HIỂU SAO CHO ĐÚNG:
GIÁ TRỊ VẬT CHẤT VÀ ĐỨC KHÓ NGHÈO
MỞ
ĐẦU
“Ấm no hạnh phúc”, có ấm có no mới có hạnh
phúc. Cũng vậy, nghèo khi nào cũng đi liền với khổ “nghèo khổ”. Đã sống thì ai cũng mong thoát khổ,
tìm hạnh phúc.
Nhìn ra thiên nhiên thì thú vật, từ con ong
cái kiến, cá mú ở sông hồ biển cả cho đến muông thú trên rừng: cọp beo, voi khỉ,
mở mắt ra là cần mẫn đi tìm thức ăn cho no bụng. Con người giành phần lớn thời
gian vàng để làm việc và kiếm sống. Rảnh rỗi mới đi chơi, vui thú.
Người còn tiến xa hơn, biết tích góp phòng cơ, ngộ nhỡ lúc trái gió trở trời, mùa màng thất bát thì lấy ra mà
dùng, ấy là lẽ khôn ngoan. Người ta có trí tuệ biết lo xa: mùa xuân, mùa
hè thời tiết thuận lợi thì lo làm lụng, tích trữ vào kho cho mùa đông tuyết
giá, năm này và cho năm khác.
Của cải dư dật, có tiền gởi ở ngân hàng thì
bảo đảm cho mình an toàn và ổn định, thoát khỏi lo lắng. Thế là có hạnh phúc. Ngụ
ngôn “Con ve và con kiến”của La Fontaine, học từ nhỏ; ai lại nói chú kiến cần mẫn
chăm chỉ là ngu dại bao giờ?
Tôi có một người bạn: chăm chỉ làm ăn, lo lắng
cho gia đình. Sau vài chục năm tiết kiệm chi tiêu, nay đã có nhà cửa, phương tiện
đi lại, lương hưu đầy đủ để nghỉ ngơi hưởng nhàn, bù lại cho cả đời trai trẻ cật
lực làm việc. Khi đọc đến đoạn tin mừng Chúa Giê Su nói với người thanh niên
giàu có, để vào nước trời: “Anh hãy về bán của cải, phân phát hết cho kẻ
nghèo khó, rồi đến theo ta.” (Mt 19, 21). Chúa nói rõ tưởng
chừng như không có gì cụ thể hơn.
Theo ông à ! Một người vô gia cư, “Cáo có
hang, chim có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”(Lc 9, 58), dễ thường cái giường
ngả lưng cũng không có, tứ cố vô thân. Có mà…! Người thanh niên nghe chướng tai
liền bỏ đi.
Chúa nói với các môn đệ: “Người
giàu vào nước trời giống như con lạc đà chui qua lỗ kim”( Mt 19, 24 ). Còn môn đệ thì nghĩ: vô phương! Ai mà làm cho được!
Sống phúc âm sao mà khó quá, hầu như không
thể…
Đạo
Chúa đi đến không tưởng sao? Lời Chúa có là phép thắng lợi
tinh thần của AQ ( AQ là một nhân vật của Lỗ Tấn: tự huyễn hoặc mình trỗi vượt hơn
mọi người ), là thuốc phiện ru ngủ bọn người cùng đinh?
I - CỰU ƯỚC VÀ QUAN NIỆM GIÀU NGHÈO.
Ta có thể dễ dàng nhận ra có một sự khác biệt về quan niệm
giàu nghèo, hay nói đúng hơn một tiến trình nhận thức, tuỳ theo não trạng của
con người thời đại. Không thể nói: các tác giả sách cựu ước giáo huấn cho những
người đương thời hàng trăm, hàng ngàn năm trước tân ước và chúng ta ngày nay, 2000
năm sau Chúa giáng sinh, là hoàn toàn giống nhau được.
Chế độ sở hữu nô lệ chẳng hạn. Chiến
tranh Nam Bắc Hoa Kỳ: giải phóng cho những người da đen bị buôn bán từ châu Phi
làm nô lệ, kết thúc năm 1865. Thế giới, về cơ bản, coi sở hữu nô lệ như tàn ác
bất nhân, không thể nào chấp nhận trong xã hội loài người, mới 155 năm gần đây
mà thôi. Trước đó, người ta vẫn coi việc chiếm hữu nô lệ là bình thường và hợp
pháp.
Phê phán đúng sai phải dựa trên quan điểm lịch
sử.
Vậy thì, với quan niệm giàu nghèo, các sách
cựu ước nói gì?
