riêng cho người Ai-cập
và bàn riêng cho các anh em ngồi đối diện với ông. Họ ngồi theo thứ tự trong
gia đình. Họ nhìn nhau kinh ngạc. Ngồi hai bàn đối diện,
nhưng thức ăn dọn trên bàn của Giu-se. “Ông truyền đem cho họ những phần
thức ăn dọn trước mặt ông”. “Phần của Ben-gia-min thì nhiều gấp năm phần
của tất cả những người khác. Họ cùng với ông ăn uống say sưa”. Một bữa ăn
đoàn tụ gia đình, nhưng chưa nói chuyện với nhau.
4. Bọn vô ơn và ăn cắp
Sau bữa ăn, Giu-se lại
âm mưu với người quản gia : đong lúa cho đầy, trả bạc lại như lần trước,
nhưng giấu cái chén bạc của ông vào bao của đứa út.
“Khi trời sáng,
người ta để cho các anh em ra đi, cùng với lừa của họ”. Hôm qua họ tưởng
tượng người ta sẽ xông vào, bắt họ làm nô lệ và lấy lừa của họ !
Khi họ rời khỏi thành
chưa được bao xa thì ông Giu-se thực hiện tiếp âm mưu : sai quản gia đuổi
theo, cáo tội vô ơn, ăn cắp…
Mở đầu câu chuyện này
thì Giu-se là người mách cha những tiếng đồn không hay về các anh”. Có vẻ như
Giu-se chơi trò “đã mang tiếng thì cho mang tiếng luôn !” Hôm trước buộc
tội họ là bọn do thám, hôm nay thì buộc tội họ là bọn vô ơn, trộm cắp. Hôm
trước họ đem gia đình làm chứng cứ họ là người lương thiện. Hôm nay thì họ đưa
chuyện lương thiện vì đem trả lại số bạc lần trước và tự đưa ra hình phạt khủng
khiếp để chứng minh họ không thể là kẻ trộm cắp : “Hễ
tìm thấy đồ vật đó nơi ai thì kẻ ấy phải chết, còn chúng tôi sẽ làm nô lệ cho
ngài”. Người quản gia với Giu-se đóng kịch thật ăn ý với nhau ! Ông ôn
tồn giảm nhẹ mức hình phạt : “Hễ tìm thấy đồ vật đó nơi ai, thì người
ấy phải làm nô lệ cho tôi còn các ông sẽ vô can”. Ai nấy vội vàng
hạ bao lúa của mình xuống đất, rồi mở bao ra.” Người quản gia bắt
đầu lục soát, bắt đầu từ người anh cả và kết thúc nơi người em út. Cái chén
được tìm thấy trong bao lúa của người em út”.
Hôm trước thì họ lột
áo Giu-se và quăng cậu xuống giếng, thấm áo vào máu dê gởi về cho cha. Hôm nay
thì họ “xé áo mình ra, rồi mỗi người chất đồ lên lưng lừa của mình và trở về
thành.”
“Khi ông Giu-đa và
các anh em vào nhà ông Giu-se, thì ông còn đang ở đó”. Từ lúc này Giu-đa
bỗng trở thành người dẫn đầu và đại diện anh em để trình bẩm với ông Giu-se.
Ông Giu-se lại đánh phủ đầu : “Các ngươi làm gì vậy ? Các ngươi
không biết rằng một người như ta phải có tài bói toán sao ?” Ông
Giu-đa nói : “Chúng tôi biết thưa gì với ngài, nói năng làm sao, tự biện
hộ thế nào ? Thiên Chúa đã phơi bày tội của các tôi tớ ngài
ra. Chúng tôi xin làm nô lệ cho ngài, cả chúng tôi lẫn người bị tìm thấy đang
giữ cái chén”. Tất cả các anh liên đới với Ben-gia-min.
