LỊCH
SỬ CỨU ĐỘ
DẪN
VÀO THẦN HỌC THÁNH KINH
(NGUYÊN
TÁC “SALVATION HISTORY”
TÁC
GIẢ : NEAL M. FLANAGAN, osm)
PHẦN
I
CỰU
ƯỚC : CHUẨN BỊ ƠN CỨU ĐỘ.
CHƯƠNG
I
(Đọc Kn 1 – 11)
Khi một luật sĩ hỏi Đức Giêsu ông ta phải làm gì để được
sống đời đời, Ngài đáp : “Trong lề luật đã viết gì, ông đọc làm sao ?” Và người
ấy đáp : “Ngươi phải yêu mến Chúa, THIÊN CHÚA ngươi, hết lòng ngươi, hết sức
lực ngươi và hết trí khôn ngươi và đồng loại ngươi như chính mình”. Ngài nói
với người ấy : “Ông đã trả lời cách chí lý, hãy làm như thế và ông sẽ được
sống”. Người ấy muốn biện minh cho mình thì nói cùng Đức Giêsu : “Nhưng ai là
đồng loại của tôi ?” Để đáp lại câu hỏi quan trọng này, Đức Giêsu kể câu chuyện
bắt đầu bằng những lời ngày nay đã trở nên quen thuộc : “Người kia đi từ
Yêrusalem xuống Yêricô và đã sa vào ổ cướp, chúng lột hết áo xống và đánh nhừ
tử người ấy, đoạn chúng bỏ mặc người ấy nửa sống nửa chết mà đi mất”. (Lc 10,
25 – 30). Đây như chúng ta biết, là dụ ngôn người Samari từ thiện. Để đáp lại
câu hỏi của người luật sĩ, Đức Giêsu đã dùng một câu chuyện, câu chuyện ấy dạy
chúng ta một cách linh động rằng : hết thảy mọi người, ngay cả những kẻ vốn là
thù địch của chúng ta, đều phải được coi như là đồng loại của chúng ta, và
chúng ta phải thi thố tình yêu và lòng nhân từ đặc biệt cho kẻ nào cần sự giúp
đỡ của chúng ta nhất.
Trong một dịp khác (Lc 15, 11tt) Đức Giêsu kể câu chuyện
người đàn ông với hai người con : Người con thứ của ông ấy đòi chia phần gia
tài cho mình rồi đem đi phung phí bằng rượu chè, đào đĩ và đàn hát, chẳng bao
lâu tiền bạc tiêu phí hết sạch. Cuối cùng anh chàng phải đi chăn lợn thuê, và
cho lợn ăn những thực phẩm còn ngon hơn miếng ăn của anh ta. Sau hết, anh ta
quay về nhà và mong người cha rộng tình tha thứ. Đây dĩ nhiên là dụ ngôn “Người
con trai hoang đàng”, nó dạy chúng ta một chân lý quan trọng nhất đã từng được
mạc khải cho nhân loại : Thiên Chúa yêu thương loài người, Ngài luôn mở rộng
cánh tay để đón họ trở về với lòng thống hối ăn năn sau khi đã trầm luân trong
tội lỗi.
Vấn đề chúng tôi muốn đặt ra đây là như thế này : Những dụ
ngôn “Người Samari từ thiện” và “Người con trai hoang đàng” có phải là những
câu chuyện có thật không ? Điều này sẽ giúp đưa đến vấn đề sự thật trong văn
chương, một vấn đề không phải đơn giản như người ta tưởng.
Cái ý niệm về sự thật có một ý nghĩa khác đi phần nào tùy
theo loại văn chương mà nó được áp dụng. Quyển sách lịch sử hiện đại chẳng hạn,
là thật nếu những sự kiện của nó là chính xác, nếu địa lý và niên biểu của nó
là rõ ràng, và nếu nó quãng diễn ý nghĩa và các mối liên hệ giữa các biến cố
một cách đúng đắn. Nhưng về phần thi ca thì sao ? Không gặp được sự thật nào
trong đó sao ? Và còn về dụ ngôn nữa ? Nó cũng phải có sự thật của nó chứ ? Sự
thật của nó ra sao chắc bạn có thể đoán được. Một dụ ngôn là thật nếu điều nó
dạy là thật. Và chắc chắn rằng những điều mà dụ ngôn “Người Samari từ thiện” và
“Người con trai hoang đàng” dạy chúng ta đều là thật. Mọi người là đồng loại
của ta, và Thiên Chúa yêu thương chúng ta..