1.1. Giàu có là một ân phước của Thượng Đế:
Ta có thể thấy bàng bạc khắp sách cựu ước, một ân phước mà
Thiên Chúa ban thưởng cho cá nhân và toàn dân Do Thái là sự giàu có của cải vật
chất: khi trung tín thờ phụng Ngài thì được thịnh vượng; trái lại khi bất trung
và xa lánh Ngài thì tai ương ập đến: khổ cực, đói nghèo, mất nước, nô lệ cho
ngoại bang.
Người Do Thái thời xưa quan niệm rằng: giàu
có phải là đông con nhiều cháu, nhiều gia nhân, nhiều súc vật, sở hữu ruộng
nương đất đai màu mỡ và sống thọ. Đó là dấu chỉ
được Chúa thương chúc phúc.
Tổ phụ Abraham là người công chính được
Chúa thương ban cho dòng dõi: đông đúc như sao trời, nhiều gia nhân, đất đai thẳng
cánh cò bay, gia súc đầy đồng. Ông sống thọ 175 tuổi.
Vua Salomon là điển hình nữa cho sự chúc
phúc của Thượng Đế. Ông là vị vua cực kỳ giàu có, Chúa phán cùng Salomon: “Ta cũng sẽ ban cho cho ngươi của cải giàu có, danh vọng mà không một vị
vua nào trước hay sau ngươi được như vậy.”(1 V 3,15).
Sách Châm Ngôn cũng khẳng định: “Chính
phúc lành của Đức Chúa cho ta được giàu sang”.( Cn 10, 22)
1.2. Nghèo khó là án phạt hoặc là sự thử thách của Thượng Đế.
Sau khi ăn trái cấm trong vườn địa đàng, bất
tuân lệnh Chúa, từ cuộc sống an vui sung túc, Adam và Eva liền rơi vào cảnh khốn
khổ nghèo khó:
“Đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi
ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai trổ sinh gai
góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có
bánh ăn” (St 3, 17-19).
Sách Gióp thì coi sự nghèo khổ là một thử
thách mà Đức Chúa gởi xuống.
Sa-tan nói với Chúa: “Ngài
cứ thử giơ tay đánh vào mọi tài sản nó (ông Gióp) xem, chắc chắn là nó nguyền rủa
Ngài thẳng mặt” (G 1, 11).
Được phép của Chúa, Sa-tan
hành hạ ông Gióp khiến ông mắc phải chứng
ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro lấy mảnh
sành mà gãi. Bấy giờ, vợ ông bảo: ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của
ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa mà chết đi cho rồi. Nhưng ông Gióp đáp
lại: cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa,
còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao? (G 2, 7-10).
Sau sự thử thách trên, ông Gióp vẫn một
lòng kiên trung với Thượng Đế .
“Vậy Đức Chúa đã khôi phục tài sản cho ông
Gióp. Đức Chúa đã tăng gấp đôi những gì ông đã có trước kia” (G
42, 10).
1.3. Sự giàu có hay khó nghèo đều là tạm thời chóng qua. Giàu có phải làm phúc bố
thí.
Tất
cả đều là phù vân: “Người thích tiền bạc có bao
nhiêu cũng không lấy làm đủ; kẻ bo bo giữ của chẳng thu được lợi lộc gì. Điều ấy
cũng chỉ là phù vân” (Gv 5,9)
Cựu ước đề cao sự hiểu biết và khôn ngoan
hơn là giàu có, “Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu có
như không” (Kn 7, 7-11). Vua Salomon đã xin với Chúa sự
khôn ngoan và Đức Chúa đã cho ông sự giàu có đi kèm theo.
Cảm nhận sự chóng qua và sự phù vân giả tạo
của vật chất, nay còn mai mất, nhất là lúc chết đi thì chẳng còn gì: “Con người ta trần truồng vào thế gian, thì cũng trần truồng mà bỏ nó” (G
1, 21).
Cựu ước khuyên con người ta không nên kiếm
tiền một cách bất chính: “Đừng bóc lột kẻ nghèo, vì họ đã nghèo sẵn;
cũng đừng chà đạp người yếu thế nơi cửa công, vì Đức Chúa sẽ biện hộ cho họ, và
ai tước đoạt họ, Người sẽ tước mạng sống”. (Cn 22, 22-23)
Trái lại phải làm phúc bố thí cho người bần
cùng: “Ai bố thí cho người nghèo, sẽ chẳng hề túng thiếu.” (Cn
28, 27) và “Người công chính quan tâm đến quyền lợi kẻ nghèo, điều đó, ác nhân
làm sao hiểu nổi” (Cn 29, 7)
Kinh nghiệm: sự giàu sang phú quý thường
làm cho con người sa đoạ và sau đó thì mất tất cả. Vua Salomon là một ví dụ. Sự
giàu có tột độ đã làm cho vua hết khôn: thê thiếp đầy cung điện, sa đàng tội lỗi,
bỏ Đức Chúa mà theo tà thần. Rồi cuối cùng là mất ngai vàng và mất nước.
