Giê-ru-sa-lem, ngày lễ thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, 3-12-2014
LM Giu-se Nguyễn Công Đoan S.J.
WHĐ (23.11.2020) – “Đang lúc các ông còn đăm đăm
nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo
trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?
Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y
như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11).
Mùa Vọng tức là mùa chờ đợi: Hòn Vọng
Phu là hình tượng người vợ chờ chồng đến hóa thành đá, vì chồng đi chinh chiến
đã không bao giờ trở về: đó là hình tượng bi thảm của chiến tranh, đó cũng là
hình tượng cao đẹp về người phụ nữ Việt Nam.
Mùa Vọng mời chúng ta nhìn lên trời
chờ Chúa đến. Như vậy có phải là làm ngược lại lời của “hai người áo trắng”
nói với các môn đệ và sẽ “hóa đá” như người chinh phụ không?
Trước hết hãy xem “hai người áo
trắng” này là ai, và lời nhắc nhở mang ý nghĩa gì. Trong sách Tin Mừng
Lu-ca, khi các phụ nữ ra viếng mộ, “họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng
khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. Họ còn
đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng
chói, đứng bên họ. Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gằm xuống đất, thì hai người
kia nói: ‘Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa
nhưng đã chỗi dậy rồi’” (Lc 24,2-4).
Trong trình thuật “Chúa Giê-su tỏ
vinh quang trên núi” thì “có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là
ông Mô-sê và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển,
và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc
9,30-31).
Khi Chúa Giê-su tỏ vinh quang
thì Lu-ca nói rõ đó là hai ông Mô-sê và Elia, đại diện cho “Lề
Luật và các Ngôn Sứ”; ở mộ thì Luca không nói là ai, cũng
không nói là thiên thần, mà chỉ nói là hai người đàn ông. Như vậy thì Lu-ca mời
ta liên tưởng tới hai người “rạng ngời vinh hiển”, tức là Mô-sê và
Ê-li-a. Trên đường Emmaus cũng như sau đó khi đứng giữa
các môn đệ, Chúa Giê-su phục sinh sẽ cho họ chìa khóa để hiểu về Chúa và về sứ
mạng của họ, đó là “Lề Luật và các Ngôn Sứ”. Lúc ấy Chúa đã cho họ biết:
Lề Luật, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã loan báo rằng Người là
Đấng Ki-tô thì phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang, còn họ “phải nhân
danh Người mà rao giảng cho muôn dân…”(Lc 24,44-48).
Bằng kỹ thuật liên kết hình ảnh, cuốn
thứ hai của bộ sách gồm hai cuốn: Tin Mừng thứ ba và Công Vụ Tông Đồ, gợi cho
ta liên kết hai “người áo trắng” này với hai người “rạng ngời vinh
hiển” từng đàm đạo với Chúa Giê-su về cuộc xuất hành, rồi hai người “mặc
y phục sáng chói” giải nghĩa cho các phụ nữ khi cuộc xuất hành đã thành
công, bây giờ đến nhắc cho các môn đệ nhớ là “đến phiên họ” ra đi rao giảng
đấy, núi Ô-liu có thừa đá rồi, đừng ở đó mà hóa đá! Nhưng chính lời nhắc nhở
này kết hợp với lời Chúa Phục Sinh đã căn dặn, cho họ hiểu rằng họ phải đi rao
giảng vì có một niềm hy vọng: đó là sẽ được thấy Chúa đi ngược chiều với chuyến
đi hôm nay: “Người sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”.
Chúa Giê-su không phải là người chinh phụ ra đi “biền biệt nước non”,
cũng không phải người hùng “ra đi không về, âm vang lời thề”, nhưng là “Đấng
Ki-tô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại” và Chúa đã
sống lại, đã khải hoàn.