Dụ ngôn không phải là lịch sử. Chúng là những câu chuyện
đơn sơ nhằm mục đích dựa một sự thật nào đó. Chúng thường quan trọng hơn nhiều
so với bất cứ một quyển lịch sử thế tục nào khác. Đây là điểm cốt yếu : Đức
Giêsu đạy nhiều chân lý quan trọng xuyên qua những câu chuyện đơn giản lý thú
và dễ nhớ. Như chúng ta sẽ thấy ngay lập tức, những tác giả của Cựu Ước cũng
thường làm y như vậy.
SÁNG THẾ (Đọc Kn 1, 1 – 2, 3).
Chương đầu của sách Khởi Nguyên đối với tấc cả chúng ta
thật là quen thuộc. Chúng ta đọc thấy một cách nhanh chóng rằng Thiên Chúa sáng
tạo nên thế giới, rồi trong sáu ngày Ngài làm cho nó được ổn định trật tự, đến
ngày thứ bảy, ngày Sabbat, Ngài nghỉ. Khi theo dõi sự diễn tả các công việc
khác nhau, chúng ta đọc thấy rằng trước hết Thiên Chúa tách ánh sáng khỏi sự
tối tăm, kế đó Ngài tách nước phía trên ra khỏi nước phía dưới bằng một bầu
trời, bầu trời này giống như một mái tròn cứng, nó đầy những nước nguyên thủy
riêng ra, như thế, một phần nước ở bên trên bầu trời (điều này giải thích tại
sao có mưa), và một phần nước ở bên dưới bầu trời, khoảng giữa là không
khí. Sang ngày thứ ba, Thiên Chúa lại
tách nữa, lần này thì tách địa cầu với nước phía dưới. Kết quả là : nước phía
trên vòm trời, rồi đến không khí ngay liền dưới nó, và cuối cùng là nước phía
dưới với quả đất từ nước nhô lên.
Sáng ngày thứ tư Thiên Chúa tạo dựng mặt trời, mặt trăng
và các ngôi sao. Điều này đáng ngạc nhiên bởi vì chúng ta đã được nói về ánh
sáng ở ngày thứ nhất, và chắc chắn rằng mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao đều
có liên quan đến ánh sáng. Vậy ngày thứ tư chắc là có liên quan nào đó với ngày
thứ nhất.
Sáng ngày thứ năm, xuất hiện chim trên trời và cá dưới
biển. Điều này cũng đáng chú ý vì nó đưa độc giả lui trở lại với ngày thứ hai.
Lúc ấy bầu trời phân chia vũ trụ thành hai vùng : không khí và nước. Giờ đây
chính những vùng ấy lại được trang trí bằng những cư dân của chúng, trên trời thì
có chim dưới nước thì có cá. Do đó ngày thứ năm liên quan đến ngày thứ hai.
Nếu quả thật rằng công việc của ngày thứ nhất liên quan
với công việc ngày thứ tư và công việc ngày thứ hai liên quan với công việc
ngày thứ năm, thì cái gì xảy ra trong ngày thứ ba chắc cũng sẽ ảnh hưởng công
việc ngày thứ sáu. Và đúng như vậy, trong ngày thứ ba, quả đất được tách ra
khỏi nước phía dưới. Ngày thứ sáu, Thiên Chúa tạo dựng thú vật và (cuối cùng)
tạo dựng con người để sống trên quả đất. Bởi đó công việc ngày thứ sáu liên
quan với công việc ngày thứ ba.