Họ “á khẩu” vì Thiên
Chúa đã phơi bày tội của họ. Tội nào ? Chuyện này là ông Giu-se bày ra
mà ! Ông Giu-se nhắc lại lời quản gia đã thay ông mà nói với họ : “Không
đời nào ta làm như vậy…” Giu-đa lại kể cậu chuyện của gia đình, nhấn mạnh
tương quan giữa cha già hai đứa em cùng mẹ, kể lại cuộc đối thoại với Giu-se
lần trước, và lời cha nói trước khi cho họ đi chuyến này : “Tôi tớ ngài
là cha của tôi, nói với chúng tôi : “Các con biết
rằng vợ của cha đã sinh cho cha hai đứa. Một đứa đã lìa cha và cha
đã nói : Đúng là nó đã bị xé xác và cho đến nay cha chẳng được nhìn lại
nó. Nếu các con đem cả đứa này đi xa cha, và nó gặp tai họa, thì các con sẽ làm
cho kẻ bạc đầu này phải đau khổ mà xuống âm phủ”.
Giu-đa nhận trách
nhiệm của mình và cả nhóm mười người về mạng sống của cha và của
Ben-gia-min : “Vậy bây giờ nếu tôi về với tôi tớ ngài là cha
của tôi, mà không có thằng bé cùng về với chúng tôi, bởi vì người chỉ sống
khi nó sống, thì khi thấy là không có thằng bé người sẽ chết mất. Các
tôi tớ ngài sẽ làm cho kẻ bạc đầu là tôi tớ ngài và
là cha của chúng tôi, phải buồn sầu mà xuống âm phủ.
Qua lời kể của Giu-đa,
Gia-cóp chỉ coi Ra-khen là vợ và hai đứa bà sinh cho ông là con ông. Nhưng
Giu-đa gọi ông làcha của tôi, rồi cha của chúng tôi. Giu-đa
đã nhìn nhận sự khác biệt trong tương quan giữa “nhóm mười” với cha, và nhóm
hai đứa con bà Ra-khen với cha, đồng thời vẫn nhận ông là cha của mình và của
cả nhóm mười. Lúc khử trừ Giu-se, họ đã chẳng thương tiếc cha, dù ông Gia-cóp
tuyên bố “cha sẽ để tang mà xuống với con cha ở âm phủ”. Hôm nay thì họ
thật sự quan tâm tới mạng sống của cha.
Ông Giu-đa tiếp tục
nói về trách nhiệm riêng của mình : “Trước mặt cha tôi, tối tớ ngài đã
bảo lãnh cho thằng bé và nói : “Nếu con không đưa nó về cho cha thì con sẽ
đắc tội với cha suốt đời”.
Lời cuối cùng của
Giu-đa : “Vậy bây giờ, tôi tớ ngài xin ở lại làm nô lệ ngài thế cho
thằng bé, còn thằng bé thì xin cho nó về với các anh nó. Thật vậy,
tôi về với cha tôi thế nào được, nếu thằng bé không thể cùng đi với tôi ?
Tôi không thể nào chứng kiến tai họa sẽ giáng xuống cha tôi !”
Tuyệt vời !
Giu-đa xin thế mạng cho Ben-gia-min để cứu mạng của cha, và xin cho Ben-gia-min
về với các anh nó. Nó không chỉ là em của Giu-se, mà là em của cả “nhóm
mười” nữa, vì cha của hai đứa con bà Ra-khen cũng là cha của chúng tôi.
Hồi kết : tìm
được anh em
Giu-se đã đi hết con
đường gian khổ nhiều chặng do anh em đẩy ông vào, và chỉ có Thiên Chúa ở với
ông. Giu-se dẫn các anh trải qua mấy chặng đường gian khổ do chính ông bày ra
và cầm chịch. Ông đã làm cho lòng hiếu thảo và tình anh em đích thực nảy sinh và
nối kết họ : biến tình đồng lõa thuở nào thành tình anh em đích thật, đến
chỗ dám hiến mạng sống cho nhau, và đổi sự thờ ơ đối với cha nên tình hiếu thảo
đích thật, đến nỗi sẵn sàng hiến mạng để cha đuợc sống. Sự khác biệt do “khác
mẹ” gây ra đã đuợc hàn gắn trong tình “cha chúng tôi”.