Vì thế, sách Châm Ngôn viết: “Xin
đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần
dùng, kẻo được quá đầy đủ, con sẽ khước từ Ngài mà nói: Đức Chúa là ai vậy? Hay
nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con” (Cn 30, 8-9).
Cựu ước đã đem của cải vật chất vào đúng
giá trị của nó.
Nếu cựu ước coi sự thịnh vượng giàu có là dấu
chỉ ơn phước của Thượng Đế thì trong tân ước, của cải vật chất dường như là nỗi
bất hạnh: “Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có” (Lc 6, 20) ?
II. TÂN ƯỚC VỚI ĐỨC KHÓ NGHÈO
“Đa
kim ngân phá luật lệ”, cái gì không mua được bằng tiền thì mua bằng thật nhiều
tiền, điều này cho chúng ta thấy sức mạnh của tiền tài vật
chất. Xã hội bây giờ không khác gì xã hội dân Do Thái thời Chúa Giê Su.
2.1. Mãnh lực tiền bạc vật chất
Tiền
tài vật chất có một sức mạnh vô cùng lớn, ảnh hưởng trên mọi lãnh vực xã hội.
“Có tiền mua tiên cũng được”. Từ cán cân công lý, đổi trắng thay đen, chức vị,
tình yêu, đến lãnh vực tâm linh: buôn thần bán thánh, tiền bạc là thước đo, là
thực tại tối cao, quy định tất cả. Tiền bạc soán ngôi vua, thành ông chủ đối
nghịch và ngang hàng với Thượng Đế.
Chúa Giê Su cũng cảm nhận được vị thế hầu
như không thể đạp đổ của cái ông vua không ngai ấy và dạy các môn đệ: “Không
ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn
bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa
làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24)
Tiền bạc rõ ràng là một ngẫu tượng, là con
bò vàng dân Do Thái đã đúc và thờ lạy trong sa mạc
mà Đức Chúa rất “ghen tị”: “Ngươi không được
có thần khác đối nghịch với ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật
gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất,
để mà thờ.” (Xh 20, 3-4).
Chính Chúa Giê Su cũng bị ma quỷ đem của cải
tiền bạc thế gian ra mà cám dỗ trong hoang địa: “Quỷ lại đem người lên một
ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi
lộc của các nước ấy và bảo rằng: “tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu
ông sấp mình bái lạy tôi.”
(Mt 4, 8).
Tiền bạc quả là vô song, nó thống trị và nô
lệ hoá con người. Lòng tham tiền bạc kết dính với con người, khó mà thoát cho được: “Của
cải các ngươi ở đâu thì lòng dạ các ngươi cũng ở đó” (Mt
6, 21)
2.2. Tiền tài vật chất làm tha hoá con người
-
Tham lam:
Thánh Phao Lô viết trong thư thứ nhất gởi tín hữu Timôthê: “Bởi
chưng sự tham lam tiền bạc là cội rễ mọi điều ác” (1 Timôthê 6, 10). Lòng tham
của cải làm cho tâm trí hoá ra mù quáng, từ đó gây nhiều tội ác. Ký sự pháp
đình ghi nhận biết bao tội ác do lòng tham lam của cải gây ra: lừa đảo, bội bạc,
cướp bóc, giết người… Giu Đa Ítcariốt cũng bởi lòng tham lam của
cải mà bán thầy mình với giá 30 đồng bạc.
-
Ích kỷ, chai cứng lòng nhân ái, không biết
chia sẻ.
Câu
truyện phúc âm kể lại Lazarô nghèo khổ và ông nhà giàu. Cuộc sống dư dật đầy đủ,
sung sướng của ông phú hộ bên cạnh Lazarô nghèo khổ, nhặt từng mảnh bánh vụn mà
ăn. Khi cả hai cùng chết, Lazarô hạnh phúc trong lòng tổ phụ Abraham;
còn người phú hộ thì chịu khốn khó, đói khát trong lửa hoả ngục thiêu đốt.
Phú ông không phải vì giàu có mà bị trừng
phạt mà do thái độ dửng dưng trước sự đói khổ của người khác, sống ích kỷ, không
quan tâm chia sẻ với kẻ nghèo khó bên cạnh.
Người thanh niên giàu có mà ta mới đề cập ở
trên, nổi tiếng với câu nói đầy tranh cãi của Chúa Giê Su : “Người giàu có vào
thiên đàng khó như con lạc đà chui qua lỗ kim”. Anh ta tuyên
bố đã từng giữ các điều răn từ nhỏ, liệu có tự dối lòng, khi không dám chia sẻ
tiền bạc vật chất rộng rãi cho tha nhân, như lời khẳng định của thánh Phao Lô
:” Nếu ai nói yêu mến Thiên Chúa, mà lại không yêu anh em mình, người ấy là kẻ
nói dối”( 1 Ga 4, 20).