Chúa lên trời là kết thúc việc Chúa
đã đến trong thân phận con người nhỏ bé nghèo hèn. Nhưng Chúa không bỏ đi luôn,
mà đi để có thể đến lần nữa “trên đám mây”, trong vinh quang. Giữa hôm Chúa lên
trời và ngày Chúa lại đến là thời gian của sứ mạng. Phải chờ đợi bằng cách thi
hành sứ mạng, loan báo cho mọi người cùng chờ đợi, chứ không phải ở đó chờ để
“hưởng một mình”.
Như vậy suốt lịch sử Giáo Hội, suốt
đời người tín hữu là Mùa Vọng, mùa chờ đợi. Không phải đứng đó mà chờ như người
chinh phụ, Chúa không phải chinh phụ đã ra đi không hẹn ngày về nhưng là chàng
rể sắp đến (x. Mt 25,1-13), nên phải khẩn trương chuẩn bị và sẵn
sàng luôn vì không biết khi nào Chúa đến. Chúa còn ví mình như người chủ phải
đi xa và sẽ trở về: “Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao
quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và
ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. Vậy anh em phải canh thức, vì anh em
không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng
sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em
đang ngủ” (Mc 13,33-37).
Chúa chỉ vào nhiệm vụ người giữ cửa
như là mẫu mực cho mọi người: tỉnh thức, sẵn sàng. Trong Tin Mừng Lu-ca,
sự đối chiếu giữa người giữ cửa (Lc 12,35-37) với người quản gia (Lc
12,42-48) giúp ta hiểu canh thức nghĩa là gì: “Phúc cho đầy tớ ấy (người
giữ cửa) khi chủ về mà thấy đang tỉnh thức” (Lc 12,37)
– Phúc cho đầy tớ ấy (quản gia) khi chủ về mà thấy
đang làm như vậy” (Lc 12,43) (phân phát lương thực cho
người trong nhà). Mỗi người mỗi việc, chủ chỉ cần thấy mỗi người đang làm việc
chủ đã trao cho mình, cũng như thấy người giữ cửa tỉnh thức, nghe chủ gõ cửa là
mở liền. Chúa không đòi phải “tăng gia sản xuất” vì Chúa rất giàu sang, người
quản gia chỉ việc phân phát, không cần làm thêm. Chúa không phải là cán bộ “hợp
tác xã” thời chiến tranh, được nông dân miền Bắc hí họa: “Một người làm việc
bằng hai, để cho cán bộ mua đài mua xa; một người làm việc bằng ba, để cho cán
bộ xây nhà xây sân”; Chúa cũng không đòi làm quá sức mình như nông hội miền Bắc
với khẩu hiệu “nghiêng đồng tát nước ra sông”, “với sức người sỏi đá cũng thành
cơm”, vì nông hội có tham vọng “thay trời làm mưa”, thậm chí muốn làm ông trời
luôn “Thằng trời hãy xuống làm dân, để cho nông hội đứng lên làm trời”. Chúa là
Chúa, là Đấng nuôi cá biển chim trời, mặc đẹp cho cả hoa dại ngoài đồng (x. Mt
6,25-34). Chúa là “Đấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như
người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45)
Chúa chỉ muốn mỗi người làm theo ý Chúa: “Không phải bất cứ ai thưa với
Thầy: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ có ai thi
hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt
7,21).
Chúa đòi mọi người phải “canh thức”
hay “tỉnh thức” nghĩa là gì?
Nghĩa là NHỚ và hành động theo căn
tính của mình: tôi là ai, tôi từ đâu đến và tôi đi đâu. Người bệnh “alzheimer”
bị mất trí nhớ, không còn biết mình là ai, không biết mình từ đâu đến và không
biết mình đi đâu. Quên một trong ba yếu tố này, hay không hành động theo một
trong ba yếu tố này là đánh mất chính mình.