Cuộc thử thách đã mang
lại kết quả tuyệt vời. Giu-se không thể tiếp tục cuộc thử thách. Lần đầu ông
lánh ra chỗ khác mà khóc ; lần thứ hai ông vào phòng riêng mà khóc. Lần
này thì khác : “Ông Giu-se không thể cầm lòng trước mặt tất cả những
người đứng bên ông, nên ông kêu lên : “Bảo mọi người ra khỏi đây !”
Khi không còn người nào ở với ông, ông mới tỏ cho anh em nhận ra mình. Ông òa
lên khóc, và người Ai-cập nghe được, triều đình Pha-ra-ô cũng nghe thấy.”
Bao nhiêu năm niềm hy
vọng gặp lại em, gặp lại cha tưởng đã bị chôn vùi. Giu-se đã gởi tâm sự này khi
đặt tên đứa con đầu tiên : “Đức Chúa đã làm cho tôi quên đi mọi gian
khổ của tôi và tất cả nhà cha tôi”. Hôm nay Đức Chúa lại làm việc kỳ diệu
vuợt quá sức chờ đợi : em út đây, mười anh đây, trong tình anh em chân
thật nhất. Niềm vui vỡ òa trong tiếng khóc.
“Ông Giu-se nói với
anh em : “Tôi là Giu-se đây ! Cha tôi còn sống không ?”
Lời ông như bom nổ.
Anh em ù tai, hoa mắt : “Nhưng anh em không thể trả lời ; thấy
mình trước mặt ông, họ bàng hoàng.”Hôm ở Đô-than, Giu-se vừa tới gần các
anh thì họ xông vào lột áo và quăng cậu xuống giếng. Hôm nay họ bàng hoàng thì
“Ông Giu-se nói với anh em : “Hãy lại gần tôi”. Họ lại gần. Ông
nói : “Tôi là Giu-se, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập”.
Lúc nãy Giu-đa nói “Thiên
Chúa đã phơi bày tội của các tôi tớ ngài ra”, vì nghĩ rằng quả thật họ can
tội ăn cắp. Nhưng bây giờ mới là lúc phơi bày tội thật của họ, tội bán
em sang Ai-cập : chính đứa em bị bán đang đứng trước mặt các anh và
nói rõ cái tội đó.
Giu-se giải thích ý
nghĩa của chuyện này trong kế hoạch của Thiên Chúa : “Nhưng anh em
đừng buồn phiền, đừng hối hận, vì đã bán tôi sang đây : chính là để duy
trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi truớc anh em”. Thật
vậy, đây là năm thứ hai có nạn đói trong xứ, và sẽ còn năm năm nữa không cày
không gặt. Thiên Chúa đã gởi tôi đi trước anh em, để giữ cho an hem, một số
người sống sót trong xứ, và để cứu sống anh em, nhằm thực hiện cuộc giải thoát
vĩ đại. Vậy không phải các anh đã gởi tôi đến đây, nhưng là Thiên Chúa…”
Ngày nào năm xưa, cha
sai Giu-se lên đường đến với anh em để đem tin về cho cha. Hôm nay Giu-se mới
đến được với anh em và sai chính anh em về đem tin cho cha : “Anh em
hãy mau về với cha tôi và thưa người rằng : “Con trai cha là Giu-se nói
thế này : Thiên Chúa đã đặt con làm chúa toàn cõi Ai-cập ; xin cha
xuống đây với con, đừng trì hoãn”.
Ngày nhận được chiếc
áo của Giu-se đầy máu, ông Gia-cóp đã nói : “Cha sẽ để tang mà xuống âm
phủ với con cha”. Hôm nay Giu-se nhắn ông xuống với con, nhưng không phải
xuống âm phủ mà xuống Ai-cập !