-
Tự cao, tự phụ, kiêu căng:
Trong
thư thứ nhất gởi tín hữu Timôthê đoạn 6 câu 17-19, thánh
Phao Lô đưa ra cảnh báo: “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy
truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân
nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng” và “Họ
phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi,
sẵn sàng chia sẻ. Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững
chắc cho tương lai, để được sự sống thật.”
-
Phóng túng, thác loạn:
Cha
ông chúng ta vẫn dặn dò con cháu “No cơm ấm cật, dâm dật mọi nơi”, thật xác
đáng. Đối với Khổng Tử, bậc chính nhân quân tử thì: “phú
quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di”, nghĩa là lúc giàu có không vì thế mà sinh
tật ăn chơi, khi nghèo túng cũng không vì thế mà bị lung lạc làm điều bất chính.
Khi con người đã no đủ thì có khuynh hướng ăn chơi thoả thích, no say, không kiềm
chế được bản năng.
Dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” trong phúc âm:
vì ham tiền của mà người con út đang tâm từ bỏ cả người cha thân yêu của mình,
đòi chia gia tài đi phương xa. Có tiền rồi thì ăn chơi đàng điếm, phóng túng.
-
Giả hình, gian dối, vụ hình thức bề ngoài:
Cha
ông ta thường nói “phú quý sinh lễ nghĩa”. Giàu có thì phát sinh lễ nghi hình
thức.
Ta không cho hình thức là xấu nhưng vụ hình thức thì
không tốt. Nhiểu người tỏ vẻ sang trọng bên ngoài còn bên trong thì rỗng tuếch,
giả dối, hai lòng. Nhiều người làm từ thiện để đánh bóng mình, thực tế thì cho
đi những gì thừa thãi, hoặc tự dối lòng mình cũng làm điều bác ái cho anh em, không
đúng với sự chia sẻ chân thực là hy sinh chính mình.
Còn nhiều nữa sự tác hại của tiền tài vật
chất lên đời sống. Nhưng liệt kê như thế cũng đủ cho ta thấy, lý do tại sao
Chúa Giê Su lại dị ứng đến thế với sự giàu có thế gian.
Trong bài giảng tám mối phúc thật như một tuyên
ngôn nước trời, điều trước tiên Ngài phán chính là tinh thần nghèo khó: “Phúc
cho ai có lòng khó nghèo vì nước trời là của họ” (Mt
5,3)
Ngài đòi buộc các môn đệ phải có thái độ buông
bỏ dứt khoát “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng, thì không xứng
đáng với nước Thiên Chúa”(Lc 9, 62).
2.3. Đức khó nghèo và đời sống tu trì
-
Gương khó nghèo của Chúa Giê Su :
Đời sống Chúa Giê Su là tấm gương cho môn đệ sống đời khó
nghèo.
Người ta đã nói quá nhiều về sự nghèo khó của
Ngài. Ta chỉ đề cập ở đây tính cách nghèo trổi vượt, không ai có thể làm, như
thánh Phaolô nói: “Đức Giê Su Ki Tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc
lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân.” (Pl 2,6-7).
Hay như khởi đầu phúc âm thánh Gioan “Nhờ
Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”
(Ga 1, 3)
Từ hang đá giáng sinh nghèo hèn, đến hy
sinh trên thập giá trần truồng, Ngài đã trở nên nghèo thật sự.
Cay đắng nhất của cái nghèo là mất hết sự cảm
thông, trở nên trơ trọi, cô độc. “Thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không
nhận biết Người”(Ga 1, 10). Ngài đã biết trước hết mọi sự và đã chấp nhận nó.
Khoa học đã tìm ra nguyên nhân mồ hôi rịn
ra cùng với máu, ở nơi người bị một nỗi lo sợ cùng cực được biết trước. Chúa
Giê Su đã trải qua tâm trạng đó trong vườn cây dầu: bị phản bội bởi môn đệ thân
tín; bị ruồng bỏ, chối từ bởi những người
thân thiết nhất, đồng cam cộng khổ hàng ngày; bị hành hình độc ác cho đến chết;
bị tước đoạt hết mọi sự: “Người đã bị khai trừ khỏi đất người sống…Bởi vì Người
đã hiến thân chịu chết và đã bị liệt vào hạng phạm nhân.” (Is
52, …)
Chúa Giê Su đã nghèo thật sự khi không còn
lại gì: thân thể thì rách nát; bị phỉ báng sỉ nhục: tiếng tăm như Đấng Cứu Thế
Messia, mới tuần trước khi được toàn dân tung hô, thì nay là tội đồ: “Nếu
ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng nộp cho quan” (Ga 18,30). Môn đệ thì xa lánh, sợ liên luỵ đã bỏ đi hết, chẳng còn mấy người.
