Hãy Mặc Lấy Chúa Giê-su Ki-tô
(Rm 13,14)
L.M.Nguyễn công Đoan S.J.
Ngày 21 tháng 7 năm 2020
Đoàn dân xưa, sau khi thoát ách
nô lệ và được vào trong Giao Ước làm dân Thiên Chúa, phải đi 40 năm qua hoang
địa để tới Đất Hứa. Cuộc hành trình đầy gian khổ khiến nhiều khi họ chán nản
kêu trách người dẫn đường là ông Mô-sê, dĩ chí họ toan giết chết ông rồi đặt
người khác lên dẫn đường, đưa họ quay trở lại nơi họ đã bỏ ra đi, với khẩu hiệu
“nô lệ bụng no, hơn tự do bụng đói” (Ds 14,1-4). Chính người
dẫn đường cũng có lúc khổ tâm chán nản đến nỗi xin Thiên Chúa cho được chết đi
(11,15).
Đời sống Ki-tô hữu khởi đầu với
lời tuyên xưng đức tin mà các Tông đồ đã truyền lại cho chúng ta trong Hội
Thánh “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”, lãnh nhận một
Phép Rửa để được ơn tha tội và hướng về niềm hy vọng cuối cùng, là “sự
sống lại và cuộc sống đời đời” do Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa làm
người đã đem cho chúng ta. Giữa bước khởi đầu và đích tới là hành trình dài một
đời trong bước đi từng ngày.
Cuộc giải thoát khỏi ách nô lệ
tội lỗi là bước khởi đầu, cái ách tội lỗi đã rơi xuống vẫn đeo đuổi chúng ta và
nhiều khi chúng ta muốn mang lại vào cổ nhằm thỏa mãn những thèm khát, như dân
của Giao Ước Xi-nai, thèm thúng bánh, nồi thịt, con cá, củ hành, củ tỏi, quả
dưa … (Ds 11,4) ; hoặc vì sợ chết, muốn được an toàn (14,2).
Thánh Phao-lô đã tóm tắt bài học
rút từ Cựu Ước cho chúng ta :
1Thưa anh em, tôi không muốn để
anh em chẳng hay biết gì về việc này : là tất cả cha ông chúng ta đều được
ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. 2Tất cả cùng được chịu phép
rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê. 3Tất cả cùng ăn
một thức ăn linh thiêng, 4tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì
họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy
chính là Đức Ki-tô. 5Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng
chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc.
6Những sự việc ấy xảy ra để làm
bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông
chúng ta. 7Anh em đừng trở thành những kẻ thờ ngẫu tượng, như một số trong
nhóm họ, theo lời đã chép : Dân đã ngồi xuống để ăn uống, rồi lại đứng lên
chơi đùa. 8Ta đừng gian dâm, như một số trong nhóm họ đã gian dâm :
nội một ngày, hai mươi ba ngàn người đã ngã gục. 9Ta đừng thử thách Chúa,
như một số trong nhóm họ đã thử thách Người và đã bị rắn cắn chết. 10Anh
em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách :
họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. 11Những sự việc này xảy ra cho họ để làm
bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong
thời sau hết này. 12Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi
chừng kẻo ngã. 13Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt
quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín : Người sẽ không để anh
em bị thử thách quá sức ; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho
kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng. (1 Cr 10,1-13)
Mặc lấy Chúa Ki-tô Giê-su
Trong thư gởi tín hữu Ga-lát,
thánh Phao-lô đã tóm tắt ý nghĩa của Phép Rửa :
Quả thế, bất cứ ai trong anh em
được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô.