Sự tường thuật việc sáng thế một cách đơn giản như vậy cho
thấy rõ ràng rằng tác giả đã xử dụng một lối diễn tả rất là nghệ thuật. Ba ngày
đầu tiên nói về sự phân tách, ba ngày cuối cùng nói về sự cư trú. Cái gì Thiên
Chúa đã phân tách trong ngày thứ nhất thì Ngài trang trí trong ngày thứ tư ;
cái gì Ngài phân tách trong ngày thứ hai thì Ngài trang trí trong ngày thứ năm
; cái gì Ngài phân tích trong ngày thứ ba thì Ngài trang trí trong ngày thứ
sáu. Lối biền ngẫu một cách nghệ thuật như thế làm cho chúng ta tưởng rằng đó
là một lối nói bóng bẩy bằng văn vần chứ không phải là một câu chuyện lịch sử
bằng văn xuôi.
Những yếu tố có tính chất văn vần khác nữa cũng khá rõ
ràng. Những câu nói tương tự chạy xuyên qua suốt cả chương chẳng khác nào những
điệp khúc trong một bài hát, ví dụ : “Thiên Chúa phán hãy có ánh sáng”, và kết
quả ngay lập tức “và ánh sáng đã có”. Sau đó Thiên Chúa thấy rằng kết quả thật
là tốt đẹp, rồi Ngài đặt tên cho nó. Buổi chiều và buổi mai tiếp theo, một ngày
khác. Chính sự lập lại thường xuyên những câu tương tự làm cho chúng ta có vững
lý do hơn để nghĩ rằng đó là một văn bản có tính nghệ thuật thi ca hơn là một
bài viết có tính cách khoa học.
Điều này đưa chúng ta đến kết luận rằng cái mà chúng ta có
ở đây là một câu chuyện rất có nghệ thuật, lý thú và dễ nhớ. Sự cân đối của
những công việc, sự lập đi lập lại những câu nói, làm cho nó trở thành thứ câu
chuyện mà chỉ cần nghe một lần, cũng có thể nhớ cách dễ dàng và truyền lại cho
bất cứ thính giả nào chú ý nghe. Sự sắp xếp sáu ngày rồi thêm ngày Sabbat,
chính là sự sắp xếp một tuần làm việc của người Dothái. Bởi vì tác giả nhất
định cố ý bảo các đồng bào Dothái của ông rằng họ phải nghỉ trong ngày thứ bảy,
cũng như chính Thiên Chúa đã được hình dung là có nghỉ trong ngày đó vậy.
Một yếu tố khác trong câu chuyện này là chính tác giả
không phải là một nhà khoa học thực nghiệm, đứng ra ghi chép những sự kiện lịch
sử. Điều mà tác giả quan tâm không phải là khoa học, nhưng chính là mô tả cách
cấu tạo hữu hình của vũ trụ, chính là mô tả bản thể và quyền lực của Thiên Chúa
và sự cao quý của con người, một kiệt tác trên địa cầu. Khi nói về thế giới,
tác giả cũng làm như thế với một ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ khoa học, song
là thứ ngôn ngữ của những biểu hiện. Trời, bầu trời, theo cách tác giả mô tả
giống như một mái tròn. Nói về thế giới, tác giả chỉ dùng cái kiểu nói mà những
người đồng thời và đồng quê hương với ông quen dùng để mô tả nó. Nếu những lối
cắt nghĩa có tính cách khoa học của thế kỷ thứ XX, về sự cấu tạo của thế giới
được trình bày cho tác giả, chắc là tác giả đã nhún vai. Đó không phải là kiểu
ông quan tâm. Ông muốn nói về Thiên Chúa ; và ngôn ngữ cũng như những ý niệm
của thời đại ông cũng đã quá đủ để giúp ông rồi. Hơn nữa, nếu ông được Thiên
Chúa ban cho một kiến thức khoa học chính xác và đã viết ra như thế, thì thử
hỏi những người đồng thời và những người đồng quê hương với ông làm sao mà có
thể hiểu ông được ? Sơ đồ sau đây cho thấy lối sáng thế luận của người Dothái
mà tác giả đã dùng và sự cân đối các công việc mà ông đã theo.
(1) thần học, tác
giả không nhằm.
