Lối hành văn 
CHÂM BIẾM và HÀI HƯỚC 
trong Kinh Thánh

 

Nội dung:

 

I. Dẫn nhập

II. Châm biếm (ironie)

1) Ví dụ châm biếm lời nói

2) Châm biếm tình huống  (Mc 14,66-72)

III. Hài hước (humour)

1) Phê-rô chối Thầy (Mc 14,66-72)

2) Trừ quỷ ở Ghê-ra-sa (Mc 5,1-20)

3) Ngôn sứ Giô-na (Ga 2–3)

IV. Kết luận

 

I. Dẫn nhập

Một số trình thuật trong Kinh Thánh dùng lối hành văn châm biếm (ironie) và hài hước (humour) để chuyển tải mặc khải thần học. Đọc ra được những chi tiết hài hước và châm biếm giúp độc giả hiểu được ẩn ý mà người thuật chuyện muốn nói với độc giả, đồng thời qua đó, độc giả thưởng thức được những nét hay, nét đẹp, nét độc đáo của bản văn.

 

Cần phân biệt giữa châm biếm và hài hước. “Châm biếm là một câu nói sai để làm hiểu đúng, và không tìm kiếm tác dụng gây cười” (D. MARGUERAT; Y. BOURQUIN, Pour lire les récits bibliques, Initiation à l’analyse narrative, Paris – Genève, Le Cerf – Labor et Fides, 2004 [3e édition], p. 143). Ngược lại, hài hước nhắm đến yếu tố gây cười. Tuy nhiên, trong thực tế, hai yếu tố châm biếm và hài hước có thể đan xen vào nhau.

 

Phần sau sẽ trình bày một số ví dụ trong Kinh Thánh liên quan đến hai yếu tố châm biếm và hài hước:

1) Ê-li-a nói với các ngôn sứ giả trên đỉnh núi Các-men (1V 18,27).

2) Chuyện anh mù được thấy (Ga 9,27).

3) Đối thoại giữa Đức Giê-su và những người Pha-ri-sêu (Mc 7,6-9).

 

Đặc biệt sẽ phân tích chi tiết những yếu tố châm biếm và hài hước mang tính thần học trong các trình thuật:

1) Trình thuật Phê-rô chối Thầy (Mc 14,66-72).

2) Trình thuật Đức Giê-su trừ quỷ ở Ghê-ra-sa (Mc 5,1-20).

3) Câu chuyện ngôn sứ Giô-na (Gn 3–4).

 

II. Châm biếm (ironie)

Trong Kinh Thánh có hai loại châm biếm: “Châm biếm lời nói” (ironie verbale) và “châm biếm tình huống(ironie situationelle).

1. Một số ví dụ châm biếm lời nói

a) “Châm biếm lời nói” điển hình là lời Ê-li-a nói với các ngôn sứ giả trên đỉnh núi Các-men: “Đến trưa, ông Ê-li-a chế nhạo họ rằng: ‘Kêu lớn tiếng lên, vì người là một vị thần mà. Người đang mải suy nghĩ, hay là đi vắng hoặc trẩy đường xa; có khi người đang ngủ, thì sẽ thức dậy thôi’” (1V 18,27). (Đọc toàn bộ câu chuyện Hy lễ trên núi Các-men 1V 18,20-40).

 

b) Lời châm biếm mạnh mẽ khác tìm thấy ở Ga 9,27. Anh mù được thấy nói với những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu đang tra hỏi anh ta: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không nghe. Tại sao các ông muốn nghe một lần nữa? Chẳng lẽ các ông cũng muốn trở thành những môn đệ của ông ấy?” (Ga 9,27). (Đọc trình thuật dấu lạ người mù được thấy và tranh luận Ga 9).

 

c) Ở Mc 7,6.9 xuất hiện trạng từ “kalôs” (tiếng Hy Lạp) có nghĩa là “đúng”, “một cách đúng đắn”, Trong đó, ở Mc 7,9, trạng từ kalôs có nghĩa châm biếm (đọc chi tiết câu chuyện Mc 7,1-13). Ở Mc 7,6: Đức Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu: “I-sai-a đã nói tiên tri rất đúng (kalôs) về các ông, những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: ‘Dân này tôn kính Ta ngoài môi, còn lòng chúng thì xa rời Ta’.” Đến Mc 7,9, Đức Giê-su nói với họ: “Đúng là (kalôs) các ông coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông.” 