Còn gì đắng cay hơn khi cả Chúa Cha dường
như cũng bỏ mặc Ngài “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni! Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao
Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15, 34)
Đến đây chúng ta mới thực sự ngụp lặn trong
sự huyền nhiệm của việc cứu độ, mà Thiên Chúa đã làm cho con người, và cảm nhận
cái nghèo tận cùng của Chúa Giê Su trên thập giá.
-
Tu sĩ : những người được Chúa Giê Su tuyển
chọn :
Ngay
từ đầu, môn đệ Chúa Giê Su đã phải từ bỏ ý riêng, điểu rất quan trong trong đời,
là sự do chọn lựa.
“Không
phải anh em đã chọn thầy nhưng chính thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để
anh em ra đi, sinh được hoa trái” (Ga 15, 16).
Khó nghèo là tiêu chuẩn hàng đầu. Buông bỏ
tất cả: cha mẹ, vợ con, ruộng vườn tài sản… Ông
Phêrô thưa với Chúa: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi
sự mà theo thầy…” (Mc 10, 28)
Nhiều người giàu có, chẳng biết làm gì cho
hết của cải, thấy cuộc sống ngắn ngủi, than vãn: tiền nhiều để làm gì ?
Tu sĩ của Chúa cũng tự hỏi câu tương tự :
khó nghèo để làm gì?
Thì
để sinh hoa trái, bởi vì:
·
Cái nghèo làm tăng tính quảng đại, rộng rãi,
vị tha.
·
Cái nghèo làm tăng lòng nhân ái, chia sẻ.
·
Cái nghèo làm cho ta biết khiêm tốn, nhịn
nhục .
·
Cái nghèo giúp tâm hồn thanh khiết, tự chủ
bản thân, dũng cảm.
·
Cái nghèo giúp công bình, chính trực liêm
khiết thật thà.
·
Cái nghèo giúp thăng hoa gắn bó với Thiên
Chúa và nước trời.
Không còn dính bén đến của cải, người thánh
hiến đặc biệt cho Chúa sẽ trổ sinh nhiều hoa trái tinh thần, chuyên tâm lo việc
nhà Chúa:
“ Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất” (Ga 12,
15). Con người tự do nhất là khi không còn gì để mất, kể cả thân xác mình.
Không gì ép buộc được ta và ta có thể tự do làm những gì mình muốn.
Thánh Phaolô: “Tôi
coi mọi thứ như cỏ rác, khi có Đức Kitô “(Pl 3, 8). Với người môn đệ, chỉ
có Chúa Kitô là đủ. Rác rến là thứ phải vất đi; không ai giữ lại rác rến bao giờ.
III. GIÁ TRỊ CỦA VẬT CHẤT
3.1. Thiên Chúa là ông chủ rất giàu có.
Cả cựu ước và tân ước đều coi Thiên Chúa là nguồn cội của
giàu sang phú quý. Ngài muốn sao thì tuỳ.
Từ sách Sáng Thế Ký, Đức Chúa sáng tạo mọi thứ từ hư
không, cho con người quyền quản lý và sử dụng.
Cho đến sách Các Vua: vương quyền và sự giàu có đều do
Ngài.
Sách Gióp nói của cải vật chất đều do Chúa ban: “Đức Gia Vê đã ban cho, Đức
Gia Vê lại cất đi” (G 1, 20)
Tân
ước cũng quan niệm như vậy. Chúa Giê Su diễn tả Chúa Cha bằng những dụ ngôn qua
hình ảnh ông chủ giàu có, độc lập và toàn quyền:
·
Ông chủ vườn nho, trả công cho người làm sớm
muộn do mình (Mt 20)
·
Ông vua là chủ nợ, đòi đầy tớ thanh toán sổ
sách (Mt 18, 23-34)
·
Ông vua mở tiệc cưới ( Lc 14, 15-24)
·
Ông chủ vườn nho và những tá điền gian ác. (Mc 12, 1-12)
·
Ông chủ và đầy tớ trung tín (Lc 12, 42-46)
·
Ông chủ và người quản lý bất trung.( Lc 16,
1-8).
·
Ông chủ giàu có giao những nén bạc cho đầy
tớ, trước lúc đi xa (Mt 25, 14-30)
Cũng như dụ ngôn đứa con hoang đàng, người
cha là ông chủ giàu có chia gia tài cho con theo lời yêu cầu của nó, để nó tự
do tiêu pha.