NƯỚC PHÍA TRÊN BẦU TRỜI BẦU TRỜI
TÁCH RA TRANG
TRÍ NƯỚC PHÍA DƯỚI
Ngày Thứ Nhất Thiên Chúa tách ánh sáng Ngày Thứ Tư Thiên Chúa dựng nên mặt trời khỏi sự tối
tăm mặt trăng và
các ngôi sao. Ngày Thứ hai Thiên Chúa tách nước phía
trên Ngày Thứ Năm Thiên Chúa dựng nên chim trời khỏi nước phía
dưới và cá nước Ngày Thứ Ba Thiên Chúa tách đất khô
ráo Ngày Thứ Sáu Thiên Chúa trang trí địa cầu khỏi nước phía
dưới bằng thú vật và con
người.
Ngày Thứ Bảy Thiên Chúa
nghỉ ngơi theo cách người ta
Nên nghỉ trong ngày Sabat kh
Khi đã chấp nhận rằng tác giả của chúng ta quan tâm đến
thần học hơn là khoa học vật lý và lối hành văn của ông gần với văn vần hơn là văn
xuôi, thì một vấn đề khác tự nhiên phải đặt ra : Câu chuyện đó có thật không ?
Trả lời ngay rằng chương này trong sách “Khởi Nguyên” là thật, hoàn toàn thật
hiểu theo cái cách có thật của một dụ ngôn. Cái gì nó dạy và tất cả mọi huấn
điều của nó hoàn toàn thật. Ngay cả bảng thống kê một phần những điều đã được
dạy trong câu chuyện này cũng thật là đáng chú ý :
1. Chỉ có một Thiên Chúa và tất cả các vật khác đều do
Người tạo dựng.
2. Thiên Chúa là một ngôi vị, một Thiên Chúa hằng sống của
tâm thần và ý muốn, Ngài không phải là một lực thiên nhiên nào đó, không phải
là mặt trời, mặt trăng hay bão lụt. Và vốn là một Thiên Chúa có ngôi vị, Ngài
phải được yêu mến và phụng thờ hết tình.
3. Thiên Chúa tạo dựng thế giới từ sự hư vô. Cái giáo huấn
chứa đựng trong câu chuyện này đang được tranh luận. Tuy nhiên có thể rằng, vào
lúc câu chuyện này được viết ra, có lẽ vào thế kỷ thứ VI trước Thiên Chúa Giáng
Sinh, thế giới Dothái đã tin ở sự sáng thế và tác giả có ý định dạy điều ấy.
4. Thiên Chúa là Chúa của trật tự. Câu chuyện đã theo một
trật tự tuyệt hảo và nhằm dạy độc giả rằng đó là đường lối hành động của Thiên
Chúa.
5. Con người trỗi xa hơn vạn vật trên thế giới. Nó được đề
cập sau hết như là một kiệt tác của tạo vật hữu hình. Chỉ trước khi tạo dựng
con người, Thiên Chúa mới bàn định thầm với chính mình Ngài và chỉ một mình con
người được ban quyền cai trị trên thế giới loài vật.
6. Địa vị cao quí của con người ở chỗ nó là một tạo vật
được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống Ngài. Là một tạo vật có trí
hiểu biết và quyết định, con người có thể thực hiện quyền cai trị của mình trên
các tạo vật trong thế giới.
7. Hôn nhân là một địa vị được Thiên Chúa chúc lành.
8. Con người phải dành riêng ít nhất một ngày trong tuần
cho Thiên Chúa.
9. Thế giới và mọi vật trên thế giới đã được dựng nên đều
là tốt lành. Phát xuất từ bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa, chúng mang trên mình
dấu vết sự TỐT LÀNH của Ngài.
Đây không phải là những sự thật bé nhỏ, câu chuyện độc đáo
này vừa ngắn, vừa có nghệ thuật cao siêu và rất uyển chuyển đã bày tỏ đủ sự
thật về Thiên Chúa và con người, để tạo nền tảng cho một khoa thần học rộng rãi
và thấu đáo. Tuy nhiên sự khôn ngoan và tuyệt mỹ của câu chuyện chỉ có thể được
đánh giá một cách đầy đủ khi nào chúng ta nhận định được rằng lối mô tả này
nhằm mục đích phản lại một câu chuyện khác của người ngoại giáo về việc sáng
thế.
