Lời Cầu Nguyện Của Ông
Mô-sê
(dongten.net)
06-6-2020
Xin khấng tỏ cho con biết đường lối của
Ngài để con biết Ngài (Xh 33,13)
Sau 40
ngày sống Mùa Chay để xin ơn và tập hoán cải, rồi 50 ngày Mùa Phuc Sinh để mừng
ơn cứu độ đã đến trong Đức Giê-su và ơn Thánh Thần để sống đời sống mới, chúng
ta trở về « mùa thường niên » để thực hành đời sống mới trong đời
sống thường ngày.
Mùa
Chay năm nay một nhà giảng thuyết đặc biệt đã bám theo rót vào tai, thọc vào
mắt mỗi người, dù có tín ngưỡng hay không : « Hỡi người, hãy nhớ mình
là bụi tro… ». Nay trở về đời sống thường ngày, nhưng với nhiều nước,
không còn bóng ông « vũ như cẩn », mà vẫn còn dưới bóng « Cô Vi
19 » hay chuyển sang « thời hậu Cô Vi 19 »… Nhưng dù thời đại
nào thì với ngưới tín hữu của Chúa, vẫn là sống cuộc sống thường ngày, vẫn là
hành trình về quê hương trên trời theo đường của Chúa.
Nói thì
dễ nhưng cuộc sống không dễ. KInh nghiệm của ông Mô-sê và dân Chúa trên hành
trình vào Đất Hứa có thể soi sáng cho chúng ta rất nhiều. Tôi đã đề cập trong
bài « Đường Xuất Hành Mới », nhưng tôi xin đọc lại lần nữa những lần
cầu nguyện của ông Mô-sê sau vụ « con bê bằng vàng », nhìn kỹ hơn một
vài khía cạnh.
Trở lại
bối cảnh vụ “con bê bằng vàng” (Xh 32,1-10))
Sau
thời kỳ gian khổ dưới ách nô lệ và cuộc đấu tranh dai dẳng để thóat ách nô lệ,
cuối cùng ông Mô-sê đã thành công, đưa doàn dân vừa được tự do ra khỏi Ai-Cập,
đứng trên bờ biển bên kia hát bài ca chiến thắng, rồi hăng hái lên đường.
Cái
thường ngày của hoang địa : buồn tẻ, nóng nực, cái khát khô hông, cái đói
cào ruột là những thử thách hàng ngày khiến họ kêu trách ông Mô-sê, người đã
đưa họ ra khỏi Ai-cập. Có khi họ đã toan giết ông rồi đặt người khác dẫn đường
đi ngược trở lại Ai-cập, với khẩu hiệu hấp dẫn : « Nô lệ bụng no, tự
do bụng đói !» Cuối cùng họ cũng tới được điểm hẹn thứ nhất là núi
Xi-nai, nơi Thiên Chúa đã đến gọi ông Mô-sê để sai ông quay lại Ai-cập đưa dân
đi ra. Tại núi Xi-nai, Thiên Chúa đã hiển linh uy nghi trên đỉnh núi để công
bố thiết lập Giao Ước, nhận đám dân hỗn tạp vừa thoát ách nô lệ Ai-cập làm
dân của Chúa, để đưa họ vào mền đất phì nhiêu Người đã hứa cho Áp-ra-ham,
I-xa-ác và Gia-cóp.
Sau khi
ông Mô-sê cử hành nghi thức lập Giao Ước, Thiên Chúa gọi ông lên núi để lãnh
bia đá ghi khắc Luật Giao Ước, dạy họ biết sống làm dân của Thiên Chúa.
Ông
Mô-sê giao trách nhiệm cho A -ha-ron, người anh của ông mà Thiên Chúa đã sai đi
với ông, cùng với bảy mươi kỳ mục đã được tuyển chọn để hỗ trợ việc lãnh đạo
đoàn dân đông đúc này. Ông an tâm lên núi cùng với người thanh niên Giô-su-ê.
Phút
nói thật.
Trong
khi ông Mô-sê ngây ngất gặp Thiên Chúa ở trên núi, thì đám dân vừa đón nhận
Giao Ước để làm dân của Thiên Chúa và thờ phượng một mình Thiên Chúa đã thay
lòng đổi dạ. Hôm nay họ không đói không khát, nên không nhớ thúng bánh nồi
thịt, củ hành củ tỏi Ai-cập, nhưng nhớ những ông thần mắt thấy được, tay sờ
được, khiêng đi được, đặt chỗ nào tùy ý mình, nhớ những ngày lễ hội tưng bừng,
tha hồ ăn uống no say, vui chơi, ca hát múa nhảy thỏa thích. Khác xa với Đấng
vô hình uy nghi cao cả đã phán với họ từ trên đỉnh núi cao vời, chỉ làm họ sợ
hãi chứ không cho họ tới gần, chỉ truyền cho họ những mệnh lệnh thật nghiêm khắc,
cấm đủ thứ mà họ đã quen hưởng bên Ai-cập, khiến đời nô lệ tủi hổ nhọc nhằn
được chút vui tươi[1] như
những củ hành củ tỏi làm cho bữa ăn thêm hương vị.
Họ kéo
nhau đến ông “đại diện lâm thời” A-ha-ron và trình nguyện vọng : “Xin ông
đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi
không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa
chúng tôi lên từ đất Ai-cập” (Xh 32,1).
Ông anh
A-ha-ron bấy lâu này chỉ nói những gì Mô-sê bảo ông nói và làm những gì Mô-sê
bảo ông làm. Nay ông được Mô-sê trao toàn quyền giải quyết mọi việc dân đệ đạt,
ông vui vẻ đáp lời yêu cầu của dân. « Ông lấy vàng từ tay họ trao cho, đem
đúc và dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê ». Ta bỗng phát hiện ông
là thợ kim hoàn và thợ đúc lành nghề ! Đồ trang sức bằng vàng mà dân đã
đoạt của người Ai-cập, vào tay ông A-ha-ron biến thành ông thần của người
Ai-cập[2].