Chúa Giê Su cũng nói đến sự giàu sang của
Thiên Chúa không gì sánh, khi giảng dạy các môn đệ tin tưởng vào sự quan phòng:
long bào của vị vua giàu có nhất thế gian là Salomon cũng không đẹp bằng bông
huệ ngoài đồng, nay còn mai mất.
Chúa đã tạo dựng thiên nhiên vô cùng tươi đẹp,
phong phú mà lại còn hào phóng nữa.
Ta cứ suy nghĩ mà xem: cây cỏ hoa trái, nước
nôi, không khí, ánh sáng mặt trời, tài nguyên bất tận trong lòng biển, lòng đất…
là để cho ai?
Ngài
cũng cho chúng ta phương tiện tuyệt vời để sử dụng chúng:
·
Vẻ đẹp, màu sắc lung linh kỳ ảo có giá trị gì,
nếu không có đôi mắt nhìn ngắm.
·
Âm thanh trầm bổng du dương, cũng như không,
nếu thiếu đôi tai thưởng thức.
·
Hương thơm lan toả cỏ hoa, vị ngọt bùi cây
trái cũng vô ích khi không có mũi ngửi và lưỡi nếm.
·
Ta cũng không thấy được cái mềm
mại, dịu dàng của làn gió nhẹ mơn man nếu không có sự tinh tế của xúc giác.
·
Và hơn tất cả là bộ não tinh vi tổng hợp, cảm
nhận và đánh giá.
( Suy nghĩ lan man cho vui:
Chỉ có con người là bạn thật sự của Thiên
Chúa, vì chỉ có con người mới đủ những điều kiện trên, vạn vật không có được.
Trong vườn địa đàng, khi tạo dựng xong mọi
thứ, Chúa thấy Adam vẫn buồn và cô đơn, vì không tìm đâu ra người bạn tri kỷ
trong đám thú vật vô hồn kia. Ngài liền tạo dựng Eva có tri giác, có “đầu
óc”,”tình yêu”, Adam liền mừng rỡ hân hoan đón nhận.
Có lẽ con người là tạo vật duy
nhất để Thượng Đế “khoe” công trình sáng tạo tuyệt diệu của mình).
Ngạn ngữ Latinh có câu “Nemo dat
quod non habet” (không ai có thể cho cái mà mình không có). Đừng lo, Chúa cho mỗi
người chúng ta dư dật mọi thứ ta cần. Bạn hãy nhìn quanh mình để tự khám phá ra
những thứ Ngài ban cho bạn một cách nhưng không, cả vốn liếng để bạn sinh lợi
và trở nên giàu có.
Chỉ khác ở chỗ “ Phàm ai đã có, thì được
cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy
đi”( Mt 25, 29).
Thật đó bạn ạ. Bạn có nhớ dụ ngôn nén bạc
trong phúc âm: có một ông chủ giàu có kia trước lúc đi xa, gọi gia nhân lại và
giao người thì 5 nén bạc, kẻ thì 2 nén , người thì 1 nén và nói các ngươi hãy
sinh lợi để khi ta về sẽ thu lại cả vốn lẫn lời.
Bạn
có giống người được giao 1 nén, đem chôn đi nén bạc được giao, làm thui chột khả
năng sinh lợi: thời gian của bạn, cơ hội, khả năng, nhận thức, sức khoẻ, ý chí,
giao tế và cả tấm lòng của bạn?
3.2. Giá trị chân thực của vật chất:
-
Của cải vật chất rất quý; nhân phẩm còn quý
hơn:
Thiên nhiên dầu có huy hoàng tráng lệ thì cũng không là
gì với giá trị con người.
Chính Chúa Giê Su đã khẳng định điều này
khi nói: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế
mà cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt
6, 26)
Đoạn khác: “Anh em còn quý giá hơn
muôn vàn chim sẻ” (Mt 10, 31)
Của cải vật chất, dù có nhiều mãnh lực đến
đâu, cũng không bằng sinh mệnh con người, nó chỉ là tạo vật thấp kém dưới con mắt
Thiên Chúa.
Vậy hà cớ gì lại tôn nó làm ông chủ mà thờ,
mà làm tôi mọi, thâm chí có người còn coi nó quan trọng hơn cả Thiên Chúa. Có
gì ngu dại hơn?
-
Nhận chân giá trị: nước trời ưu tiên, tiền
bạc thì chóng qua.
Phúc âm kể truyện: (Lc 12, 16-21)
“Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới
nghĩ bụng rằng: mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu. Rồi
ông ta tự bảo: mình sẽ làm thế này, phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn
hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình có vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ
lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta:
Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn
đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước
mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
Cựu ước coi của cải chỉ là phù vân, chóng
qua. Trong tân ước, Chúa Giê Su đã trả lại cho của cải vật chất đúng vị trí của
nó phải có. “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước trời và đức công chính của Người, còn mọi
sự khác Ngài sẽ ban cho sau.” (Mt 6, 33).