Câu chuyện sáng thế của người ngoại giáo thuộc miền
Mêsôpôtamia bắt đầu bằng một thần nam và một thần nữ (phái tính là tối cổ).
Những vị thần này sinh ra nhiều thần khác nhỏ hơn. Một cuộc giao chiến do đó
xảy ra giữa cha mẹ và những kẻ nối dõi. Trong cuộc chiến vị thần nam bị giết,
nhưng vị thần nữ tên là Tiamat, vẫn còn sống để tiếp tục chiến tranh với lũ con
cái. Sau một trận giao tranh tàn bạo, vị thần nữ ấy bị giết. Từ thi hài của bà,
mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao được cấu tạo. Đó là câu chuyện của người
ngoại giáo. Nó ít nói về quan niệm của người ngoại giáo đối với thế giới, nhưng
lại nói nhiều về những ý tưởng mộc mạc của họ đối với các thần linh của họ.
Chúng ta có thể tưởng tượng những người Dothái vốn đã biết
rõ câu chuyện này, đã bắt đầu cách mạnh mẽ và nói ; “Nhưng Thiên Chúa không
giống như vậy đâu”. Bởi thế họ kể câu chuyện của họ về Thiên Chúa, và trong
thời gian, câu chuyện này đã được viết ra thành chương thứ nhất trong sách
“Khởi Nguyên” do vị tác giả được thiên khải. Nó dạy rằng không phải có nhiều vị
thần nhưng chỉ có một vị duy nhất mà thôi, Ngài là một ngôi vị đáng cho chúng
ta yêu mến và tùng phục. Thế giới được tạo dựng không phải là do kết quả của
những cuộc giao tranh và tàn sát, nhưng là do sự sắp xếp trật tự của ý muốn tối
thượng của Thiên Chúa, ý muốn đó chứng tỏ quyền năng vô biên của Ngài. Con
người không phải là đồ chơi của các thần linh, bị lệ thuộc vào sự ngông cuồng
của họ, nhưng là chủ cai trị các tạo vật và là tấm gương phản ánh những sự
thiện hảo của Thiên Chúa. Phái tính không phải là tối cổ, không phải là quan
trọng hơn tất cả, nhưng là một phúc lành của Thiên Chúa và được bảo vệ qua hôn
nhân. Con người, mặc dù rất cao quý, nhưng vẫn chỉ là một tạo vật, và do đó,
phải dành riêng ít nhất ngày Sabbat để phụng thờ Đấng Tạo Hóa đã sinh ra mình.
Sau hết, và đây là một điểm rất quan trọng cho vấn đề cứu rỗi, tất cả mọi sự
đều do bàn tay Thiên Chúa mà ra và đều tốt lành. Thế giới lúc đó không cần sự
cứu rỗi. Con người là bạn chí thân của Thiên Chúa.
CON NGƯỜI (Đọc
Khởi Nguyên 2, 4 – 25).