Từ “kalôs” ở 7,6 không có ý châm biếm, nhưng ở 7,9, Đức Giê-su châm biếm những người Pha-ri-sêu và các kinh sư: “họ làm đúng” (kalôs) nhưng thực sự là “làm sai”.

 

2. Châm biếm tình huống trong trình thuật Phê-rô chối Thầy.

Mc 14,66-72 (đọc chi tiết trình thuật Phê-rô chối Thầy), trình thuật Phê-rô chối Thầy là một điển hình về kiểu hành văn “châm biếm tình huống(ironie situationelle). Những nét châm biếm trong câu chuyện được trình bày như sau:

 

1) Chính lúc Đức Giê-su xuất hiện trước quyền hành cao nhất là Thượng Hội Đồng và đang bị thượng tế tra hỏi (Mc 14,55-64), thì Phê-rô cũng xuất hiện trước quyền hành thấp nhất là một đứa trong bọn tớ gái và những người đang đứng sưởi trong sân dinh (Mc 14,66-72). Cũng như Đức Giê-su, Phê-rô cũng đang bị họ tra hỏi.

 

2) Hành động Phê-rô chối thầy như thể là Phê-rô đã không được báo trước. Cứ bình thường được báo trước thì sẽ tránh được. Như thế, người đọc nhận ra những thiếu sót của nhân vật Phê-rô trong bản văn:

- Đã xem thường lời cảnh báo của Đức Giê-su (14,30).

- Không sống lời Thầy dặn các môn đệ: “Nếu ai muốn đi theo sau Tôi, hãy chối bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình và hãy đi theo Tôi” (8,34).

- Hình như Phê-rô đã quên điều chính mình đã quả quyết trước đó: “Dù con phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy (ou mê aparnêsomai)” (14,31).

 

Động từ “aparnêsomai” (chối bỏ, không thừa nhận, từ chối) xuất hiện 4 lần trong Tin Mừng Mác-cô (8,34; 14,30.31.72). Lần thứ 1, Đức Giê-su nói về: “Chối bỏ chính mình để theo Đức Giê-su” (8,34); lần thứ 2, Người báo trước Phê-rô sẽ chối Thầy 3 lần (14,30); lần thứ 3, Phê-rô quả quyết không chối bỏ Đức Giê-su (14,31); lần thứ 4, Phê-rô nhớ lại lời Đức Giê-su nói sau khi đã chối Thầy 3 lần (14,72). Như thế, lẽ ra Phê-rô nên “chối bỏ chính mình”, vác thập giá mình mà theo Thầy thì lại “chối bỏ Thầy” để không vác thập giá của mình.

 

(3) Châm biếm đạt tới cao điểm ở 14,71, câu chuyện kể: “Nhưng ông ấy bắt đầu thốt lên những lời độc địa và thề rằng: ‘Tôi không biết người mà các ông nói’.” Sự giả dối kèm theo “những lời độc địa và thề” của Tông Đồ trưởng Phê-rô, người thuộc nhóm ba môn đệ được Đức Giê-su tách riêng ra (Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê) để chứng kiến những biến cố đặc biệt, cho thấy Phê-rô đang ở điểm thấp nhất trong hành trình làm môn đệ Đức Giê-su.

 

Những nét tương phản cho thấy hành động và lời nói chối bỏ Thầy của Phê-rô là rõ ràng và quả quyết, lối hành văn châm biếm làm cho hành động của Phê-rô càng được tô đậm. Khi tác giả kể về nhân vật Phê-rô như thế là nhằm gửi đến độc giả một sứ điệp. Cụ thể, trong cộng đoàn Mác-cô có thể một số thành viên, trong hoàn cảnh bị bách hại, đã chối bỏ Thầy. Như thế, những châm biếm nơi nhân vật Phê-rô là để độc giả nhận ra mình đang ở đâu trong hành trình làm môn đệ Đức Giê-su.

 

III. Hài hước (humour)

1. Hài hước trong trình thuật Phê-rô chối Thầy.

Cũng trong trình thuật Phê-rô chối Thầy (Mc 14,66-72), câu chuyện làm lộ ra những ý tưởng hài hước mang tính thần học. Trong câu chuyện, Phê-rô đã chối Thầy ba lần, tuy nhiên, ở góc nhìn khác, độc giả nhận ra rằng “lời nói dối” của Phê-rô cũng là “lời nói thật”. Đó là sự thật sâu xa: Đúng như Phê-rô đã nói, thực sự Phê-rô chưa biết Đức Giê-su là ai.