Để giải thích thuyết luân hồi và trả
lời thắc mắc: “Tại sao tôi không nhớ kiếp trước tôi là ai”, câu trả lời
bình dân là trước khi nhập kiếp trên cõi dương thì trong cõi âm tôi đã bị cho
uống thuốc lú, làm cho tôi quên mình là ai. Vậy ra thuốc lú âm phủ cũng chưa
công hiệu 100%, vì còn có người nhớ được là mình đã bị cho uống thuốc lú!
Thực tế cuộc đời có rất nhiều thứ
thuốc lú ngay trong kiếp tôi đang sống, chẳng cần phải xuống âm phủ mới mua
được và cũng chẳng cần ai bắt uống. Chính tôi đi tìm thuốc lú trong cuộc sống
trên dương gian, càng uống càng nghiền và hiệu quả của nó thì đạt 100% vì không
còn nhớ được là mình đã uống thuốc lú đấy!
Chúa Giê-su đã liệt kê một số thuốc
lú trong dụ ngôn hạt giống: “Hạt giống là Lời Thiên Chúa. Những kẻ bên vệ đường
là những kẻ đã nghe, nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo
họ tin mà được cứu độ. Những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp
nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ
cuộc. Hạt rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo
lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và
không đạt tới mức trưởng thành.”(Lc 8,11-14). Trước khi bị nộp vào
tay người đời, Chúa Giê-su còn căn dặn môn đệ: “Anh em phải đề phòng, chớ để
lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một
chiếc lưới chụp xuống đầu anh em” (Lc 21,34).
Ngoài những thuốc lú trong “thiên
nhiên” mà Chúa Giê-su liệt kê, còn có nhiều thứ thuốc lú được bào chế tinh vi,
và được phân phát trên các phương tiện truyền thông của thời bấm nút
này.
Thuốc lú nào cũng có hiệu lực và cũng
có thể hóa giải nếu ta muốn.
Quên là bước đầu để lạc đường và nhớ
lại là bước đầu để thấy đường về.
Trong dụ ngôn nổi tiếng của Lc
15,11-32, đứa con hoang đàng quên rằng cha nó còn sống nên đòi phần gia tài
để ra đi, làm như thể cha nó đã chết. Đến khi lâm cảnh cùng quẫn, đói rách, “bấy
giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ : ‘Biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư
gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha…’”.
Đang khi đó thì người anh ở nhà cũng uống phải thuốc lú, quên mình là con đang
sống với cha và quên luôn đứa em: “Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài
đồng. Khi anh ta về đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một
người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: ‘Em cậu đã về, và
cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khỏe’. Người anh cả liền
nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: ‘Ông
coi, đã bao nhiêu năm trời tôi hầu hạ ông, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà
chưa bao giờ ông cho lấy được một con dê con, để tôi ăn mừng với bạn bè của
tôi. Còn thằng con của ông đó, sau khi đã nuốt hết của cải của ông với bọn đĩ
điếm, nay trở về thì ông lại giết bê béo ăn mừng’”. [Tôi mạn phép thay đổi
cách xưng hô trong bản dịch lời con cả này]. Người cha âu yếm dỗ dành, tìm lời
giúp anh ta nhớ lại người đang nói với anh là cha của anh ta và “thằng con của
ông ngồi kia” là em của anh ta đấy…
Chuyện bỏ lửng vì không biết lời lẽ
của người cha có giải được thuốc lú của sự tự mãn, ghen tương kia hay không.
Đứa con hoang đàng nhớ đến “ông chủ
tốt bụng” dưới mái nhà xưa đã quay về, và vòng tay âu yếm của ông đủ làm cho
anh ta hồi phục trí nhớ, nhận ra người đang ôm mình trong lòng là cha của mình.
Trong câu chuyện ông Phê-rô chối Thầy
rồi khóc lóc thảm thiết (theo Lc 22,54-62) ta cũng nhận thấy hai
yếu tố quên và nhớ này. Chuyện bắt đầu từ chỗ buồn thành
ra buồn ngủ, quên cả lời Chúa vừa bảo “hãy tỉnh thức mà cầu nguyện”.