Với chương thứ hai của Khởi Nguyên, câu thứ tư bắt đầu một
câu chuyện mới và hoàn toàn khác “Thế đó sự tích trời đất, khi chúng được tạo
dựng nên”. Nó không nói cho chúng ta nhiều về sự sáng tạo thế giới, cho bằng
nói về sự tạo thành người nam và người nữ. So với chương thứ nhất của Khởi Nguyên thì nó xưa hơn nhiều và cũng
bóng bẩy tượng trưng hơn nhiều. Độc giả thời này chắc là ít quen với kiểu nói
rất bóng bẩy này. Không phải là chúng ta được kể những câu chuyện thần tiên
hoang đường, nhưng là tác giả đang dạy những chân lý sâu xa bằng cách xử dụng
một ngôn ngữ linh động và đầy màu sắc. Điều cần thiết là chúng ta phải đâm thâu
qua cái vỏ bên ngoài của câu chuyện để tìm thấy cái nhân nằm ở bên trong. Chúng
ta hãy lấy câu 19 – 20 chẳng hạn. Trong những câu này chúng ta thấy những con
thú vật đi diễn hành như trong gánh xiếc ngang qua trước mặt Ađam. Oâng đặt tên
cho chúng khi chúng đi ngang qua. Và khi cuộc diễn hành chấm dứt, ông không gặp
thấy một con vật nào giống ông cả. Đây chỉ là một cách mô tả linh động nhằm mục
đích dạy cách cụ thể rằng con người là chủ tể thế giới thú vật. Theo tâm lý của
người Sêmít thời đó chỉ người nào cầm quyền cai trị mới có quyền đặt tên. Đó là
lý do tại sao Ađam được hình dung đang đặt tên cho thú vật. Oâng không hề, như
các bạn nhận thấy, đặt tên cho mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, ngày và đêm,
bởi vì ông không có quyền hạn gì đối với chúng cả, chính Thiên Chúa đặt tên cho
những thứ đó. Câu chuyện thú vật diễn hành cũng dạy một sự kiện khác nữa: trong
các thú vật trên quả đất, không có một con thú vật nào có nhân tính, ngoại trừ
con người.
Trong khi đọc những chương này cũng như những chương kế tiếp,
chúng ta phải nhớ luôn luôn rằng tác giả thường dùng kiểu nói bóng bẩy. Nếu
không nhờ điều ấy, chúng ta sẽ không thể nào hiểu rõ được tác giả muốn dạy gì,
và sẽ gán cho tác giả những ý tưởng mà ông sẽ là người đầu tiên phủ nhận. Cách
đây nhiều thế kỷ, thánh Au-gus-tin, một nhân vật lỗi lạc, cũng đã cảnh cáo cái
lối quãng diễn một cách quá nô lệ những văn bản về sự tạo dựng con người, trong
đó đầy dẫy những thành ngữ tượng trưng bóng bẩy. Ngài cũng đã cảnh cáo việc
chấp nhận những điều có vẻ khôi hài đối với những người không tin.
Vậy thì chúng ta đã được dạy như thế nào về người nam và
người nữ đầu tiên ? Ađam đã được tạo dựng bằng đất sét và hơi thở của Thiên
Chúa. Những biểu hiện ở đây thật là rõ ràng. Con người khác hẳn thế giới loài
vật, nó gồm có hai yếu tố, trước hết là vật chất, đất sét là biểu hiện của vật
chất chỉ vì thân thể của con người khi tan rã sẽ hóa thành đất sét của thế
giới, và bởi vì trong tiếng Dothái, đất sét được gọi là ADAMAL, gần giống như
từ ADAM có nghĩa là người nam. Yếu tố thứ hai thì cao siêu hơn nhiều và ít vật
chất hơn, đó là sự sống của con người mà hơi thở của Thiên Chúa là một biểu
hiệu kích động nhất. Điều ta học được ở đây thật là tuyệt mỹ : con người có một
sự sống, một sức sống hướng về Thiên Chúa cho đến nỗi nó được gọi là hơi thở
của Thiên Chúa. Thật vậy tất cả truyền thống Dothái Kitô hữu đều dựa trên niềm
tin vững chắc rằng con người khác hẳn mọi sinh vật khác. Mặc dầu con người
giống Thiên Chúa, nhưng nó không phải là Thiên Chúa ; mặc dầu nó giống loài
vật, nhưng nó không phải là loài vật.