Ông thành công đến nỗi khi nhìn thấy công trình nghệ thuật của ông thì dân hô
hoán lên : « Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ
Ai-cập. » Ông A-ha-ron hưởng ứng ngay. « Ông dựng một bàn thờ
trước tượng con bê, rồi hô to : « Mai có lễ kính Đức Chúa ».
Dân
nhiệt liệt hưởng ứng : « Ngay hôm sau, họ dậy sớm, dâng tiến những
của lễ toàn thiêu và những lễ vật kỳ an. Dân ngồi xuống ăn uống, rồi đứng lên
bày trò vui chơi. »
Lần cầu
xin thứ nhất của Mô-sê ở trên núi (Xh 32,11-14)
Trên
đỉnh núi, Thiên Chúa báo cho ông Mô-sê biết chuyện gì đang diễn ra dưới chân
núi và đưa ra giải pháp : ‘Ta đã thấy dân này rồi, đó là một
dân cứng đầu cứng cổ. 10Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của
Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi
thành một dân lớn’.
Giải
pháp hoàn toàn có lợi cho ông Mô-sê. Nhưng ông vội vàng năn nỉ xin Thiên Chúa
tha cho dân. Ông viện hai lý do : thể diện của Thiên Chúa trước mặt dân
Ai-cập và lòng trung thành của Thiên Chúa với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và
Gia-cóp. Thiên Chúa chấp nhận và tha ngay. Ông Mô-sê ôm hai bia đá xuống núi
Cách
hành xử của Mô-sê ở dưới chân núi (Xh 32,15-29)
Khi đến
gần trại, ông thấy con bê và những bọn người đang nhảy múa. Ông Mô-sê nổi
cơn thịnh nộ : Ông ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân
núi. 20Ông lấy con bê họ đã làm, đốt đi, tán nhuyễn ra, rắc lên mặt
nước, rồi bắt con cái Ít-ra-en uống.
Ông phá
hủy công trình của A-ha-ron. Ông phá luôn cả công trình của Thiên Chúa, tự tay
đập vỡ hai bia đá do Thiên Chúa trao và gián tiếp tuyên bố Giao Ước đã vỡ, vì
hai bia đá này ghi Luật của Giao Ước. Sau khi thanh tra một vòng quanh trại,
ông ra đứng ngoài cổng, tuyên bố thánh chiến, mượn lời Thiên Chúa ra lệnh cho đám
Lê-vi nhiệt thành :
Ông Mô-sê đứng
ở cổng trại và hô : “Ai thờ ĐỨC CHÚA thì theo tôi !” Tất cả con cái
ông Lê-vi đều tập họp bên ông Mô-sê. 27Ông bảo họ : “ĐỨC
CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này : Mỗi người hãy đeo gươm
vào. Hãy đi đi lại lại trong khắp trại, từ cửa này sang cửa khác mà giết : kẻ
thì giết anh em, người thì giết bạn hữu, kẻ thì giết người thân cận của mình.”
Ông đã
dùng tay đám Lê-vi này tàn sát ba ngàn người trong dân. Sau đó ông nhân danh
Thiên Chúa phong chức cho họ : “Hôm nay, anh em được phong chức
để phục vụ ĐỨC CHÚA, vì kẻ thì đã hy sinh con mình, kẻ thì đã hy sinh
anh em mình, khiến Người chúc phúc cho anh em hôm nay. »
Lạ
thật ! Khó hiểu thật ! Thiên Chúa đã nghe lời ông van xin khi còn
trên đỉnh núi và đã tha ngay rồi cơ mà ! Sao xuống tới chân núi ông chẳng
quay lại hỏi ý Thiên Chúa, tự ý mượn lời Thiên Chúa để dùng bạo lực với dân, và
nhân danh Thiên Chúa tấn phong bạo lực để phục vụ Thiên Chúa ? Hết
ý !
Hai
ngẫu tượng.
Ông
Mô-sê đã chất vấn A-ha-ron : “Dân này đã làm gì ông mà ông đưa họ tới
chỗ phạm một tội lớn như thế ?”. Ông này đổ tội cho dân và lò lửa :
“Xin ngài
chớ bừng bừng nổi giận ; chính ngài biết : dân này có khuynh hướng xấu. 23Họ
nói với tôi : Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng
tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái
ông Mô-sê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ
đất Ai-cập. 24Tôi nói với họ : Ai có vàng ? Họ đã gỡ đồ vàng đeo
tai và đưa cho tôi ; tôi ném vào lửa, và đã ra con bê này.
Ngây
thơ cụ ! [Bù trớt, nói theo kiểu miền Nam]. Nhưng nể mặt anh hai, Mô-sê
đành tạm ngưng ở đó. Nhưng ông quay ra trút cơn thịnh nộ của ông lên đầu dân.
Suy cho
cùng, ta nhận ra Mô-sê cũng thờ một ông thần khác, không phải là Thiên
Chúa, Đấng đã sai ông trở lại Ai-cập cứu dòng dõi Áp-ra-ham.
Ngày
ông trốn khỏi Ai-cập là ngày ông đã nông nổi, manh động, đơn phương dùng bạo
lực giết một người Ai-cập để bênh vực đồng bào của ông. Hôm nay nhờ Lời Thiên
Chúa ông đã giải thoát đồng bào, đưa họ tới núi này để thờ phượng Thiên Chúa
như Người đã hứa, khi ông toan thoái thác :
Ông Mô-sê thưa
với Thiên Chúa : “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con
cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập ?” 12Người phán : “Ta sẽ ở
với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi : khi
ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên
núi này.” (Xh 3,11-12).
Ông đã
đưa dân tới đây, và đã cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa khi đón nhận
Giao Ước của Thiên Chúa từ trên núi này. Họ đã thành dân của Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Người mà cứu họ. Người đã lập Giao Ước
nhận họ làm dân của Ngài và họ đã tôn nhận Ngài là Thiên Chúa của họ. Sự thành
công này hoàn toàn là của Thiên Chúa chứ đâu phải của ông.