(Gl 3,27)
Trong thư Rô-ma, Thánh Phao-lô
lại Nói về tính năng động của việc “mặc lấy Dức Ki-tô” :
13Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn
như người đang sống giữa ban ngày : không chè chén say sưa, không chơi bời
dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tuông. 14Nhưng anh em hãy mặc lấy
Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn
các dục vọng. (Rm 13,13-14)
Cuộc hành trình của Ki-tô-hữu
suốt đời là một ngày sống dưới ánh sáng của Chúa Ki-tô, để loại bỏ những gì
thuộc về đêm tối và “mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô”. Mặc lấy là
kiểu nói quen thuộc trong Cựu Ước : mặc lấy sự công chính (Tv 131/132,9),
mặc lấy ơn cứu độ (Is 61,10) … nhưng không phải là đội lốt, hóa
trang để lên sân khấu ; mặc lấy sự công chính nghĩa là trở nên người công
chính, sống làm một người công chính trong tư tưởng, lời nói, việc làm.
Mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô là biến
đổi nên giống, nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô :
Thiên Chúa làm cho mọi sự đều
sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi
theo như ý Người định. 29Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã
tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người ,
để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. (Rm 8,28-29)
Anh em con cùng cha cùng mẹ thì
phải giống nhau, không nhiều thì ít về khuôn mặt, dáng đi, dáng đứng, giọng
nói. Anh em, chị em sinh đôi do cùng một trứng tách ra thì “giống nhau như
đúc”, người ngoài khó mà nhận ra ai là ai, giả như hai người tráo giấy tờ đi
thi giùm nhau cũng không bị phát hiện. Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa đã sinh
làm người giống chúng ta, chịu thử thách mọi bề giống chúng ta, chỉ khác ở chỗ
Người không phạm tội. Người đã chết và sống lại để ban cho chúng ta được tái
sinh làm con Thiên Chúa, để Chúa Giê-su trở nên trưởng tử giữa một đàn
em đông đúc.
Thiên Chúa nhận chúng ta làm con
không phải bằng giấy tờ nhưng bằng Thánh Thần :
Để chứng thực anh em là con cái,
Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu
lên : “Áp-ba, Cha ơi !” Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con,
mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa. (Gl 4,6-7)
Thánh Thần đã làm cho Con Thiên
Chúa trở thành người phàm trong lòng Trinh Nữ Maria, dẫn dắt Chúa Giê-su suốt
cuộc sống làm người và trong sứ mạng loan báo Tin Mừng, làm cho Chúa Giê-su
sống lại từ cõi chết, cũng là Thánh Thần được gởi vào lòng chúng ta để chúng ta
được trở thành Con Thiên Chúa. Vì thế không phải tự sức chúng ta có thể
sống làm Con Thiên Chúa nhưng là nhờ Thánh Thần dẫn dắt. “Nếu chúng ta sống
nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25). Thánh
Thần uốn nắn chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su, trưởng tử của
Thiên Chúa, anh Cả của chúng ta.
Cuộc biến đổi này bắt đầu từ
những tâm tình thái độ bên trong :
Giữa anh em với nhau, anh
em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.
6Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên
Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy
trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
7nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh
quang,
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân, sống như người trần thế.
8Người lại còn hạ mình, vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Pl 2,5-8)
Những tâm tình, thái độ bên trong
phải thể hiện ra thành lời nói, việc làm, cách hành xử của chúng ta. Tất cả nhờ
quyền năng Thánh Thần đã lãnh nhận trong Phép Rửa. Trong thư gởi tín hữu Ga-lát,
Thánh Phao-lô liệt kê cho chúng ta một loạt những hành vi của con người xác
thịt, đối chọi với những hoa trái của Thần Khí :
Tôi xin nói với anh em là hãy
sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính
xác thịt nữa. 17Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với
Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt,
đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn…9Những
việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là : dâm bôn, ô uế, phóng
đãng, 20thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh
chấp, chia rẽ, bè phái, 21ganh tị, say sưa, chè chén, và những điều khác
giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo : những kẻ
làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. 22Còn hoa quả
của Thần Khí là : bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm,
trung tín, 23hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như
thế. 24Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác
thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.
25Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí,
thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. 26Chúng ta đừng có tìm hư danh,
đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tị nhau. (Gl 5,16-25).