 

Thực vậy, ở cấp độ thứ nhất Phê-rô đã nói dối khi khẳng định rằng: “Tôi không biết Đức Giê-su là ai”. Vì Phê-rô là môn đệ của Đức Giê-su, là Tông Đồ trưởng nên biết rõ Đức Giê-su. Nhưng “lời nói dối” ở cấp độ thứ nhất này lại trở thành “lời nói thật” ở cấp độ thứ hai. Quả thế, ở cấp độ ý nghĩa thần học của động từ “biết”, Phê-rô không nói dối mà là nói đúng sự thật. Bởi vì khi chối bỏ Thầy, Phê-rô thực sự chưa biết Thầy, Phê-rô thực sự chưa biết Đức Giê-su là ai (xem D. Marguerat; Y. BOURQUIN, Pour lire les récits bibliques, p. 145).

 

Ý tưởng “nói dối” mà là “nói thật”. Phê-rô chối là “không biết” Đức Giê-su, nghĩa là “biết” Người, mà thực sự lại là “không biết” Người. Những tương phản này là yếu tố hài hước gây cười có ý nghĩa thần học sâu xa cho độc giả. Lối hành văn trên cho phép độc giả rút ra hai bài học quý giá: 


1) Khi người tin chối bỏ Đức Giê-su vì bất cứ lý do nào, thì người đó chưa thực sự biết Đức Giê-su.

2) Nếu thực sự biết Đức Giê-su là ai thì sẽ không thể chối bỏ Người. Chính Phê-rô đã chứng minh điều đó, Phê-rô đã chịu chết tử đạo để theo Thầy và để tôn vinh Thiên Chúa (Ga 21,19).

 

Yếu tố hài hước được xây dựng trong trình thuật qua những tương phản bất ngờ, chơi chữ… với điểm nhắm là chính độc giả. Thực ra, người thuật chuyện đang mời gọi độc giả đọc ra được nét hài hước nơi nhân vật trong câu chuyện để nhìn lại lựa chọn và cách xử sự của mình. 

 

2. Hài hước trong trình thuật trừ quỷ ở Ghê-ra-sa (đọc bản văn Mc 5,1-20).

Hài hước (humour) trong trình thuật quỷ và đàn heo ở Ghê-ra-sa trong Mc 5,1-20 có khả năng chuyển tải những khẳng định thần học liên quan đến căn tính của Đức Giê-su. Đây là trình thuật dân gian có nhiều nét ấn tượng, qua đó bày tỏ uy quyền của Đức Giê-su với những chi tiết hài hước như sau:

 

1) Trước hết, cuộc đối đầu giữa “một mình Đức Giê-su” với “một đạo binh” quỷ (5,9) đã trở thành một cuộc thương lượng, trả giá và mặc cả. Thực vậy, lời Đức Giê-su nói với người bị quỷ ám: “Thần ô uế kia, hãy xuất khỏi người này” (5,8), làm nẩy sinh một vấn đề khác: Quỷ xuất ra rồi thì đi đâu? Quỷ đi bước trước bằng cách “khẩn khoản nài xin Người để Người không đuổi chúng ra khỏi vùng ấy” (5,10).

 

2) Thứ đến, người thuật chuyện cho biết ở đó có đàn heo rất đông đang ăn. Chi tiết này cho thấy đây là vùng đất dân ngoại, vì đối với người Do Thái heo là động vật ô uế. “Đàn heo ô uế” song song với “đạo binh thần ô uế” là yếu tố hài hước, gây cười.

 

3) Sau cùng, về hình thức, Đức Giê-su không đuổi đạo binh quỷ ra khỏi vùng, vì khi chúng xin nhập vào đàn heo để được ở lại trên vùng đất ấy, “Đức Giê-su cho phép chúng làm điều chúng xin” (5,13). Lần đầu tiên quỷ xin Đức Giê-su và Người ban cho chúng điều chúng xin!

 

Nhưng sau đó, một cảnh tượng đảo ngược hoàn toàn đã xảy ra: “Các thần ô uế  xuất ra, và nhập vào bầy heo. Cả bầy lao từ trên sườn núi xuống Biển Hồ, khoảng chừng hai ngàn con, và chết ngộp dưới Biển Hồ” (5,13). Quỷ xin được “ở lại” nhưng đã phải “ra đi”… ra đi về bên kia thế giới, ra đi về với Biển, biểu tượng cho nơi ở của thế lực tối tăm.