Phải
chăng vì ông đã được sai đi dùng Lời của Thiên Chúa mà đưa họ ra khỏi ách nô lệ
nên ông tưởng mình là ông chủ mới, đã mua đám nô lệ này từ tay Pha-ra-ô ?
Phải
chăng vì Thiên Chúa đã dùng ông để công bố và thiết lập Giao Ước (x. Xh 24)
mà ông tưởng mình đứng ngang hàng với Thiên Chúa, chứ không phải là một người
trong dân, cùng đón nhận Giao Ước để thành dân của Thiên Chúa ?
Thiên
Chúa mà ông dùng bạo lực và tấn phong bạo lực để phục vụ, không phải là Thiên
Chúa đã phán với ông, và đã không chấp tội dân bao nhiêu lần, từ khi họ phản
kháng ông ngay lúc ông còn đi vật lộn với Pha-ra-ô để giải thoát họ, cũng như
hôm qua, hôm kia, khi ông van xin cho họ ngay trên đỉnh núi[3].
Thiên
Chúa mà ông đang mươn danh để dùng bạo lực trừng phạt dân, và tấn phong bạo lực
để vĩnh viễn phục vụ, là một « ông thần » do ông nặn ra trong đầu và
trong tim ông.
Ông
không dám mạnh tay với A-ha-ron là phải. Ông có hơn gì đâu.
Anh của
ông đúc con bê bằng vàng, lập bàn thờ và công bố lễ kính Đức Chúa. Còn bản thân
ông thì nổi cơn thịnh nộ, đập vỡ bia đá ghi luật Giao Ước của Thiên Chúa, mượn
lời « thiên chúa của ông » để dùng bạo lực với dân Ít-ra-en, dù Thiên
Chúa của Ít-ra-en đã tha cho họ rồi. Ông lại còn tấn phong bạo lực để phục vụ
« thiên chúa của ông » : « thiên chúa của ông » là
« thiên chúa của bạo lực và không tha thứ ».
Hai anh
em, mỗi người nặn ra một ngẫu tượng : ngẫu tượng của A-ha-ron đúc theo mẫu
Ai-cập, bằng vàng của Ai-cập. Ngẫu tượng của Mô-sê nặn trong đầu và trong tim,
là ông thần của bạo lực, khủng bố.
Lần cầu
xin thứ hai của Mô-sê (Xh 32,30-35)
Thiên
Chúa đã dùng và muốn tiếp tục dùng Mô-sê, nên kiên nhẫn giáo hóa ông từng bước
cách nhẹ nhàng để ông thật sự trở nên người của Thiên Chúa.
Đêm.
Gió mát sa mạc đã làm cho ông Mô-sê lắng xuống.
Bình
minh. Cả trại chìm trong thinh lặng của sa mạc. Trước mặt đám dân đang kinh
hoàng ngơ ngác vì cuộc khủng bố chết chóc, mà Mô-sê tuyên bố là mình hành động
theo lời của Thiên Chúa, ông nói như an ủi : Ngày hôm sau,
ông Mô-sê nói với dân : “Anh em đã phạm một tội lớn, nhưng giờ đây
tôi sắp lên gặp ĐỨC CHÚA ; may ra tôi sẽ xin được Người xá tội cho anh
em.” (32,30)
Ô hay,
sao lại thế nhỉ ? Mới hai ngày trước, ngay trên đỉnh núi ông đã xin và Thiên
Chúa đã tha rồi cơ mà ? Lòng nhiệt thành hay cơn giận đã làm ông quên hết rồi, chỉ
còn nhớ đến tội của dân thôi ? Sao lại nói may ra ? Hôm trước đang
lúc dầu sôi lửa bỏng, ông xin thì Thiên Chúa cũng đâu chờ ông phải xin lần thứ
hai, Người đã tha liền mà ! Ông chưa tha nên ông tưởng Thiên Chúa cũng giống
như ông. Ông chưa chắc mình có thể tha, nên ông cũng chưa chắc Thiên Chúa có
thể tha, « may ra » thôi.
Ông Mô-sê trở
lại với ĐỨC CHÚA và thưa: “Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ
đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! 32Nhưng giờ đây, ước gì Ngài
miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã
viết.
Đọc kỹ
mấy câu này trong bản tiến Hip-ri sẽ phát hiện nhiều điều lý thú. Trước hết “ông
Mô-sê trở lại với Đức Chúa”. Hôm ông ôm hai bia đá đi xuống núi,
ông đã “quay mặt và đi xuống” (32,15 dịch sát), tức là “quay lưng” lại
Thiên Chúa, hôm nay ông mới trở lại với Đức Chúa. Khi ông quay lưng để
Thiên Chúa lại trên núi mà đi xuống, ông đã không hề ngoái cổ lại. Tới chân núi
thì ông hành xử theo ý ông, theo cơn giận của ông, như thể không có Thiên Chúa
mà ông vừa van xin trên đỉnh núi ; thậm chí ông còn tạo ra « lời Thiên
Chúa » khi sai đám Lê-vi nhiệt thành đi tàn sát dân của Thiên Chúa. Hôm
nay ông mới “trở lại với Đức Chúa”. “Quay mặt” và “trở lại” đã trở thành hai
kiểu nói về tội và hoán cải: “quay mặt đi” hay “quay lưng” là bỏ Thiên Chúa.
Quay trở lại tức là hoán cải, “trở lại với Thiên Chúa”. Từ lúc quay mặt và đi
xuống, ông đã bỏ Thiên Chúa lại trên núi để theo “ông thần lạ” nào đó trong
lòng trong trí ông.
Bây giờ
ông mới kể cho Thiên Chúa chuyện tầy trời mà dân này đã làm. Chính Thiên Chúa
đã báo cho ông biết khi còn trên đỉnh núi, đâu cần ông báo cho Người biết. Sao
lại ông lại nói dân này ? Dân của Thiên Chúa đấy ông ạ.
Nhưng
giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Giờ đây ông mới xin! Trễ rồi!
