ĐỨC BÀ NHƯ LẦU
ĐÀI ĐA-VÍT VẬY
Dc 4,4:
Migdal David (turris davidica)
7,4: Migdal hassen (Turris eburnea, Tháp ngà);
Sở dĩ tôi đề cập câu
chuyện này là vì cách đây mấy tháng có một nhà Dòng Nữ toàn người Việt, nhưng ở
nước ngoài, xin tôi làm “trọng tài” vì trong cộng đoàn có cuộc tranh luận và
luộm thuộm khi đọc Kinh Cầu, vì một chữ trong kinh cầu Đức Bà: cộng đoàn vẫn
đọc Đức Bà như lầu đài Đa-vit vậy – nhưng có một chị từ Việt Nam mới qua sống
trong cộng đoàn bảo rằng phải đọc… lâu đài Đa-vit mới đúng, vì nhà dòng của chị
ở Việt Nam vẫn đọc như vậy, đó là bản của Hội Đồng giám mục Việt
Nam, và chị này nhất định một mình một phe khi đọc kinh cầu…
Tôi trả lời rằng trước hết, bản kinh cầu Đức Bà hiện có
trong sách kinh đọc hàng ngày là bản do ủy ban sửa kinh làm năm 1924, có các
nhân vật thông thạo Hán và Nôm thời ấy tham gia. Còn từ khi có Hội Đồng Giám
Mục Miền Nam Việt Nam (1960), rồi Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (họp lần đầu
năm 1980), theo như tôi biết thì chưa hề đặt vấn đề duyệt lại các kinh quen
đọc, vì từ sau Công Đồng Vaticano II tới nay, hơn năm mươi năm rồi Ủy Ban Phụng
Tự trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vẫn còn đang làm việc với bản dịch
sách lễ Rô-ma và sách bài đọc thánh lễ, nên chưa có thời giờ hay đầu óc nào để
nghĩ tới các kinh quen đọc hàng ngày. Vì vậy nói đó là bản của Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam là chưa đúng. Các
bản in xưa nay trong các giáo phận ở Việt Nam, và trên trang điện tử đều ghi: Đức Bà như lầu đài Đa-vit vậy.
Nhân
đây, để giúp mọi người hiểu rõ hơn
về Kinh Cầu, tôi sẽ lần lượt trình bày:
1. Nguồn gốc Kinh Cầu
2. Nguồn gốc Kinh cầu Đức Bà bằng tiếng La-tinh và bản
dịch Hán (kinh cầu chữ), Việt.
3. Vị trí câu này trong cấu trúc của Kinh Cầu Đức Bà và ý
nghĩa
4. Nguồn gốc và ý nghĩa câu “Đức Bà như lầu đài Đa-vít
vậy”
1. NGUỒN GỐC KINH CẦU
Trong phụng vụ phương Đông có hình thức cầu nguyện “kêu
cầu” với những câu do phó tế xướng (kêu) và cộng đoàn đáp (cầu), tiếng Hy lạp
gọi là litaneia, tiếng La-tinh litania [mượn của
tiếng Hy lạp]. Câu đáp thông thường là kyrie eleison: xin
Chúa thương xót chúng con. – tương tự: xin Chúa nghe cho chúng
con – xin Chúa nhậm lời chúng con.