Mấy lần nói với anh
em, Giu-se luôn hỏi về “cha của các ngươi”. Hôm nay ông sai họ về
đem tin cho “cha của tôi”. Cha của anh em là cha của tôi. Lời
biện hộ của Giu-đa đã làm cho lời khai lần đầu thành sự thật : “… Các
tôi tớ ngài là mười hai anh em, chúng tôi là con cùng một cha, ở đất Ca-na-an,
đứa út hiện đang ở nhà với cha, còn một đứa thì không còn nữa”. Ông hỏi “cha
tôi còn sống không ?” nhưng không cần họ trả lời nữa, vì lời trần tình
thống thiết của Giu-đa đã xác nhận điều ấy rồi.
“Bấy giờ ông bá cổ
Ben-gia-min em ông mà khóc ; Ben-gia-min cũng gục vào cổ ông mà khóc. Rồi
ông hôn tất cả các anh và ôm họ mà khóc, sau đó anh em ông nói chuyện
được với ông.” Chú ý là chỉ có Giuse và Ben-gia-min khóc, không thấy
mười người anh khóc. Nhưng họ nói chuyện đựợc với ông.
Thế là câu chuyện
chính “đi tìm các anh” đã kết thúc. Trong thời “gieo gió”, “các anh
thấy cha yêu cậu hơn tất cả các anh, thì sinh lòng ghét cậu và không
thể nói năng tử tế với cậu”. Khi bão nổi lên thì Giu-se một mình gánh
chịu, và ở nhà thì ông Gia-cóp nói “tất cả đổ lên đầu tao”. Cũng tại
ông, con yêu con ghét, nên mới ra nông nỗi này. Những nỗi đau và nuớc mắt của
Giu-se đã biến đổi tất cả. Giu-se không chỉ là “ông tướng chiêm bao” mà còn là
“tiên tri” để giải nghĩa đuờng lối nhiệm mầu của Thiên Chúa và báo trước “cuộc
giải thoát vĩ đại”. Trong khi mọi người bỏ ông thì có Chúa ở với ông. Ông
không oán hận vì ông nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa. Ông gánh chịu tất cả để
duy trì sự sống cho gia đình. Hôm nay thì họ đã tỏ ra xứng đáng là anh của
ông : liên đới với nhau, Giu-đa thí mạng sống vì em và vì cha và nói
chuyện được với ông.
Nhưng câu chuyện chưa
thể kết thúc, còn phải thấy ông Gia-cóp nhận tin và hồi sinh thế nào. Pha-ra-ô
truyền gởi “xe của Ai-cập về chở đàn bà con trẻ, rước cha” ; Giu-se
gởi “mười con lừa chở những thứ tốt nhất của Ai-cập và mười con lừa cái chở
lúa mì, bánh và lương thực để cha dùng khi đi đường. Rồi ông tiễn họ lên đường
và bảo họ : “Đừng cãi cọ dọc đuờng”. Lời dặn dò cuối cùng của
Giu-se thật thấm thía. Đã trở thành anh em thật rồi, thì đừng cãi cọ dọc đường.
Ông đã tha hết cho họ thì họ cũng đừng cấu xé nhau nữa.
Một cảnh tưng bừng
chưa hề có bỗng diễn ra trước nhà ông Gia-cóp. Các con ông vào nhà hớn hở báo
tin cho ông : “Giu-se còn sống và hiện làm tể tướng trên khắp cõi
Ai-cập”. Đến phiên ông Gia-cóp chết lặng : “Nhưng lòng ông không hề
xúc động, vì ông không tin họ. Khi họ thưa lại với ông tất cả những lời ông
Giu-se đã nói với họ, và ông thấy xe cộ Giu-se đã cho về rước ông, thì tâm thần
ông Gia-cóp, cha họ, mới hồi sinh” : “Thế là đủ ! Giu-se, con
cha vẫn còn sống ! Cha sẽ đi để nhìn thấy nó trước khi chết”.