Thiên Chúa mà đã chấp tội từ hai, ba ngày nay thì còn đâu cho ông xin! “Nếu
Chúa chấp tội thì ai sống nổi!” (x. Tv 129/130,3). Ông quên là ông đã xin ngay
lúc Thiên Chúa báo cho ông biết và Người đã tha ngay rồi sao?
Bằng
không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết! Ông tốt bụng
quá nhỉ. Chúng tôi hiểu là ông xin thế mạng cho dân này đấy. Ông là ai mà xin
đem mạng thế cho cả dân của Thiên Chúa. Hay ông nhớ lại lời Người bảo sẽ tiêu
diệt dân này và cho ông thay thế họ. Ông làm như thiệt. Lúc đó ông đã phản ứng
rất tốt. Nhưng bây giờ ông tỏ ra vẫn chưa biết mình là ai, vẫn còn
sống với ảo ảnh của chính mình đấy. Ông quên là cái mạng của ông đâu còn là của
ông, từ khi ông đã chấp nhận đi thi hành sứ mạng do Thiên Chúa trao thì cái
mạng của ông không còn là của ông, nhưng là của Đấng đã sai ông đi và dùng để
thi hành sứ mạng chứ không được dùng vào việc gì khác.
ĐỨC
CHÚA phán với ông Mô-sê: “Kẻ nào phạm tội làm mất lòng Ta, Ta sẽ xoá
tên nó khỏi cuốn sách của Ta. 34Bây giờ, ngươi hãy đi, đưa dân tới nơi
Ta đã chỉ cho ngươi. Này thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi; nhưng đến ngày
Ta trừng phạt, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội đã phạm.”
Câu trả
lời của Thiên Chúa mới thật thâm thúy. Việc nhập sổ hay xóa sổ là việc của Ta,
không phải việc của ngươi. Ngươi là tôi tớ thì đi lo việc ta đã trao cho ngươi,
đưa dân của Ta đi lên. Đừng quên rằng Ta dùng ngươi là vì Ta muốn thôi chứ
chẳng phải do công trạng gì của ngươi, và không có ngươi thì có người khác, Ta
búng ngón tay là có ngay. Không có ngươi thì sứ thần của Ta vẫn đưa dân đi,
được Ta dùng là phúc cho ngươi đấy chứ chẳng phải là một công trạng gì đâu[4].
Ông Mô-sê đã quên mình là người tôi tớ, tự ý làm ông chủ ra tay trừng phạt dân
của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn nhẹ nhàng nhắc khéo ông: Việc thưởng phạt là của
Ta đấy nhé, Ta không trao cho ngươi đâu, ngươi đừng có tự quyền nữa nhé. Ta
không nôn nóng như ngươi đâu, việc gì Ta làm cũng có thời có lúc. Ta là Đấng
hằng sống, vĩnh cửu mà, đâu có sợ trễ hay không kịp.
Lần cầu
xin thứ ba của ông Mô-sê (Xh 33,12-23)
Từ khi
tới núi Xi-nai (x. Xh 19), mỗi lần muốn thưa chuyện hay nhận lệnh của Thiên
Chúa ông phải lê núi. Sau lần “trở lại với Đức Chúa” này thì ông Mô-sê dựng Lều
Hội Ngộ bên ngoài trại để ông thường xuyên “gặp Thiên Chúa” và người nào trong
dân cũng có thể tới “thỉnh ý Đức Chúa”. Thiên Chúa tỏ ra chấp nhận sáng kiến
mới này, từ lúc xuất hành tới nay chưa thấy :
Mỗi khi
ông Mô-sê vào trong Lều, thì cột mây đáp xuống, đứng ở cửa Lều,
và ĐỨC CHÚA đàm đạo với ông Mô-sê. 10Khi thấy cột mây đứng
ở cửa Lều, toàn dân đứng dậy; và ai nấy phủ phục ở cửa lều mình.
Ngay
hôm khai trương Lều Hội Ngộ và được Thiên Chúa vui lòng ngự xuống cho ông gặp,
ông Mô-sê tiếp tục buổi cầu nguyện hôm trước:
Ông Mô-sê thưa
với ĐỨC CHÚA: “Xin Ngài coi, chính Ngài đã phán với con: ‘Hãy đưa dân
ấy lên, vậy mà Ngài lại không cho con biết Ngài sẽ cử ai đi với con. Tuy
nhiên chính Ngài đã phán : Ta biết đích danh ngươi, và hơn nữa ngươi
đã được nghĩa với Ta.’ 13Vậy bây giờ, nếu quả thật con đã được nghĩa
với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để con biết Ngài,
và được nghĩa với Ngài. Xin cũng coi dân tộc này là dân của
Ngài.”
Trước
hết ông nhắc lại câu trả lời của Thiên Chúa khi ông cầu xin lần trước, Thiên
Chúa sai ông tiếp tục đưa dân đi lên. Ông nhắc Thiên Chúa: “Ngài chưa cho con
biết Ngài sẽ cử ai đi với con?”. Khi Thiên Chúa đến gặp ông lần đầu để sai ông
đi nói với Pha-ra-ô và nói với dân, thì ông thoái thác, viện lẽ ông cà lăm. Thiên
Chúa sai anh của ông là A-ha-ron cùng đi làm « phát ngôn ». Ông chấp
nhận. Nay Thiên Chúa tiếp tục sai ông đi thì ông nhắc Thiên Chúa rằng chưa cho
ông biết ai sẽ cùng đi với ông. Ông đang nhắc khéo đấy !
Chuyện
bây giờ mới nói là thế ! Hôm trước ông chất vấn anh hai về chuyện
« con bê bằng vàng », thì anh hai làm mặt « ngây thơ cụ »,
nhưng ông đã ngưng ở đó. Hôm nay ông mới trở lại câu chuyện ấy khi đàm đạo với
Thiên Chúa. Không nhắc tên người cùng đi bấy lâu, chỉ kín đáo nhắc Thiên
Chúa : « Ngài lại không cho con biết… ». Điều không nói ra đã
được nói : A-ha-ron, người cùng đi với con từ đầu tới nay, có còn đủ uy
tín để cùng đi với con trên đoạn đường mới này không ? chẳng lẽ Ngài tiếp
tục bắt con cùng đi với ông anh ‘ngây thơ cụ’ của con sao ?