Ngài còn cảnh giác chúng ta phải rất cẩn thận
trước cái bã vinh hoa làm cho chúng ta chọn sai, xa tình yêu chân thật là Thượng
Đế, để mất ơn cứu độ là cái cần hơn.
Trong dụ ngôn nước trời giống như viên ngọc
quý, người khôn là người biết dùng vật chất chóng qua để mua lấy cái bền vững đời
sau: “Nước trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm
được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên
ngọc ấy”. (Mt 13, 45)
-
Sử
dụng tiền của cho đúng :
Cách ngôn có câu:“ của cải là một ông chủ tồi và là một đầy tớ tốt”.
·
Tiết kiệm, không lãng phí:
Trong
sa mạc, Đức Chúa đã cho dân Do Thái no nê, ngày này đến ngày kia manna nuôi sống
họ, nhưng Ngài cũng quy định không được lấy nhiều hơn những gì mình cần.
Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hoá
nhiều cho hàng ngàn người ăn no nê. Ngài cũng bảo các môn đệ sau đó thu gom
bánh vụn kẻo lãng phí.
Ta cũng vậy, không nên bủn xỉn. Hà
tiện là thái độ của kẻ ti tiện, quý trọng thái quá vật chất hay hư nát, không
tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa luôn chăm sóc đời ta, không độ lượng và đủ quảng đại để sẵn sàng chia sẻ và cho đi.
Cũng không sử dụng lãng phí của cải Chúa
ban, quanh ta không biết bao nhiêu người đói khổ đang cần của ăn.
Khai thác thiên nhiên vừa đủ và tái tạo nó
để không lãng phí tài nguyên cho thế hệ sau.
·
Quảng đại và biết cho đi :
Một quy luật sự giàu có là tính cách luân chuyển của vật chất. Vật chất
luân chuyển thì mới sinh lợi. Nó cũng như dòng nước hay như thức ăn trong ta, nếu đọng
lại ắt sinh hại. Cho đi tưởng là mất, nhưng ngược lại, mối lợi đem lại nhiều
hơn. “Khi hiến thân là lúc được nhận lãnh” (kinh hoà bình).
Đời sống không phải chỉ là cơm áo gạo tiền: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa
phán ra” (Mt 4, 4) mà lời Chúa lại là lời hằng sống. Lời đem lại sự sống thật đời
đời.
·
Sử dụng tiền của đúng mục đích, đúng lúc,
đúng nơi cần:
Ta không khinh ghét của cải Chúa ban để ta được sống và sống phong phú dồi
dào như Ngài muốn, nhưng biết sử dụng nó phải phép, đúng lúc, đúng nơi. Của cải
Chúa ban không chỉ để giúp người nghèo như một bổn phận mà thôi:” Người nghèo
thì lúc nào các con cũng có bên cạnh mình”( Mc 14, 7), nhưng còn bao nhiêu việc
khác nữa: nhà thờ, bệnh viện, trường học… và muôn vàn những việc lớn nhỏ cần đến
sự đóng góp của ta để thăng tiến đời sống, phục vụ công ích.
Bình dầu thơm đáng giá 300 đồng, thời Chúa Giê Su, cũng to lắm nhưng là
việc đáng làm. Chúa Giê Su để mặc cho người phụ nữ đổ dầu thơm quý giá lên mình
:” Cô ấy đổ dầu thơm trên mình thầy là hướng về ngày mai táng thầy”.(Mt 26, 12)
Tiền bạc nhiều khi làm ta thui chột, bị
choá mắt, không nhận ra việc đáng phải làm. Trong phúc âm thánh Mát Thêu: “Vì
xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ,
các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các
ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”. “Ta
bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé
nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy.”(Mt
25, 31-34).
Được mấy người trong chúng ta thấy Chúa
trong hình hài những người nghèo vất vưởng rách nát, hay chỉ biết chúc mừng những
vị quyền cao chức trọng, áo mũ xênh xang.
·
Của cải và sự công bằng:
Của cải ta có phải là những đồng tiền sạch, chúng không đến từ nguồn dơ
bẩn: tham nhũng, hối lộ, buôn bán gian lận…Với nhiều người, giàu có là do làm
ăn bất chính, bóc lột người khác: “Người nào hà hiếp kẻ nghèo, ắt sẽ làm cho
nó giàu có” (Cn 22, 16).