Khi Chúa đánh thức dậy để chứng kiến người ta tới bắt Chúa thì lại quên mình là
môn đệ nên tuốt gươm chém. Mon men đi theo, và muốn vào tận trong sân nhà
Thượng Tế để xem số phận Thầy ra sao, nhưng mới chạm ánh mắt dao cau của cô nữ
tỳ thì đã quên lời thề hứa “sẵn sàng vào tù hoặc chết với Thầy” và chối
gọn như miếng cau trên cơi trầu: “Tôi không biết ông ấy”. Rồi
trước cặp mắt tò mò của một gã vô danh tiểu tốt, ông chối luôn cả nhóm bạn thân
tín nhất. Cuối cùng với lời khích bác của một kẻ vô danh khác thì ông quên cả
mình là người Ga-li-lê. Sợ hãi là thứ thuốc lú cực mạnh đấy. Nhưng với ánh mắt
nhân từ khoan dung tha thứ, Chúa quay lại nhìn ông. Ánh mắt của Chúa xuyên được
cả bóng đêm để bắt gặp được ông, có sức hóa giải ánh mắt dao cau của cô tớ gái,
ánh mắt tò mò của hai tên tiểu tốt vô danh. Ánh mắt của Chúa giải lú cho ông: “Ông
sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: ‘Hôm nay, gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba
lần’. Và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết”.
Thuốc lú nào tinh vi và hiệu quả nhất
ngày nay?
Năm 1981, Nhà Nước đem tôi về Sở Công
An để nuôi vì sợ để tôi ở ngoài thì tôi “tuyên truyền phản cách mạng”. Một hôm
ông Trưởng Phòng Chấp Pháp, tên là NVD, chìa ra trước mặt tôi văn bản của Tổng
Hội Dòng Tên 32 (1965) về “sứ mạng của Dòng Tên hôm nay”, trong đó nói
rằng sứ mạng của Dòng Tên hôm nay là chống lại chủ nghĩa vô thần. Ông đắc thắng
chỉ vào mặt tôi rồi vỗ ngực: “Các anh chống chủ nghĩa vô thần tức là chống
chúng tôi chứ gì nữa!?” Tôi lễ phép trả lời: “Thưa ông, có phải chỉ có
cộng sản các ông là vô thần thôi sao? Có nhiều thứ vô thần trên thế giới lắm.
Các ông tự nhận là vô thần nhưng các ông lại thúc đẩy chúng tôi đào sâu đức
tin. Chủ nghĩa vô thần thực dụng của tư bản mới thật sự đáng sợ đối với người
tin Chúa và cả đối với chế độ cộng sản nữa đấy: nó không thèm nhắc đến Thiên
Chúa và nó cho người ta mọi thứ để không nghĩ, không nhớ tới Thiên Chúa nữa cơ;
và như vậy nó cũng có khả năng làm cho người ta quên mọi chủ nghĩa, mọi lý
tưởng. Nó đẻ ra chủ nghĩa tiêu thụ và hưởng thụ: hưởng thụ bằng cách tiêu thụ;
muốn tiêu thụ thì phải có tiền bằng bất cứ giá nào. Đó mới là thứ chủ nghĩa vô
thần mà chúng tôi phải chống kịch liệt.”
Nếu ông NVD còn trên cõi đời này thì
chắc ông có thể kiểm tra tận tai tận mắt câu trả lời của tôi trong thực tế,
khỏi cần sai trinh sát đi dò la đâu xa, vì thuốc lú này rất phổ biến ở Việt Nam
rồi, và tôi có thể khoe với ông là tôi đã kể cho bạn bè năm châu bốn bể nghe
cuộc đối thoại này, khi giảng trước công chúng, khi trả lời phỏng vấn cũng như
khi nói chuyện riêng tư, ai cũng gật gù đắc ý. Tôi đọc cho ông nghe bài vè này
(tôi học được ở trại giam của Sở Công An đấy) để cho thấy thuốc lú này có hình
dáng gọn và màu sắc đẹp lắm và nhất là hiệu quả tuyệt vời:
Vè Đồng tiền
Ôi Đồng tiền
Là tiên là phật
Là sức bật của con người
Là tiếng cười của tuổi trẻ
Là sức khỏe của người già
Là cái đà của danh vọng
Là cái lọng để che thân,
Lá cán cân của công lý.