Đó là một cuộc chiến dai dẳng
suốt đời, Thánh Phao-lô dùng ngôn ngữ chiến tranh thời Ngài, vạch mặt chỉ tên
kẻ thù, phe địch của chúng ta, đồng thời ngài cho chúng ta “bí kíp” với bộ binh
giáp bảo đảm chiến thắng cuối cùng, và phương pháp luyện nội công để có thể sử
dụng binh giáp của Thiên Chúa.
Sau cùng, anh em hãy tìm
sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. 11Hãy mang
toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước
những mưu chước của ma quỷ. 12Vì chúng ta chiến đấu không phải
với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống
trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. 13Bởi
đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa ; như thế,
anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối.
14Vậy hãy đứng vững lưng
thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công
chính, 15chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình
an ; 16hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em
sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. 17Sau cùng, hãy đội mũ
chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là
Lời Thiên Chúa.
18Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em
hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi.
Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân
thánh. (Ep 6,10-19).
Để tiến lên trong cuộc chiến dài
cả đời ấy, chúng ta phải không ngừng rèn tập và luyện nội công. Thánh Phao-lô
dùng hình ảnh đấu trường thời Ngài để giải thích cho chúng ta :
Anh em chẳng biết sao :
trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có
một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần
thưởng. 25Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy
là để đoạt phần thưởng chóng hư ; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không
bao giờ h gởi tín hư nát. 26Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy
mà không xác tín ; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không
khí. 27Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng
cho người khác, chính tôi lại bị loại. (1 Cr 9,24-27).
Trong thư thứ hai gởi tín
hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô tâm sự ba lần (4,8-10 ;
6,4-10 ; 11,23-32) về những gian lao, vất vả, khó nhọc, đau khổ người phải
chịu trên đường rao giảng Tin Mừng. Như không lấy thế làm đủ người còn ăn chay,
thức đêm (6,5 ; 11,27). Chúa còn thêm cho người một cái gì đau đớn nhục
nhã lắm mà người gọi là cái “dằm trong da thịt” - chúng ta chờ khi gặp người
trên trời hỏi xem nó là cái gì thế !
Trong những lời tâm sự này, thánh
Phao-lô cho chúng ta thấy cuộc chiến đấu, những sự kiêng khem, tập luyện của
người Ki-tô hữu, diễn ra trong cách chúng ta sống những vất vả, đau khổ, gian
lao gắn liền với đời sống hàng ngày của chúng ta : trong gia đình, trong
công việc, trong tương giao, trong những “cái không mời mà đến”, nhiều khi làm
chúng ta choáng váng. Đó là vác thập giá của mình hàng ngày mà đi theo đàng sau
Chúa Giê-su, tất cả có ý nghĩa nhờ “đi đàng sau Chúa Giê-su” ;
Thánh giá của Chúa mới biến đổi thập giá của chúng ta, cho nó giá trị cứu độ.
Đạo đức Khổng Tử : Tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Đạo đức truyền thống của chúng ta
phù hợp với giáo lý Tin Mừng. Khởi đi từ truyền thống dân tộc, chúng ta sẽ biết
vận dụng cả hai mà tiến bước.
Tu thân là điều căn bản. Không tu
dưỡng bản thân, không giữ được cho bản thân mình có kỷ luật, biết ứng xử cho
đúng mọi tương quan trong cuộc sống gia đình, xã hội thì chẳng giúp ích gì cho
ai được.
Tu thân là tu tâm dưỡng tính, tu
thân tích đức. Có giữ được cái tâm của mình an bình phẳng lặng như mặt nước mùa
thu trong mọi hoàn cảnh, “thắng không kiêu bại không nản”, “dù ai nói ngả nói
nghiêng thì ta vẫn vững như kiềng ba chân”, không cần gồng mình, không cần cắn
răng mà chịu, thì mới biết ứng xử thích hợp trong mọi hoàn cảnh. Gồng mình
không nổi thì sẽ xìu hoặc sẽ nổ ; cắn răng hết nổi thì sẽ nhe răng…
Lý tưởng của Ki-tô hữu là có được
cái TÂM của Chúa Giê-su, “mặc lấy những tâm tình đã có nơi Chúa Giê-su
Ki-tô”. Chúa bộc lộ hết cái tâm của Chúa trong cuộc thương khó, tới mức để
cho người ta đâm thủng xem còn gì bên trong. Hãy chiêm ngắm trái tim bị đâm
thâu này sẽ thấy mẫu gương tuyệt vời.