Đức
công bằng đòi buộc phải đền bù. Ông Giakêu là người thu thuế giàu có, sau khi nhận chân
được giá trị tiền bạc, đã tự nguyện: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi,
tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Và Chúa Giê Su khen ông: “Hôm
nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này.” (Lc 19, 8-9).
·
Sống đơn giản, thanh nhàn :
“Tri túc, tiện túc” (biết đủ là đủ). Như sách Châm Ngôn: “Xin
đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần
dùng.”
(Cn 30, 8).
Trong kinh lạy Cha , Chúa Giê Su dạy ta: “Xin cho chúng con lương thực hằng ngày” cũng là triển khai ý đó.
Tôi nhớ, lần kia, đi với đoàn CCFD ( tổ chức chống đói nghèo và giúp
phát triển của giáo hội Pháp) sang Lào, mục đích giúp đỡ dân tộc thiểu số vùng
rừng núi xoá đói giảm nghèo. Chiều đến, thấy bên bờ suối một đôi vợ chồng người
dân tộc và hai đứa trẻ, nướng con cá to trên bếp củi hồng, chia sẻ nhau ăn,
chan hoà hạnh phúc.
Tôi trộm nghĩ, đưa họ xuống đồng bằng với “điện, đường, trường, trạm” có
là giải pháp tốt hay ngược lại mới hợp lý. Sống đơn giản, hoà mình vào thiên
nhiên giàu có hay là tước đoạt làm nghèo nó, để phục vụ cho những tiện nghi phức
tạp của mình, là đúng hay sao ?
PHẦN KẾT
Đấng Messia mà dân Do Thái trông chờ, Ngài
không đến để tổ chức một đội quân có binh hùng tướng mạnh, giúp dân đánh đổ cảnh
nô lệ ngoại bang; cũng không phải là vị cứu tinh trần thế, giúp dân thoát cảnh
đói rách lầm than. Ngài đến để cứu con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi. “Loan
báo tin mừng cho người nghèo, trả tự do cho người bị áp bức”(Lc 4, 18) là
đứng về phía người nghèo, người thấp cổ bé miệng, người bị áp bức để họ thoát
nghèo, thoát lao tù, áp bức của tội lỗi, của thần dữ.
Phúc âm không bao giờ cổ vũ cho sự đói
nghèo cũng như miệt thị những ai giàu có vật chất. Giáo hội của Chúa Giê Su cũng
vậy. Giáo hội nỗ lực không ngừng nghỉ để thăng tiến người nghèo, thiết lập công
bằng xã hội. (Xem học thuyết xã hội Công Giáo, kim chỉ nam đời sống xã hội).
Giáo hội hướng dẫn mọi người sử dụng của cải
vật chất như một phương tiện cần thiết và đúng đắn, để
đạt mục đích tối hậu là sự cứu rỗi cho mình và cho đồng loại.
Không
biết từ bao giờ, có thể bởi lòng mộ đạo cảm tính và cực đoan, nhiều người trong
chúng ta
rất dị ứng với sự giàu có, coi nó như cùng
phe với thế gian ma quỷ, đồng thời tôn sự nghèo khó như một đức hạnh đáng ngưỡng
mộ.
Ta thấy rõ, điều đó đi ngược lại với tự
nhiên và giáo huấn phúc âm.
Thăng tiến xã hội, bảo vệ và nâng cao phẩm
giá con người, luôn là mục tiêu hàng đầu của giáo hội Chúa Giê Su.
Nếu nghèo khổ là một đức hạnh thì hà cớ gì
mà phải đấu tranh với bất công, cứu giúp kẻ khốn cùng?
Thánh Phaolô: “Quả
thật, anh em biết Đức Giê Su Ki Tô Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế
nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để
lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2
Cor 8, 9).
Trả lại của cải vật chất giá trị của nó và trân
trọng sự nghèo khó tự nguyện của môn đệ theo gương Chúa Giê Su, như lời thánh
Phaolô trên đây, mới đúng giáo huấn của Phúc Âm.
Chúa Giê Su nói “Ách ta thì êm ái, gánh ta
thì nhẹ nhàng” (Mt 11, 30).
Sống
đạo thì rất khoẻ, rất tự nhiên, không có gì là khó khăn cả…” Ta sẽ nâng đỡ bổ sức
cho các ngươi…và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an” (Mt 11, 29).
Còn gì an ủi hơn vì biết rằng Chúa là Cha chúng ta rất giàu có, cả nghĩa đen
và nghĩa bóng. Ngài rất hào phóng và thương yêu chúng ta và đã hứa cho chúng ta
tham phần vào hạnh phúc của Ngài, “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15, 31) như Ngài nói với người anh cả trong dụ ngôn Đứa
Con Hoang Đàng. Quả đáng cho chúng ta suy nghĩ.
Tác
giả: Tiếng sa mạc