“Ông Gia-cóp đã sai
ông Giu-đa đi trước đến với ông Giu-se, để ông Giu-se tới Gô-sen gặp ông. Khi
họ đến đất Gô-sen, thì ông Giu-se cho thắng xe và lên Gô-sen đón ông Ít-ra-en,
cha ông. Khi hai cha con vừa thấy nhau thì ông Giu-se bá cổ cha và gục đầu vào
cổ cha mà khóc hồi lâu. Ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se : “Phen
này, cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con, và thấy con còn sống”.
Có thể kết thúc cuốn
phim với hình ảnh đoàn tụ tuyệt vời này.
Khi sai các con xuống
Ai-cập lần thứ hai, ông Gia-cóp nói : “Xin Thiên Chúa tòan năng làm cho
ông ấy chạnh lòng thương các con…” Nhưng Thiên Chúa đã làm hơn thế nhiều
trước khi ông Gia-cóp cầu xin. Qua tất cả những gì đã xảy ra, Thiên Chúa ở với
Giu-se và chính Thiên Chúa sai Giu-se đi trước để cứu sống cả gia đình.
Chính Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót và Giu-se trở thành công cụ của
lòng thương xót. Giu-se đã tỏ lòng thương xót các anh, không oán hận.
Giu-se đã biến lòng hận thù, ghen ghét của các anh thành tình huynh đệ đích
thật. Mỗi lần thử thách các anh thì Giu-se ẩn mình mà khóc. Khi đã tìm được anh
em thì Giu-se òa khóc, đến nỗi dù người Ai-cập đã bị đuổi hết ra ngoài, họ vẫn
nghe được, và cả triều đình Pha-ra-ô cũng nghe thấy.
Lời bạt : âm vang
chuyện ông Giu-se trong Tân Ước.
Lời cuối cùng của ông
Gia-cóp khi đã gặp lại con, không thể không gợi nhớ lời ông già Si-mê-ôn trong
Tin Mừng Lu-ca. Trong sách Tin Mừng này ba lần Chúa Giê-su khóc
thương thành Giê-ru-sa-lem vì họ từ chối Chúa (Lc 13,34-36 ;
19,41-44 ; 23,28-31). Giu-se cũng khóc ba lần : hai lần khi cố tình
thử thách các anh và lần thứ ba khi đã biến đổi được các anh.
Tin Mừng Mát-thêu kể
Chúa Giê-su Phục Sinh trao cho bà Maria Ma-đa-le-na và một bà khác cùng tên, sứ
mạng “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ gặp Thầy ở đó”.
Mạch văn cho thấy không phải anh em ruột thịt của Chúa nhưng là các môn
đệ. Mat-thêu mở đầu Tin Mừng với gia phả, khởi từ Áp-ra-ham đi
xuống tới Chúa Giê-su. Nhưng Chúa Giê-su không phải là điểm kết thúc mà là điểm
khởi đầu mới của dòng dõi Áp-ra-ham. Chúa Giê-su được sai đi tìm anh em. Giu-se
bị giết nhưng Thiên Chúa không để ông chết, cũng như I-xa-ác được đem làm của
lễ toàn thiêu nhưng Thiên Chúa không để ông bị giết. Còn Chúa Giê-su thì Thiên
Chúa để chết thật rồi sống lại, và nhờ thế mà dòng dõi Áp-ra-ham được nên nhiều
như sao trời cát biển qua phép rửa. Môn đệ là anh em của Chúa Giê-su, thế mà
Chúa truyền làm cho muôn dân trở thành môn đệ, nghĩa là làm cho muôn dân thành
dòng dõi Áp-ra-ham nhờ đức tin và phép rửa (x. Rm 9-11 ; Gl 3-4).
Tin Mừng Gio-an còn
rõ hơn. Suốt thời gian rao giảng, Chúa Giê-su luôn nói về “Cha của tôi”.