Châm ngôn Việt Nam : Thứ
nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa
Gia đình là nơi chúng ta bắt đầu
tu thân từ đầu. “Bé không vin cả lớn gãy cành”. “Dạy con từ thuở còn
thơ”. Cha mẹ dạy chúng ta từ khi còn đeo vú mẹ. Cuộc sống này đòi rất nhiều
kiên nhẫn, yêu thương để chịu đựng nhau và nâng đỡ nhau. Nhiều gia đình tan vỡ
chỉ vì tình yêu thiếu chiều sâu. Khi mới quen nhau, nắm tay đi dạo phố, ngồi
thủ thỉ trong công viên thì em hiền, em đẹp, em ngọt ngào ; ánh đáng yêu,
anh cao thượng… ngày cưới thì tuyệt vời. Nhưng cất đồ cưới vào tủ (hay trả lại
tiệm cho mướn), cùng nhau chạm trán với cuộc sống hàng ngày, những bất đồng nho
nhỏ nổi lên, lúc còn nồng ấm thì chín bỏ làm mười, cau bảy bổ ba… đến khi nguội
rồi chín thành thành số không, cau bảy bổ ra làm mười, hay chẳng thèm bổ nữa,
quăng luôn cả cau cả dao. Kết thúc cuộc tình thơ mộng : “anh đi đường
anh tôi đi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi”. Anh em chị em tập
chấp nhận nhau, nhường nhịn nhau từ nhỏ thì sẽ giữ được tình anh em chị em đằm
thắm, nếu không thì sẽ tới lúc tan đàn xẻ nghé. Cái thử thách lớn thường đến
khi có con dâu con rể, vốn là người ngoại tộc. Thử thách lớn nhất là khi đụng
tới việc chia gia tài…
Thánh Phao-lô đã có những lời
khuyên rất thiết thực về đời sống gia đình, tương quan vợ chồng, cha mẹ con
cái, chủ tớ (Ep 5,21–6,9 ; Cl 3,18–4,1). Mọi
sự chay tịnh kiêng khem tự ý, phải rèn luyện ta biết tự chủ, quên mình để nghĩ
đến người khác, vợ vì chồng, chồng vì vợ, cha mẹ vì con cái, con cái vì cha mẹ.
Thứ nhì tu chợ
Chợ là tiêu biểu cho cái cảnh xô
bồ nhất của xã hội, cũng là nơi lợi nhuận trở nên quan trọng nhất. Giữa chợ mà
giữ được lòng thanh thản, mua bán thật thà, giá đúng, đong đủ, tiền bạc sòng
phẳng, không tham của người… Không kèn cựa, gièm chê người khác như người ta
nói “hàng thịt nguýt hàng cá”. Tu chợ khó hơn, bởi vì nó là nơi vô danh, nhiều
cái bất ngờ. Giữ được tư cách của mình giữa chợ, nơi chẳng ai biết mình là ai
mới chứng tỏ mình đã tu thân tới đâu. Chợ ở đay không chỉ nói về nơi mua bán,
nhưng còn là chợ đời, trường đời. “Con đi trường học mẹ đi trường đời”
Thứ ba tu chùa
Người xưa có vẻ xếp thứ tự theo
tính cách khó khăn. Coi như vào chùa tu là có điều kiện thuận lợi để tu tâm
dưỡng tính, tu thân tích đức.
Tôi chưa bao giờ tu chùa nên
không có gì để nói, nhưng tu trong các “DÒNG TU CÔNG GIÁO” thì tôi có kinh
nghiệm bản thân, lại đã từng và vẫn đang giúp đỡ nhiều tu sĩ nam nữ khắp bốn
phương (làm việc tại nhà với phương tiện truyền thông điện tử), nên tôi có thể
nói nhiều hơn.