Đức Thánh Cha Giê-la-si-ô I (492-496) đưa hình thức ‘KÊU
– CẦU” này vào phụng vụ phương Tây, vết tích còn lại trong thánh lễ hiện nay ở
phần thống hối: linh mục xướng và cộng đoàn đáp “Xin Chúa thương xót chúng
con, Xin Chúa Ki-tô thương xót chúng con, Xin Chúa thương xót chúng con”;
và “Lạy Chiên Thiên Chúa”
Bên phương Tây, hình thức kinh cầu trở nên phổ thông
trong các cuộc rước “cầu mùa”, cộng đoàn đi rước và cầu xin theo cách xướng
đáp. Hình thức cầu nguyện cộng đoàn này được cổ võ thêm nhờ những kinh cầu được
Hội Thánh phê chuẩn: kinh cầu các thánh, Kinh cầu Đức Bà; kinh
cầu Thánh Danh Chúa Giê-su (1886); kinh cầu Thánh Tâm Chúa
Giê-su (1899); kinh cầu thánh Giu-se (1906) và kinh
cầu Máu Châu Báu Chúa Giê-su (1960). Ở Việt Nam còn có “Kinh cầu
Chúa chịu nạn”, gồm những câu tóm tắt các bài Phúc Âm về cuộc khổ nạn, để
giúp tín hữu suy niệm cuộc Khổ Nạn của Chúa trong Tuần Thánh.
2. NGUỒN GỐC KINH CẦU ĐỨC BÀ quen đọc.
Kinh cầu Đức Bà quen đọc có tên gọi là Kinh Cầu
Đức Bà Lô-rét-tô, vì là kinh cầu quen đọc ở Lô-rét-tô, - một nơi hành hương
nổi tiếng ở nước Ý – ít là từ năm 1531 và được ĐTC Xích-tô Thứ Năm phê chuẩn
năm 1587. Tuy trong các sách giúp sùng kính Đức Mẹ Maria có nhiều mẫu kinh cầu
Đức Bà khác, nhưng kinh cầu Đức Bà Lô-rét-tô là bản duy nhất được Hội Thánh phê
chuẩn để dùng chung. Bản được phổ biến khắp trong Hội Thánh là bản tiếng
La-tinh.
Qua dòng thời gian các Đức Thánh Cha đã thêm vào một số
câu:
1675: Nữ Vương truyền phép rất thánh Mân Côi (cho Hội Mân
Côi)
1883: Nữ Vương vô nhiễm nguyên tội (Đức Lê-ô thứ Mười Ba,
cho toàn thể Hội Thánh)
1903: Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành (Đức Lê-ô thứ Mười Ba)
1917: Nữ vương Ban sự bình an (Đức Bê-nê-đi-tô thứ Mười
Lăm)
1950: Nữ vương Hồn xác lên trời (Đức Pi-ô thứ Mười Hai)
1980: Đức Bà là Mẹ Hội Thánh (Đức Gio-an Phao-lô thứ
Hai), và Nữ vương các gia đình (Đức Gio-an Phao-lô thứ Hai)
Bản dịch chữ Hán và bản dịch tiếng Việt
Khi còn bé tôi vẫn nghe đọc “Kinh cầu chữ” [tức là kinh
cầu Đức Bà bằng chữ Hán] trong các buổi đọc kinh giỗ trong gia đình, cùng với
kinh “Phục Rĩ chí tôn” [bản tiếng Việt là Lạy ơn Thiên Chúa Cao Sang]. Tôi sinh
ở Miền Bắc nên chỉ biết ở miền Bắc - “Kinh cầu chữ” là bản dịch kinh cầu Đức Bà
mà Giáo Hội ở Trung Hoa vẫn dùng cho tới nay. Tôi không có tài liệu để tìm xem
bản dịch chữ Hán có từ bao giờ, ai đã truyền sang Việt Nam, từ khi nào.
Bản dịch tiếng Việt thì tôi cũng không có tài liệu để xem
có từ bao giờ. Chắc chắn là năm 1924, công việc “sửa kinh” do các bậc thầy về
chữ Hán và chữ Nôm trong Hội Thánh ở Việt Nam thời đó thực hiện, đã hoàn chỉnh
bản dịch tiếng Việt quen đọc hiện nay.