Bây giờ
ta mới được biết thêm lời này : « Chính Ngài đã phán : Ta biết
đích danh ngươi, và hơn nữa ngươi đã được nghĩa với Ta. »
Ta đã
biết đích danh ngươi nghĩa là ta đã gọi, đã chọn ngươi đích danh và ta biết rõ
ngươi là ai[5].
Chúa biết rõ con thì Chúa biết con cần ai cùng đi với con, anh hai con đã tỏ ra
không đủ khả năng cùng đi với con rồi.
Khi cầu
xin ơn tha thứ cho dân thì ông đưa ra hai lý do : thể diện của Thiên Chúa
trước mặt dân Ai-cập và lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ các tổ phụ. Bây
giờ cầu xin cho chính mình thì ông vin vào lời Chúa nói “ngươi đã được nghĩa
với Ta » để xin ơn tiếp theo gồm ba vế : tỏ cho con biết
đường lối của Ngài / để con biết Ngài / và được nghĩa
với Ngài. Lần đầu ta nghe ông xin ơn này.
Lời cầu
xin này lại nói ra một điều ông không nói : Qua lời Thiên Chúa nói với ông
trong buổi cầu nguyện lần trước, ông đã nhận ra mình chưa biết đường lối của
Thiên Chúa. Bây giờ Thiên Chúa tiếp tục sai ông dẫn đưa dân Chúa đi thì ông xin
được biết dường lối của Chúa. Đường đi trong hoang mạc này thì 40 năm chăn
chiên đã dạy cho ông. Đường lối của Thiên Chúa thì chỉ có Thiên Chúa có thể tỏ
cho ông. Ông phải đưa dân của Chúa đi lên tới Đất Hứa, nên biết đường đi trong
hoang địa chưa đủ, vì dân sẽ chỉ vào được Đất Hứa nếu họ sống theo đường lối
của Thiên Chúa. Sứ mạng của ông bây giờ đã rõ, vì chính ông đã được Thiên
Chúa sai công bố Giao Ước và cử hành lễ thiết lập Giao Ước (x. Xh 19,3-8 ;
24,1-8). Nhưng hai bia đá Thiên Chúa ghi Luật Giao Ước thì ông cũng chưa đọc mà
đã đập vỡ rồi !
Lần đầu
Thiên Chúa đến gặp ông và sai ông đi, ông đã xin được biết DANH của Thiên Chúa
để trả lời khi dân hỏi, và Thiên Chúa cho ông một tên trừu tượng và một tên cụ
thể. Ông cũng chỉ dùng vào mục đích đó thôi. Thế là ông chẳng biết gì hơn, ông
mới chỉ biết « danh » mà chưa biết « tánh » của Thiên
Chúa ! Lời Thiên Chúa phán khi ông cầu xin lần trước đã ngầm vạch cho ông
thấy điều đó. Thiên Chúa biết đích danh ông và đã chọn ông để sai đi với con
người thật, với mọi giới hạn của ông, cả tính nóng nảy và ưa bạo lực, cả cái
bụng hẹp hòi không chịu tha thứ nữa.
« Để
con biết Ngài ». Đúng rồi, phải biết cả « danh » và
« tánh » mới thật là biết.
« Và
[để con] được nghĩa với Ngài ». Nghe đến đây thì ta thấy có gì ngược
chiều rồi ! Chính Thiên Chúa đã phán « Ngươi đã được nghĩa với Ta »
và ông đã dựa vào đó để xin. Ông được nghĩa với Thiên Chúa trước khi ông làm gì
cho Thiên Chúa. Vì được nghĩa với Thiên Chúa mà ông được biết đường lối của
Thiên Chúa và được biết Thiên Chúa, chứ không phải vì ông biết đường lối của
Thiên Chúa và biết Thiên Chúa mà ông được nghĩa với Thiên Chúa.
« Xin
cũng coi dân tộc này là dân của Ngài”. Thừa rồi ! Thiên Chúa có ngưng coi
họ là dân của Người bao giờ đâu ! Chính vì Thiên Chúa vẫn coi họ là dân
của Người nên Người mới sai ông tiếp tục đi với họ đấy chứ ! Ông mới là
người quên rằng họ là dân của Thiên Chúa và xử với họ như thể họ là dân của
ông, để ông tự ý dùng bạo lực. Chính ông đập vỡ hai bia Chứng Ước Thiên Chúa
trao cho ông đem xuống cho họ. Nếu Thiên Chúa không còn coi họ là dân của Người
thì Người đã giữ lại Bia Chứng Ước ở trên núi và cho ông thất nghiệp luôn rồi,
đâu có cơ hội cho ông đập vỡ công trình của Thiên Chúa.
« Đức
Chúa phán : « Đích thân Ta sẽ đi và sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi ».
Đáp lại lời cầu xin đầu tiên của Mô-sê, xin cho biết ai sẽ cùng đi với
ông, Thiên Chúa bảo « Đích thân Ta sẽ đi ». Câu tiếp theo nghe
rợn rợn : « sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi » là gì ? Hôm nay
Mô-sê đâu có xin cho được nghỉ ngơi ? Thử bóp trán nhớ lại thì thấy
sách Dân số, chương 11 có kể rằng khi ông Mô-sê kẹt « giữa hai
lằn đạn », một bên là dân tụm năm tụm ba khóc lóc đòi ăn, một bên là Thiên
Chúa bừng bừng nổi giận, ông đã xin với Thiên Chúa :
Một
mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. 15Nếu
Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn – ấy
là nếu con đẹp lòng Ngài ! Đừng để con thấy mình phải khổ nữa !”
(11,14-15)
Sách Đệ
Nhị Luật sẽ cho thấy Thiên Chúa thực hiện lời hứa này và cho ông Mô-sê
được nghỉ ngơi trên núi Nê-bô (34,1-12), khỏi vất vả đưa dân qua sông Gio-đan
và dùng chiến tranh chiếm lãnh Đất Hứa.