Chúa Giê-su mời gọi mọi
người : “Từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Thầy”
(Lc 9,23-25 ; 14,26-33).
Người Ki-tô hữu nào cũng là người
đi theo và tập sống làm môn đệ của Chúa Giê-su, với các điều kiện Chúa đã nói
với mọi người như trên đây, tại gia hay tại chợ cũng thế.
Tin Mừng theo thánh Lu-ca thoáng
cho thấy có nhiều cách theo làm môn đệ Chúa Giê-su :
Nhóm Mười Hai là những người bỏ mọi sự để
đi theo Chúa, ở luôn với Chúa, được sai đi thực tập, rồi khi Chúa đã phục sinh
thì sai họ đi tới tận cùng thế giới.
Nhóm phụ nữ đã được Chúa chữa
lành, đem tài sản đi theo mà giúp đỡ Chúa Giê-su và nhóm Mười Hai (Lc 8,1-3).
Hai chị em Mác-ta và Maria ở nhà,
sẵn sàng đón Chúa Giê-su và các môn đệ vào trú ngụ, nuôi ăn (10,38-42).
Ông Giu-se A-ri-ma-thê giàu sang,
quyền thế đến mức có thể một mình đi gặp Tổng Trấn Phi-la-tô xin xác Chúa
Giê-su về mai táng.
Trong Hội thánh sơ khai, ta thấy
nhiều thành phần khác nhau góp phần tổ chức các cộng đoàn. Đọc sách Công
Vụ và thư các tông đồ, nhất la thư Rô-ma 16,1-16
chúng ta hình dung được những cộng đoàn và những gia đình, những cá nhân tích
cực như thế nào trong việc phục vụ Hội Thánh.
Sau khi Đế quốc Rô-ma chấm dứt
việc cấm đạo vào đầu thế kỷ thứ tư, xuất hiện nếp sống mới, từ bỏ mọi sự, lui
vào hoang địa, rừng núi để làm môn đệ Chúa cách triệt để. Ngày nay trong Hội
Thánh có rất nhiều nếp sống tu khác nhau. Chủ yếu vẫn là bỏ mọi sự đi theo làm
môn đệ Chúa cách triệt để hơn : từ bỏ của cải (khó nghèo) từ bỏ đời sống
hôn nhân (trinh khiết vì Nước Trời), và từ bỏ chính mình (vâng phục).
Đây là ơn riêng Chúa ban, “gọi ai
nấy dạ”, mỗi người phải cầu nguyện, suy nghĩ, tìm hiểu với ý hướng ngay lành,
coi Chúa có gọi mình đi con đường nào. Dấu hiệu rõ ràng là niềm vui và sự bình
an, sự triển nở tâm hồn, cả về tâm lý lẫn đời sống theo các lời khấn.
Mọi động lực xuất phát từ sự tìm
kiếm bản thân, tìm đường tiến thân, tìm đường đi nước ngoái, áp lực gia đình,
hoặc ngược lại là muốn thoát khỏi sự nặng nề trong gia đình, thoát khỏi những
chấn thương tâm lý đã bị trong gia đình… đều là động lực nguy hại cho chính bản
thân và cho người khác.
Nếp sống tu nào cũng có kỷ luật,
những phương thế để giúp rèn luyện sự từ bỏ mà Chúa mời gọi và người vào tu đã
chấp nhận, để được trở nên môn đệ chân chính.
Nhưng những sự tập luyện “có kế
hoạch” cũng ví như những bài tập khi luyện võ hay những buổi tập dượt bóng đá.
Mục đích của các bài tập theo “kế hoạch” là để tập cho luyện võ, người đá banh
có phản xạ nhanh, để khi vào sân đấu hay sân banh thì tựn ứng biến, không có
giờ suy nghĩ, chậm 1/10 giây đồng hồ là có thể bị đo ván hay thua một bàn.