3. VỊ TRÍ CÂU “ĐỨC BÀ NHƯ LẦU ĐÀI ĐA-VÍT VẬY”
Nếu đọc kinh cầu với tất cả những câu các Đức Thánh Cha
đã thêm vào như kể trên, ta nhận ra:
§ ba câu mở đầu cao rao sự thánh thiện cao cả của Đức Bà
§ mười hai câu ca tụng Đức Bà trong tư cách Thánh Mẫu
§ sáu câu ca tụng Đức Bà trong tư cách Trinh Nữ
Mười ba câu dùng những biểu tượng, chủ yếu từ trong Cựu
Ước, để ca tụng các nhân đức và vai trò của Đức Bà trong lịch sử Cứu Độ.
Trong chuỗi Mười Ba biểu tượng này có hai biểu tượng “cây
tháp”: dịch sát tiếng La-tinh: cây tháp bằng ngà và cây tháp của Đa-vít.
Bản chữ Hán: Bản tiếng Việt
Tượng nha bảo tháp 象牙宝塔: Đức Bà như tháp ngà báu vậy
Đa-vít địch
lâu 达味敌楼: Đức
Bà như lầu đài Đa-vít vậy
[Nên chú ý cách dịch vừa sát vừa thoáng, tận dụng khả
năng phong phú của ngôn ngữ Trung Hoa và Việt Nam, vừa tăng phần trang trọng
lại chú ý tới âm điệu theo văn hóa và chất âm nhạc của tiếng Hoa và tiếng Việt
để dễ đoc chung lớn tiếng.]
Tiếng La-tinh nói vắn tắt, nhưng là để so sánh chứ không
phải đồng hóa Đức Bà với cây tháp ngà hay cây tháp của Đa-vít.
Trong khi tiếng La-tinh lặp lại hai lần chữ TURRIS, thì
chữ Hán dùng hai từ THÁP và LÂU, nhưng thêm BẢO tháp, và ĐỊCH lâu, vẫn giữ ý
nghĩa là “tháp”. Địch là quân địch, nghĩa là
tháp cao trong thành để canh và theo dõi động thái của kẻ thù ở bên ngoài.
Bản dịch tiếng Việt dựa theo cách dịch của chữ hán, nhưng
lại thích ứng với tiếng Việt: NHƯ THÁP NGÀ BÁU vậy và NHƯ LẦU ĐÀI ĐA-VÍT vậy
[1]. Tiếng Việt không thể nói đơn giản như tiếng La-tinh: “Tháp ngà” “Tháp
Đa-vít’; cũng không thể nói “Đức Bà là cây tháp bằng ngà” hay “là tháp ngà”; “…
là cây tháp Đa-vít”, “là cây tháp của Đa-vít”...)
Bản tiếng Việt dùng chữ “lầu đài” để diễn tả “tháp”. Từ
đôi này là tiếng Việt, ta thường dùng một nửa: lầu Năm
Góc, lầu chuông (tiếng miền Nam) – tháp chuông, gác chuông
(tiếng miền Bắc); “nhà lầu” đối với “nhà trệt”; “lên lầu”
có hai nghĩa: xây thêm một lầu trên căn nhà; hoặc “đi lên lầu”; yếu tố chung là
“cao hơn”. “Đài Đức Mẹ”, “Đài liệt sĩ”, “Đài kỷ
niệm” … có yếu tố chung là công trình kiến trúc đặc biệt, xây cao và tách riêng
ra khỏi các kiến trúc chung quanh để dễ thấy…
Trong các kiến trúc xưa, tháp không dùng để ở, mà dùng
vào nhiều việc khác, vì nó được xây cao lên: tháp canh, tháp chuông, tháp để
ngoạn cảnh… Tháp Luân Đôn dùng làm nhà tù kiên cố. Các lâu đài xưa cũng thường
có tháp dùng làm nhà tù. Trong kiến trúc hiện đại, thì người ta nói đến Tháp
Đôi [twin-tower] nổi tiếng vì là kỷ niệm bi đát của Hoa Kỳ, Tháp
Trump [Trump Tower] trong thời sự nước Mỹ với tổng thống Trump. Ý nghĩa này nằm
ngoài câu chuyện về Kinh Cầu.
4. NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA câu ĐỨC BÀ NHƯ LẦU ĐÀI ĐA-VÍT vậy
Trong Cựu Ước thì
“Tháp” thường có chức năng quân sự: kiến trúc kiên cố, vươn cao để canh phòng
và bảo vệ… như thánh vịnh 47/48: “Hãy đi vòng Xi-on, dọc theo tường lũy, đếm
tháp canh xem được bao nhiêu”.
Ngoài ra còn thấy tháp canh vườn nho (x. Is 5,
2)
“Tháp” trở thành hình ảnh để ví Thiên Chúa là Đấng bảo
đảm sự an toàn cho ta: Tv 60/61, 3; Cn 18,
10.
Bản văn đầu tiên trong sách Sáng Thế nói
đến “tháp” là 11:4: sau khi phát minh ra gạch để xây dựng thay vì đá [con cháu
ông Nô-ê] bảo nhau: “Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có
đỉnh cao chọc trời”.
Chỉ có sách Diễm Ca nói đến “Tháp ngà”
và “Tháp của Đa-vít” trong hai mạch văn ca tụng vẻ đẹp nơi cái “cổ”
của “Nàng”: “Cổ em giống như tháp bằng ngà” (7,4); “Cổ
em như tháp của Đa-vít” (4,4).
Hai hình ảnh này chỉ thấy trong sách Diễm Ca,
nên ta chẳng thể nói gì hơn là nhận rằng đây là hai hình ảnh có tính “ước lệ”.
Hình ảnh tháp ngà ghép màu trắng đặc biệt của ngà voi
[2]với hình dáng cao thon thả của một ngọn tháp! Diễn tả vẻ đẹp.
Hình ảnh tháp của Đa-vít thì
chính bản văn Diễm Ca quảng diễn thêm: “được xây lên để
chứa vũ khí, hàng ngàn chiếc khiên được treo lên ở đó, tất cả những chiếc mộc
của các dũng sĩ”. Như vậy hình ảnh này gợi tính cách quen thuộc của tháp là
nơi kiên cố, dự trữ sức mạnh và khí giới để bảo vệ thành trì [3], và là kiến
trúc vươn cao để quan sát tình hình bên ngoài tường thành khi bị quân thù bao
vây. Tuy Cựu Ước không nói rằng vua Đa-vít có xây tháp, nhưng danh xưng thành
vua Đa-vít quen dùng để nói về thành Xi-on hay Giê-ru-sa-lem là thành
kiên cố khiến quân thù “mới thấy thành đã sững sờ kinh ngạc, quá hãi hùng bỏ
chạy thoát thân.” (Tv 47/48, 6)
Kinh cầu đặt hai hình ảnh này kề nhau trong một chuỗi 13
biểu tượng để ca tụng vẻ đẹp và vai trò của Đức Bà Maria trong lịch sử cứu độ.
Lời kinh mời chúng ta yêu mến và tin tưởng ở sự che chở của Đức Trinh Nữ Maria,
vì Người rất xinh và đẹp lòng Thiên Chúa nên Người có thể cầu bầu cho chúng ta
cách hữu hiệu.
Kết luận
Kinh cầu Đức Bà là một bản kinh các tín hữu khắp nơi đều
sử dụng. Nó giúp người ta chiêm ngắm Đức Trinh nữ Maria như một tấm gương phản
chiếu lịch sử ơn cứu độ: nơi Người “Thiên Chúa đã làm những việc kỳ diệu”
để biểu lộ lòng thương xót và quyền năng cứu độ. Kinh Cầu Đức Bà giúp Chiêm
ngắm những gì Thiên Chúa đã trang điểm Đức Trinh Nữ Maria để đặt Người làm Mẹ
của Con Thiên Chúa làm người, và làm Mẹ của tất cả những ai được tái sinh bởi
máu và nước từ cạnh sườn Chúa Cứu Thế chảy ra trên thập giá. Nhờ chiêm ngắm Đức
Mẹ theo các lời trong Kinh Cầu gợi lên, chúng ta được thêm lòng tin tưởng vào
Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa, thêm hiểu biết, yêu mến và tin tưởng chạy
đến ẩn náu dưới bóng của Mẹ.