Xem ra
ông Mô-sê thích thú với lời hứa thứ nhất, ông liền phụ họa :
Ông Mô-sê thưa
với Người : “Nếu Ngài không đích thân đi, xin Ngài đừng đưa chúng con lên khỏi
đây. 16Nhưng làm thế nào [cho người ta] biết được là con và dân của Ngài
được nghĩa với Ngài ? Há chẳng phải vì có Ngài đi với chúng con sao ? Như thế,
con và dân của Ngài mới khác với mọi dân trên mặt đất.”
Thiên
Chúa như âu yếm trả lời bằng một tiếng « Ừ ! » thiệt to, và nhắc
lại lời đã làm Mô-sê phấn chấn, như để kết thúc buổi tiếp kiến : “Ngay
cả điều ngươi vừa nói đó, Ta cũng sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với
Ta, và Ta biết đích danh ngươi ».
« Được
lời như cởi tấm lòng », thấy vì đã được nghĩa với Thiên Chúa nên xin
gì cũng được, ông Mô-sê được nê xin thêm một điều : “Xin Ngài
thương cho con được thấy vinh quang của Ngài.” Thế ra ông xin Thiên
Chúa trả lời vắn gọn cho lời cầu xin chính của ông là « được biết đường
lối của Ngài để con biết Ngài » bằng cách cho thấy mặt luôn.
19Người
phán : “Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ
xưng danh Ta là ĐỨC CHÚA trước mặt ngươi. Ta thương ai thì
thương, xót ai thì xót.” 20Người phán : “Ngươi không thể xem thấy tôn
nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” 21ĐỨC CHÚA còn
phán : “Đây là chỗ gần Ta ; ngươi sẽ đứng trên tảng đá. 22Khi vinh quang
của Ta đi qua, Ta sẽ đặt ngươi vào trong hốc đá, và lấy bàn tay che ngươi cho
đến khi Ta đã đi qua. 23Rồi Ta sẽ rút tay lại, và ngươi sẽ xem thấy lưng
Ta, còn tôn nhan Ta thì không được thấy.”
Người
viết sách không bận tâm giải thích tại sao đang ở trong Lều mà lại có hốc đá.
Điều quan trọng là một chuỗi lời cầu xin của Mô-sê và trả lời của Thiên Chúa,
liên tục với nhau như trong cùng một buổi cầu nguyện[6] .
Xin được thấy mặt Thiên Chúa là chạm trân nhà rồi, không được. Nhưng Thiên Chúa
cho ông biết đường lối của Thiên Chúa là tình yêu và lòng thương xót vô điều
kiện : « Ta thương ai thì thương, xót ai thì xót ». Muốn
biết đường lối của Thiên Chúa thì phải nhìn từ sau lưng để biết đường đi nước
bước[7] của
Người.
Thiên
Chúa giáo hóa Mô-sê cách quyết liệt trên núi (Xh 34)
Những
« lỗ hổng » hay “lấn cấn” chúng ta đã nhận ra khi đọc kỹ các lời cầu
xin và cách hành xử của Mô-sê, Thiên Chúa sẽ chỉnh đốn trong một cuộc giáo huấn
kéo dài 40 ngày trên đỉnh núi, để hàn gắn lại những đổ vỡ do Mô-sê gây ra, và
biến đổi chính con người ông Mô-sê cho hợp với sứ mạng phục vụ Dân của Thiên
Chúa, trong giai đoạn mới của hành trình về Đất Hứa sau khi đã nhận Giao Ước ở
núi Xi-nai.
Để
chuẩn bị, Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê :
“Ngươi
hãy đẽo hai bia đá giống như hai bia trước. Và Ta sẽ ghi lại trên đó những lời
đã ghi trên các bia trước mà ngươi đã đập vỡ. 2Ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng
cho sáng ngày mai. Ngay từ sáng, ngươi hãy lên núi Xi-nai và đứng chờ
Ta ở đó, trên đỉnh núi. 3oKhông ai được lên với ngươi ; cũng không ai được
xuất hiện trên khắp vùng núi ; ngay cả bò bê hay dê cừu cũng không được ăn cỏ
trên sườn núi đó.”
Một
cuộc cấm phòng nghiêm ngặt. Bắt đầu lại câu chuyện từ ngày Mô-sê ôm hai bia đá do
Thiên Chúa tự tay làm và tự tay viết mà ban cho dân, « quay mặt đi xuống »
rồi tự tay đập vỡ hai bia đá kia dưới chân núi. Mô-sê phải tự tay đẽo hai bia
đá giống như hai bia mà ông đã tự tay đập vỡ. Rồi ông phải ôm hai bia đá đi một
mình lên núi– không có Giô-su-ê theo hầu như lần trước, cũng không có dân đứng
dươi chân núi. Lần trước Thiên Chúa ngự trên đó gọi và chờ ông lên, lần này ông
phải lên đó và đứng chờ Thiên Chúa.
Thiên
Chúa uy nghi xuất hiện. Một cuộc triều yết long trọng dành riêng cho Mô-sê.
Thiên Chúa dành cho Mô-sê một cuộc hiển linh dài hơn cuộc hiển linh kết thúc
buổi cầu xin thứ ba của ông (Xh 33, 18-23).
ĐỨC
CHÚA ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người
là ĐỨC CHÚA. 6ĐỨC CHÚA đi qua trước mặt ông và xướng : “ĐỨC
CHÚA ! ĐỨC CHÚA ! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén
giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, 7giữ lòng nhân nghĩa với muôn
ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì,
và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông.”
Lần này
Mô-sê được đứng nhìn Thiên Chúa đi qua và nghe xướng « danh tánh »
đầy đủ của Thiên Chúa. Danh tánh quảng diễn dài và đầy đủ hơn. Một đàng là
Thiên Chúa nhận hậu từ bi, kiên nhẫn chịu đựng, đàng khác không có xí xóa ba
phải, tội vẫn là tội, nếu phạt thì phải phạt tới ba bốn đời cơ, một đời chưa
đủ. Hoàn toàn ngược với những gì Mô-sê đã tự nghĩ về Thiên Chúa và đường lối
của Thiên Chúa.