Sau khi phục sinh thì Chúa sai Bà Maria Ma-đa-le-na : “Hãy đi gặp anh
em của Thầy và nói với họ : “Thầy lên cùng Cha của Thầy
cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa
của anh em.” Anh em ở đây cũng không phải là anh em ruột thịt, nhưng là các
môn đệ. Sau tiệc cuới Ca-na thì Chúa xuống Ca-phác-na-um cùng với thân mẫu, anh
em của Chúa và các môn đệ. Nhưng ở chương thứ bảy thì Chúa chia tay với anh em,
“họ không tin vào ngài”. Chỉ còn môn đệ đi với Chúa. Ở bữa Tiệc Ly thì
Chúa âu yếm gọi họ là “những đứa con bé nhỏ”, giống như ông Giu-se nói
với Ben-gia-min khi gặp lại. Sau đó Chúa tuyên bố họ là bạn hữu. Rồi khi Chúa
đã phục sinh thì họ là anh em của Chúa : “Cha của Thầy cũng là cha của
anh em”. Chúa phải trải qua cái chết mới làm cho họ thành anh em của Chúa.
Ông Giu-se thì luôn hỏi các anh về “cha của các ngươi”, rồi cuối cùng mới cho
biết “cha của các ngươi” chính là “cha của tôi.”
Chân dung “Người
môn đệ yêu dấu” trong phần cuối của Tin Mừng Gio-an (13-21)
cũng có nhiều nét phảng phất hình ảnh Ben-gia-min trong lời chúc phúc của ông
Môsê (x. Đnl 33,12).
Giê-ru-sa-lem, ngày lễ thánh Mat-thêu 2016
L.M.Nguyễn công Đoan S.J.
(1) Phong tục này
giống kiểu ông bà ta thuở trước. Không có con thì cuới vợ lẽ cho chồng ;
tuy vẫn có nguy cơ như bài ca dao diễn tả : “Con cóc ăn trầu đỏ môi, ai
muốn làm lẽ bố tôi thì về, mẹ tôi chẳng đánh chẳng chê, mài dao cho sắc mổ mề
xem gan”.
(2) “Này con cái là
hồng ân của Chúa, con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban. Bầy con sinh hạ
thời son trẻ, tựa nắm tên người dũng sĩ cầm tay. Hạnh phúc thay người nào đeo
ống đầy loại tên như thế… (Tv 127/126,3-5).
(3) Chuyện bà An-na mẹ
của Sa-mu-en (1 Sm 1,1-23) cũng tương tự, nhưng bi đát hơn vì bà
luôn bị bà kia nhục mạ.
(4) Tên Chúa đặt cho
ông Gia-cóp trên đường về đất Ca-na-an.
(5) Lời này gợi nhớ
chuyện Ca-in rủ em là A-ben Ra ngoài đồng rồi xông vào giết em. “Thiên Chúa
hỏi Ca-in : A-ben, em ngươi đâu rồi ?... Từ dưới đất, tiếng máu của
em ngươi đang kêu lên Ta !” (St 4,8-10).
(6) Tại sao lại giết
con dê đực ? Vì một con dê đực hay chiên đực đủ sức làm cho mười con dê
cái hay chiên cái có thai, như thấy được qua tỷ lệ trong phần quà Gia-cóp tặng
Ê-xau : “hai trăm dê cái và hai mươi dê đực, hai trăm chiên cái và hai
mươi chiên đực” (St 32,15). Vì thế không cần giữ nhiều dê đực trong bầy.
(7) Đến đây ta thấy
soạn giả cuối cùng của cuốn sách đã gom nhặt những truyền thuyết khác nhau về
chuyện này và cứ kể liên tục, không giải thích. Ta có thể nhận ra truyền thuyết
của phía Nam đề cao Giu-đa, truyền thuyết phía Bắc đề cao Rưu-vên.