Tập luyện trong đời tu cũng vậy
thôi, tập cho mình biết tự ý từ bỏ chính mình hàng ngày, trong cuộc sống tông
đồ hay cộng đoàn. Những gì chợt đến như từ trời rơi xuống, bị hiểu lầm, bị la
rầy đúng hay oan, bị một lời nói, một cử chỉ, một thái độ, một cái nhìn chạm tự
ái… là những trắc nghiệm cho thấy tu đến đâu rồi. Trong đời tu, “đời sống
cộng đoàn là việc đền tội lớn nhất”. Những viên sỏi nhẵn nhụi trên bãi biển
là kết quả hàng triệu năm được mài giũa nhờ cọ sát vào nhau do sóng nước đẩy
lên kéo xuống. Sự cọ sát hàng ngày là không thể tránh. Chúa Giê-su chọn 12
người thân tín để ở với Ngài, toàn là những ông có cá tính mạnh mẽ và có nhiều
lý do để mâu thuẫn với nhau.
Hãy nhìn thử sáu ông mà chúng ta
biết chi tiết trong ba sách Tin Mừng Nhất lãm : bốn ông dân chài, gồm hai
cặp anh em, mà anh em nhà Dê-bê-đê có vẻ lúc nào cũng toan tính đè đầu đè cổ
người khác, thích làm môn đệ Ê-li-a, lấy lửa từ trời xuống đốt cả một làng vì
không đón tiếp thầy trò các ông ; một ông thu thuế, ngồi thu thuế của dân
chài, làm việc cho đế quốc ; một ông thuộc phe nhiệt thành sẵn sàng xé xác
quân thống trị. Nội bấy nhiêu đã là trái bom nổ chậm đặt trong lòng nhóm mười
hai. Trong bữa ăn cuối cùng, các ông còn cãi nhau sôi nổi tranh giành địa vị
với nhau (Lc 22,24-27). Rồi một ông bán Chúa, một ông chối Chúa,
mười ông bỏ chạy. Tất cả rớt đài. Huề.
Chúa Phục Sinh cho đứng dạy, ông
nào cũng thấy cái mặt thật của mình, hết vỗ ngực vênh vang. Chúa cho tất cả bắt
đầu lại, ngoan ngoãn lên đường đi loan báo Tin Mừng.
Người tu sĩ có đạt tới sự bỏ mình
để theo Chúa, mặc lấy tâm tình hiền lành khiêm nhường của Chúa thì mới hạnh
phúc và có thể góp phần loan báo Tin Mừng, giãi tỏa bình an, niềm vui từ trong
nhà ra ngoài ngõ và suốt dọc đường. Tin Mừng của Chúa là vui mừng và bình an.
Tôi nghe kể rằng Mẹ Tê-rê-sa Côn-cát-ta, buổi sáng khi các chị chào để ra đi
viếng người nghèo, Mẹ thấy chị nào có “bộ mặt đám ma” thì bảo chị đó ở lại nhà,
“người nghèo đã có đủ nỗi buồn rồi…”
Người đời nói : “bỏ con
sắt sắt bắt con cá rô”1, còn người tu “chưa chín” thì bỏ con cá rô bắt con
săn sắt. Bỏ con cá rô là cuộc sống gia đình, con đường sự nghiệp công danh
ngoài đời… Nhưng lại tìm bắt con săn sắt. Tìm những sự bù trừ trong nhà, ngoài
nhà, trong công việc, trong tương giao với người ngoài. Có khi bao nhiêu ngọt
ngào dành cho người ngoài khiến ai gặp cũng “tắc lưỡi” khen hiền, khen giỏi,
khen lịch thiệp, nhưng về lại nhà Dòng thì xả bã trà, bã cà-phê, khiến mọi
người “tắc họng” nuốt không trôi, mặt như bánh bao chiều, “trông thấy ai ai
chẳng dám ho”.
“Chín chưa kỹ” cũng có thể “sống
lại”. Khi có danh giá, quyền hành trong cộng đoàn thì lại trở thành kiêu căng,
tham quyền cố vị2.