Lời cầu
xin chính của Mô-sê trong lần cầu xin tại Lều Hội Ngộ, xin biết đường lối của
Thiên Chúa để biết Thiên Chúa, hôm nay Người đáp: đường lối của Ta là thế, và
Ta là thế đấy.
Lập tức
Mô-sê phủ phục và lặp lại những lời cầu xin đã quen từ khi xảy ra vụ con bê
bằng vàng, vin vào chỗ « được nghĩa với Thiên Chúa » như lần trước.
Những điều ông xin toàn là những điều Thiên Chúa chẳng cần ông phải xin, mà chỉ
bộc lộ rằng tâm trí ông vẫn chưa thay đổi. Coi như Thiên Chúa đã cho ông đề tài
để cấm phòng rồi, và ông cũng bộc lộ rõ là ông cần được biến đổi trong cuộc cấm
phòng này để có thể tiếp tục sứ mạng.
Thiên
Chúa để cho ông Mô-sê nói, rồi không trả lời ông, Thiên Chúa tiếp tục cho đề
tài. Ông đẽo bia đá giống hai bia của Thiên Chúa trao lần trước và ôm lên đây
rồi. Chúa đọc lại nội dung Luật Giao ước đã ghi trên bia, Mô-sê chưa kịp đọc đã
tự tay đập vỡ.
Kết
luận : ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê : “Hãy ghi chép
những lời này, vì dựa trên chính những lời này mà Ta đã lập giao
ước với ngươi và với Ít-ra-en.”
Ta nên
đọc kỹ câu kết luận này để thấy ý nghĩa của ba vế
1/ Hãy
ghi chép những lời này. Khi truyền cho Mô-sê đẽo hai bia đá thì Thiên Chúa bảo
« Ta sẽ ghi lại trên đó những lời đã ghi trên các bia trước mà ngươi đã
đập vỡ ». Bây giờ Thiên Chúa đọc lại nội dung rồi bảo Mô-sê ghi. Vẫn
là Thiên Chúa ghi, Mô-sê làm thư ký thôi. Ta sẽ trở lại điểm này.
2/ Dựa
trên chính những lời này mà Ta đã lập Giao Ước. Những lời Thiên Chúa
vừa nói lại cho Mô-sê nghe là nội dung Luật Giao Ước đã ban hôm trước, khi toàn
dân tụ họp dưới chân núi đấy, không phải một Giao Ước khác đâu. Hôm ấy dân sợ
nghe tiếng uy nghi như sấm sét của Thiên Chúa nên xin ông Mô-sê nói với họ bằng
tiếng loài người, Thiên Chúa cũng chiều ý dân. Ngay lúc đó, Thiên Chúa đã để
cho « dân đứng xa xa, còn Mô-sê thì tiến lại gần đám mây đen, nơi Thiên
Chúa đang ngự và Thiên Chúa phán với ông Mô-sê : Ngươi sẽ bảo con cái
Ít-ra-en ngư thế này… » (Xh 20,21-22). Sau đó, để ghi nhớ, Thiên Chúa
tự tay ghi Luật Giao Ước trên hai bia đá, để ông Mô-sê đem xuống đọc cho dân,
nhưng ông đã đập vỡ.
3/
« Ta đã lập Giao Ước với ngươi và với Ít-ra-en » : Thiên Chúa
nhẹ nhàng sửa dạy những lấn cấn của Mô-sê khi hành xử, không biết mình đứng
trong / đứng ngoài / hay đứng trên. Nay Thiên Chúa nói rõ : Giao Ước
với ngươi và với Ít-ra-en. Rõ rồi nhé, Mô-sê đứng trong, là một trong
những người được hưởng Giao Ước, và cũng phải giữ luật của Giao Ước.
Phần
hướng dẫn, Thiên Chúa cho đề tài và phương pháp cấm phòng rồi đấy. Ông xin ơn
biết đường lối của Thiên Chúa để biết Thiên Chúa thì trong cuộc hiển linh dành
riêng cho ông hôm nay Chúa đã cho ông thấy và nghe. Đường lối của Thiên Chúa
thì nghe không đủ, phải đi theo mới biết. Thiên Chúa đã vạch ra trong Luật Giao
Ước để dân Chúa, trong đó có ông, biết mà đi theo. Ông là người có trách nhiệm
dẫn đầu thì càng phải lo học biết và đi cho đúng để dân theo sau[8],
chứ không thể đứng làm cảnh sát giao thông, đứng một chỗ mà chỉ đường :
« Đường này đấy, anh chị em đi đi ! »
Ông
Mô-sê phải tự tay khắc từng chữ trên bia đá, để lời Thiên Chúa thấm vào lòng,
ghi vào trí ông, và nhất là để « Thần Khí của Thiên Chúa » thấm vào
cả con người của ông, cho ông biết có cùng cảm nghĩ như Thiên Chúa[9],
biết phản ứng như Thiên Chúa, hành xử như Thiên Chúa để nên giống Thiên Chúa
thì sẽ biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa dựng nên chúng ta giống như hình ảnh của
Người[10].
Thần Khí Thiên Chúa đã « đậu trên ông »[11] để
ông dẫn dắt đoàn dân của Thiên Chúa, nhưng Thần Khí chưa thấm vào ông nên cách
cảm nghĩ và hành xử của ông không phải của Thiên Chúa. Trong vụ « con bê
bằng vàng » ông đã xử sự như thể ông là hiện thân của Thiên Chúa. Bây giờ
ông phải học biết rằng Thiên Chúa hoàn toàn khác. Ông phải nên giống Thiên Chúa
chứ đừng uốn Thiên Chúa theo khuôn của ông như ông đã làm bấy nay.
Kết quả
cuộc cấm phòng trên núi với Thiên Chúa
Ông ở
đó với ĐỨC CHÚA bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn không uống, và
ông viết trên những tấm bia các điều khoản của giao ước, tức là Thập
Điều.