Ôi đồng tiền ! Hết ý !
Hồi ông NVD đối thoại với tôi, ông
cũng thích nói tới những chuyện bê bối trong Hội Thánh, tôi đã nói với ông rằng
điều đó có gì lạ đâu, vì chúng tôi cũng là người đang sống trên dương gian
mà ! Chúa Giê-su tuyển chọn mười hai người làm nòng cốt, nền tảng để xây
dựng Hội Thánh, thế mà một ông bán chúa, mười ông bỏ Chúa, ông đứng đầu thì
chối Chúa nhanh hơn gà gáy, còn Chúa thì đi xuống âm ty. Ấy thế mà Hội Thánh đã
có hai ngàn năm lịch sử, dù qua bao thăng trầm, vì chúng tôi có hơn gì mười hai
người kia đâu: vẫn có người bán Chúa, có người bỏ Chúa, có người chối Chúa dài
dài. Ngày nay tôi có thể nói với ông là Thuốc Lú này có sức thâm nhập kinh
khủng, nó lọt vào nhà, cả nhà thờ, như bụi lọt khe cửa. Ông có biết là Đức Giáo
Hoàng Phan-xi-cô vừa lên làm Giáo Hoàng đã phải lo ngay việc cải tổ Tòa Thánh
Vatican và cách riêng hệ thống «tài chánh» trong Tòa Thánh Vatican để ngăn chặn
nó, và ngài vẫn đang nỗ lực loại trừ «hội chứng thế gian» trong Vatican đấy.
Ông có biết tại sao không ? Tại vì Chúa Giê-su đang sống, mộ của Người bỏ
trống và Người vẫn ở với chúng tôi mỗi ngày đấy. Nếu ông còn trên dương gian
thì ông cũng không cần «lo cháy nhà hàng xóm».
Chủ nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa hưởng
thụ là thứ thuốc lú tinh vi nhất, gây nghiện mau nhất và hiệu quả nhất. Nó làm
cho người ta quên mình là ai, từ đâu đến và đi đâu. Chúa Giê-su cũng đã gọi tên
cúng cơm của nó là «chè chén say sưa, lo lắng sự đời». Các ông gọi là
«hủ hóa» đấy.
Đừng hóa đá như người chinh phụ, cũng
đừng uống thuốc lú để không còn biết mình là ai và đang chờ ai. Có bao nhiêu
chuyện những con chó trung thành có thể làm thí dụ: có con khi chủ đi vắng thì
nó không ăn [tôi đã có một con như thế] ; có con theo chủ vô bệnh viện,
chủ chết rồi nó không chịu rời bệnh viện ; có con bị bỏ lại ở phi trường,
nó ở đó chờ chủ mỗi ngày, không chịu đi đâu… mà cũng chẳng ai có thuốc lú để
làm cho nó quên được chủ của nó !
Muốn chờ đợi thì «hãy
canh thức ». Chúa dặn kỹ là «mọi người» (Mc 13,37)
chứ không cho «cử đại diện» đâu. Cứ tin tưởng, vì thánh Phao-lô khẳng định là
chúng ta được trang bị đầy đủ để chờ đợi:
“Trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em đã trở nên phong phú về
mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của
Người. Thật thế, lời chứng về Đức Ki-tô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh
em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su
Ki-tô Chúa chúng ta mặc khải vinh quang của Người. Chính Người sẽ làm cho anh
em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong
ngày của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. Thiên Chúa là Đấng trung hành,
Người đã kêu gọi đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng ta”.