 

Như thế, những chi tiết tương phản hài hước: “Một mình Đức Giê-su” đương đầu với “một đạo binh quỷ”; “đạo binh thần ô uế” song song với “đàn heo đông đảo ô uế”; quỷ “năn nỉ” xin Đức Giê-su và Người “chấp nhận” lời xin của quỷ. Nhưng kết quả cuối cùng lại không như mong muốn của quỷ: Sau khi quỷ nhập vào đàn heo thì cả đàn heo nhào xuống biển chết. Nghĩa là quỷ mất chỗ cư trú trên trần gian.

 

Tóm lại, trong trình thuật đạo binh quỷ và đàn heo Mc 5,1-20, Đức Giê-su đã không làm gì nhiều mà lại thắng lớn về ba điểm:

1) Quỷ xuất khỏi con người.

2) Đạo binh quỷ mất chỗ ở vì đàn heo đã chết.

3) Đàn heo ô uế theo nhãn quan Do Thái giáo cũng không còn.

Quỷ đã thành công khi Đức Giê-su nhận lời xin của chúng, nhưng thực ra chúng đã hoàn toàn thất bại, chúng mất cả, mất cả chì lẫn chài!

 

3. Hài hước trong câu chuyện ngôn sứ Giô-na

Trình thuật nổi tiếng hài hước tìm thấy trong sách Giô-na chương 3–4 (đọc bản văn ngôn sứ Giô-na Gn 3–4).

Câu chuyện kể: “3Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. 4Ông Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ.5Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ” (Gn 3,3-5).

 

Phần tiếp theo của câu chuyện có nhiều chi tiết hài hước:

1) Giô-na là ngôn sứ duy nhất trong Cựu Ước tức giận vì đã thành công khi rao giảng.

2) Thường các ngôn sứ của Thiên Chúa bị các vua Ít-ra-en ngược đãi, trong khi đó, vua thành Ni-ni-vê đã hối cải ngay từ những lời giảng đầu tiên.

3) Hài hước vì vua thành Ni-ni-vê ra chỉ thị cho cả súc vật, bò bê và chiên dê cũng ăn chay. Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa (Gn 3,7-8). Tại sao thú vật cũng phải ăn chay và khoác áo vải thô như người?

 

Qua những yếu tố hài hước, bản văn trình bày những mặc khải thần học độc đáo và mạnh mẽ:

1) Quan niệm thần học truyền thống bị đảo ngược. Thực vậy, theo quan niệm của Ít-ra-en, dân ngoại không phải là dân của Thiên Chúa. Bình thường, Thiên Chúa bảo vệ dân Ít-ra-en trước sự thù địch của dân ngoại, thì ở đây Thiên Chúa rủ lòng thương không phạt dân thành Ni-ni-vê, một thành phố dân ngoại.

2) Xem ra dân ngoại mau mắn tin vào Thiên Chúa hơn và biết nghe lời ngôn sứ hơn dân Ít-ra-en, dân của Thiên Chúa.

3) Qua các chi tiết lạ thường, quy luật thiên nhiên cũng bị đảo lộn, không theo quy luật tự nhiên nữa: Gió bão, Giô-na bị cá nuốt rồi được nhả ra trên bờ.

Có thể nói cách hài hước rằng: Không có gì bình thường trong sách Giô-na kể cả Thiên Chúa.

 

IV. Kết luận

Lối hành văn châm biếm và hài hước là một nét độc đáo và đặc sắc của một số trình thuật trong Kinh Thánh. Khi độc giả khám phá ra được những nét châm biếm và hài hước trong bản văn, độc giả đã hiểu được phần nào điều tác giả muốn nói với độc giả qua cách thức kể chuyện.

 

Phần lớn những nét châm biếm và hài hước trong Kinh Thánh đều mang tính thần học. Nghĩa là qua những chi tiết châm biếm và hài hước tác giả muốn nói với độc giả về một khía cạnh nào đó liên quan đến Thiên Chúa, liên quan đến niềm tin, cách sống và lựa chọn của con người khi đối diện với mặc khải của Thiên Chúa./.

 

 

Ngày 03 tháng 03 năm 2011.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P. 

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ - email: josleminhthong@gmail.com

 


Trang Mục Lục Kinh Thánh