29Ông Mô-sê từ
trên núi Xi-nai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi,
ông Mô-sê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với
Thiên Chúa. 30Khi ông A-ha-ron và toàn thể con cái
con Ít-ra-en thấy ông Mô-sê, thì này đây da mặt ông sáng chói,
nên họ sợ không dám lại gần ông. 31Ông Mô-sê gọi họ :
ông A-ha-ron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói
chuyện với họ. Sau đó, toàn thể con cái Ít-ra-en lại gần ông, và
ông truyền cho họ tất cả những điều ĐỨC CHÚA đã phán với ông trên
núi Xi-nai.
Sự biến
đổi bên trong tỏa ra bên ngoài, cả trên da mặt ông. Ông xuất hiện như một con
người mới trước mặt « A-ha-ron và toàn thể con cái Ít-ra-en ».
Họ không dám tới gần cho đến khi ông gọi họ để họ nhận ra chính ông đã một mình
lên núi và trở xuống với họ đây. Bộ mặt ông hoàn toàn khác với bộ mặt khi ông
xuống núi lần trước. Hôm nay ông ôm hai bia đá có ghi khắc Luật Giao Ước xuống
cho họ, và ông có thể dùng lời nói mà « truyền cho họ tất cả những
điều ĐỨC CHÚA đã phán với ông trên núi Xi-nai. »
Khi dẫn
vợ con của Mô-sê tới cho ông[12],
nhạc phụ đã dạy : Anh hãy đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên Chúa
: chính anh sẽ trình các việc lên Thiên Chúa, 20sẽ dạy cho họ các thánh
chỉ, các lề luật, và cho họ biết đường lối phải đi và cách phải xử sự. (Xh
18,19-20).
Bây giờ
Mô-sê mới thi hành lời bố vợ đã dạy : Nói với họ xong, ông lấy khăn
che mặt đi. 34Khi vào trước nhan ĐỨC CHÚA để đàm đạo với Người,
thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra ; ông trở ra và nói lại với con
cái Ít-ra-en những mệnh lệnh ông đã nhận được. 35Con
cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Mô-sê thấy da mặt ông sáng chói ;
ông Mô-sê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên
Chúa. (34,33-35).
Từ nay
Mô-sê che mặt lại, chỉ mở khăn khi vào chầu Thiên Chúa để « trình các việc
lên Thiên Chúa » và trở ra nói cho dân những mệnh lệnh ông đã nhận được,
rồi lại che mặt. Từ nay ông chỉ còn là con thoi giữa Thiên Chúa và dân của
Thiên Chúa.
Ta thầm
nghĩ, phải chi ngay lần xuống núi trước ông đã là như thế thì đâu nên nỗi… Trễ
còn hơn không bao giờ. Chúng ta cũng nên học với Mô-sê để mọi người được thấy
ánh sáng của Thiên Chúa nơi chúng ta, như Chúa Giê-su dạy trong bài giảng trên
núi : « Anh em là ánh sáng cho trần gian »[13]
Giê-ru-sa-lem,
lễ Thiên Chúa Ba Ngôi 2020
Lm
Giu-se Nguyễn công Đoan, S.J.
[1] Thời đó họ đâu còn biết còn nhớ Thiên
Chúa của tổ tiên, như sách Ê-dê-ki-en diễn tả (23,19-21). Thiên Chúa nhớ lời đã
hứa với Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp và sai Mô-sê đến giải cứu họ (x. Xh
3,10—20)
[2] Ở bán đảo Xi-nai hiện nay vẫn còn di
tích hoang tàn một ngôi đền thờ của người Ai-cập trên núi Serabit El Khadem, từ
hơn hai ngàn năm trCGS, các đầu kèo, đầu cột dều có hình đầu con bò.
[3] Sách Khôn ngoan (11,15-12,27)
ca tụng Thiên Chúa đã kiên nhẫn cả với dân Ai cập và dân Ca-na-an để dạy dân
của Chúa: “Người công chính phải có lòng nhân ái” (12,19).
[4] Sau này Chúa Giê-su sẽ kể thí dụ
người tôi tớ và dạy: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy
nói: “Chúng tôi chỉ là tôi tớ vô dụng…” (Lc 17,7-10. Không có chúng tôi thì có
người khác, được chủ dùng là phúc rồi, ngoài kia có hàng trăm người chờ cả ngày
không ai mướn. Ông chủ ra ngoắt tay là tuyển không kịp đấy.
[5] Nhớ lời Tv 138/139: “Lạy
Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ…” Thánh Phê-rô cũng gợi Tv này khi trả
lời Chúa Giê-su ba lần: Thầy biết con yêu mến Thầy… Thầy biết rõ mọi sự, Thầy
biết con yêu mến Thầy (Ga 21,15-17). Giê-rê-mi-a cũng kể tương tự về ơn
gọi của mình (1,5); thánh Phao-lô lấy lại lời này (Gl 1,15).
[6] Kịch nghệ cổ điển của Hy lạp cũng có
nguyên tắc “tam nhất”: trong cùng một ngày, tại cùng một nơi,
diễn biến của cùng một hành động.
[7] X. 1Ga 2,6: “bước đi như
Đấng Ấy đã bước đi” [dịch sát].
[8] 1Pr 5 khuyên các mục tử mục
tử : “Đừng lấy quyền mà thống trị… nhưng hãy nêu gương cho đàn chiên.”
[9] X. Pl 2,1-11 ; Gl 5,19-25
[10] X. St 1,27; 1Ga 3,1-2
[11] Ds 11,16-17.24-25
[12] Xh 18,1-27. Nhân dịp này ta mới biết
là để rảnh tâm trí thi hành nhiệm vụ bên Ai-cập, Mô-sê đã gởi vợ con về ở nhà
bố vợ.
[13] Mt 5,14-16; x. 2Cr 3,18.
Ông Mô-sê lên núi một mình, nhận Luật khắc trên bia đá mang xuống cho dân; còn
Chúa Giê-su lên núi, ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên, Người mở miệng dạy họ.