Ít lâu nay tôi hay nhớ tới cái
roi đánh tội mà khi vào nhà tập tôi đã nhận. Nó là cái roi tua bằng giây gai,
gồm ba hay năm tua, mỗi tua có năm nút thắt. Tôi nhớ tới nó không phải nhớ “củ
hành củ tỏi Ai-cập”, nhưng nó cho tôi một hình ảnh để giải thích một hiện tượng
quen thuộc, nhất là trong các dòng nữ, đó là những “cây roi đánh tội sống”, một
người chị em nào đó trong hội dòng, mà đi đâu cũng thành … cây roi đánh tội cho
mọi người trong nhà. Roi đánh tội ở nhà tập thì chỉ dùng tự đánh trên lưng hay
trên mông mình, vào những ngày qui định và theo số roi cha giáo tập cho phép
thôi. Còn cái roi đánh tội sống thì nó tự động đánh bất cứ lúc nào, ngày thường
cũng như ngày lễ, mùa chay cũng như mùa Phục Sinh… và đánh bất kể vào đâu, vào
tận tim tận óc (sốc óc), không đếm số ! Tôi cũng biết một vài linh mục mà
giám mục sai đi xứ nào người ta cũng sợ, nên không ở đâu lâu. Ngày xưa các cha
còn nằm cáng (võng) cho người ta khiêng. Có chuyện rằng ban đêm ban chức việc
đem cáng xin cha đi xức dầu cho kẻ liệt (người bệnh nặng). Cha lên cáng nằm. Đi
mãi không thấy tới. Cha sốt ruột hỏi : sao kẻ liệt ở xa thế ?” - Thưa
cha, sắp tới rồi ạ. Khi họ dừng cáng, mở tấm che, thì hóa ra là tới… tòa giám
mục !
Thật tội nghiệp cho giám mục, cho
bề trên, băn khoăn như mấy người anh trong sách Diễm Ca : “Em gái chúng
ta con nhỏ… chúng ta không biết làm gì cho em gái chúng ta ?” (8,8).
Giám mục thì cuối cùng phải đem về tòa giám mục nuôi “báo cô”. Bề trên Dòng thì
có giải pháp tiết kiệm, cho mỗi mỗi cộng đoàn mượn một thời gian !
Những lời khấn trong Dòng là để
giúp ta bỏ tất cả mà “yêu mến Chúa bằng tất cả trái tim, bằng cả mạng sống
và hết cả những gì mình có” (Đnl 6,5 ; Mc 12,28-34).
Muốn được thanh thoát để mang niềm vui của Tin Mừng bình an trong lòng mà trao
cho mọi người, thì phải bỏ cho trọn, cho trót theo gương bà góa nghèo (Mc 12,41-44) :
Bà góa nghèo chỉ có một xu, đem
mua bánh thòm thèm một bữa, nhưng nhịn bụng để dành tất cả, cúng Đền Thờ hết cả
một xu. Bạn ơi, tình yêu không đo bằng độ lớn con tim, vì chẳng lẽ người bệnh
to tim là yêu nhiều hơn cả, nhưng tình yêu được đo bằng tất cả, cả tấm lòng và
cả chút của riêng. (Cảm hứng khi ở trại cải tạo Z30A,1987)
Thánh Phao-lô diễn tả mức lý
tưởng của sự “mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô” đối với mọi Ki-tô-hữu là :
Tất cả chúng ta, mặt không màn
che, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương ; như vậy,
chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ
hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí. (2 Cr 3,18).
“Nguyện Danh Cha Cả
Sáng”. A-men.
Giê-ru-sa-lem, lễ thánh Ma-ri-a Ma-đa-lê-na 2020
L.M. Giu-se Nguyễn công Đoan, S.J.
1) Cá săn sắt, hình dáng giống cá
rô, nhưng nó chỉ lớn bằng đầu ngón tay cái thôi.
2) Tôi đã viết trong cuốn “Đời
sống thánh hiến trong Hội Thánh ngày nay”. NXB Đồng Nai 2019.
Nguồn: Nhóm phiên dịch
giờ kinh Phụng Vụ
ktcgkpv.org