Kinh cầu Đức Bà đã cô đọng và tích lũy truyền thống của
toàn thể Hội Thánh về lòng sùng kính Đức Mẹ mà chúng ta nhận được trong kho
tàng thánh thiêng của Hội Thánh. Bản La-tinh có trước chúng ta năm thế kỷ, bản
dịch chữ Hán và bản dịch tiếng Việt cũng có trước chúng ta cả thế kỷ rồi, chúng
ta hãy trân trọng giữ gìn nguyên vẹn cho con cháu; đọc cho đúng, hiểu cho đúng
và giúp người khác hiểu cho đúng, để mọi người tín hữu Việt Nam hòa nhập vào
dòng truyền thống tôn sùng Đức Mẹ của toàn thể Hội Thánh và luôn sống động mạnh
mẽ trong lòng mọi tín hữu Việt Nam.
Tôi được phục vụ Hội Thánh ở Việt Nam và ngoài Việt Nam
trong sứ vụ linh mục, tới nay đã tròn 50 năm. Tôi xin phép gởi lời trăng trối
này cho các linh mục thuộc lứa tuổi con cháu: ước gì các linh mục là những
người có trách nhiệm giảng dạy biết nhận trách nhiệm của mình, tìm hiểu ngọn
nguồn mọi điều phải giảng dạy trước khi giảng bằng lời nói hay chữ viết. Tín
hữu Việt Nam còn tin tưởng các cha lắm, xin hãy trân trọng lòng tin tưởng này
bằng cả đời sống và mọi lời giảng dạy của mình.
Ước gì được như vậy để thân già này nhắm mắt ra đi bình
an như Cụ Si-mê-ôn. Amen.
Giê-ru-sa-lem, 12/3/2020
Linh mục Giu-se Nguyễn công Đoan, dòng Tên
Nguồn: Truyền thông HĐGMVN
______________
[1] Các bản in chính thức Sách Kinh trong các giáo phận
Việt Nam xưa nay, và trang điện tử đều ghi LẦU ĐÀI.
[2] Trong văn chương Việt Nam, chúng ta cũng quen với
hình ảnh ước lệ này: trong như ngọc, trắng như ngà – tấm thân ngọc ngà.
[3] Trong các trình thuật về vua Đa-vít thì chỉ nói tới
đền vua, ngôi nhà bằng gỗ bá hương (2S 7,2) và sân thượng của đền
vua (2S 11, 2), nơi vua đứng ngắm người đẹp Bet-Sa-bê tắm trên một
sân thượng khác… không nói đến lâu đài, cũng không nói đến kho vũ khí nào cả.
Salomon sẽ dành 13 năm để xây cung điện của vua, không thấy kể chi tiết, và 7
năm để xây Đền Thờ. Trình thuật về công trình xây Đền Thờ kể nhiều chi tiết,
đặc biệt “Cung Rừng Li-băng”. 200 năm sau, đời vua Khí-ki-gia. Vua này đã phạm
một sai lầm nghiêm trọng khi cho sứ giả của vua Ba-bi-lon coi cả kho vũ khí của
mình. Ngôn sứ I-sai-a quở trách và cho biết hậu quả tai hại sẽ
xảy ra (2V 20, 12-19; Is 39,1-8). Khi nguy cơ xâm
lược đến gần, ngôn sứ I-sai-a sẽ khiển trách Giê-ru-sa-lem: “Ngày ấy các
ngươi đã nhìn vào kho vũ khí trong Cung Rừng… các ngươi thấy thành
Đa-vít có nhiều lỗ hổng… nhưng Đấng tác tạo cả thành đô, các ngươi lại không
nhìn” (22, 8-10).