Một chân lý khác cũng được chứa đựng trong chương này :
“Người nam ở một mình không tốt”. Thiên Chúa dựng cho người đàn ông một người
bạn, người bổ túc. Được dựng nên theo khuôn mẫu người đàn ông, cho nên người
đàn bà sẽ trở thành một với người đàn ông trong hôn nhân và sẽ chiếm một địa vị
bên cạnh đàn ông (3 – 12). Rồi chương này kết luận bằng cách nói rõ ràng về sự
tốt lành của phái tính khi chưa bị hoen ố tội lỗi và về sự bền vững của hôn
nhân. “Phen này, nàng là xương tự xương tôi và thịt từ thịt tôi ; nàng sẽ đội
danh là đàn bà vì đã được rút tự đàn ông. Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà
khắng khít với vợ mình và họ sẽ nên một thân xác. Và cả hai đều trần truồng,
người đàn ông và vợ mình, nhưng họ không hổ ngươi” (2, 23 – 25). Đúng hơn, đó
là một câu chuyện cảm động, viết bằng từ ngữ của nhân loại, về một vị Thiên
Chúa đầy tình thương, trái tim Ngài thấy đau nhói trước cảnh xấu xa mà con
người tội lỗi đã đưa vào sự đẹp đẽ của tạo vật. Câu chuyện về trận lụt hồng
thủy đã được phổ biến đến nỗi, trong văn chương ngày xưa, người ta cho trận lụt
lạ thường đã tàn phá cả vùng Mêsôpôtamia
là một biến cố lịch sử. Một vài chứng tích trong môn khảo cổ học càng
làm tăng thêm sự ước đoán này. Qua câu chuyện này, tác giả muốn nói với chúng
ta rằng sự tội đã lan tràn nhanh chóng đến nỗi cần phải có nước lụt mới tẩy xóa
sạch những vết nhơ đen tối của nó.
Tuy nhiên đó là một điều sai lầm nếu chúng ta bỏ qua điều
giáo huấn đầy an ủi này : mặc dù nhấn mạnh sự tội, câu chuyện Cựu Ước này cũng nhắc
nhở chúng ta nên luôn nhớ rằng Thiên Chúa vẫn hằng quan tâm một cách yêu thương
đến con người, tạo vật đã được dựng nên rập theo hình ảnh Ngài và giống Ngài.
Lòng từ bi của Thiên Chúa như là sợi dây buộc con người với Thiên Chúa. Chúng
ta được dạy về điều này vì trong đoạn kể lại sự sa ngã có nói đến sự giao tranh
mà phần thắng lợi sẽ về phía dòng giống người đàn bà. Chúng ta cũng được dạy về
điều này một lần nữa khi Thiên Chúa bằng lòng về Abel ở 4, 5 và Henoch ở 5, 22
– 24. Ngay Cain cũng được sự quan phòng của Thiên Chúa gìn giữ. Cái dấu nơi
Cain không phải là một sự chúc dữ, song là biểu hiện sự giữ gìn của Thiên Chúa.
Sau hết, câu chuyện lụt hồng thủy cũng là cuâ chuyện nói về Noe và gia đình của
ông được ân huệ đặc biệt trước mặt Thiên Chúa. Câu chuyện lời giao ước ở chương
9 quả thật là một lời hứa với độc giả những ngày tươi sáng hơn sắp đến.
Sự tội cũng được nhấn mạnh rõ ràng trong chương 11 nói về
tháp Babel. Sự kiêu ngạo là thằng đểu trong câu chuyện này. Mục đích của câu
chuyện là mô tả hậu quả của sự tội. Do tội mà nẩy sinh ra sự bất hòa và hỗn
loạn giữa loài người. Cái luân lý trong câu chuyện không còn xa lạ gì đối với
chúng ta, những kẻ đang sống trong thời đại mà sự hòa hợp mong manh giữa các
quốc gia được tổ chức trong tòa nhà Liên Hiệp Quốc. Ở đó cái điều đe dọa sự hợp
nhất và hòa đồng chính là do sự kiêu ngạo ở phạm vi quốc gia và do sự không
quan tâm đến Thiên Chúa và giới luật của Ngài ?
Cuối cùng, sự hiện diện của tội lỗi được biểu hiệu bằng
những bảng liệt kê tuổi tác các Tổ Phụ ở chương 5 câu 1, chương 6 câu 3 và
chương 11 câu 10 – 16. Một vài con số có lẽ bị sai lầm khi lưu sao lại văn bản,
nhưng theo mẫu tổng quát thì tuổi thọ giảm dần từ đầu đến cuối bảng thống kê.
Đây là một kỹ thuật khác để nói lên rằng sự tội mỗi ngày một lan tràn và nó là
nguyên nhân cơ bản của sự chết. Sự suy giảm của tuổi thọ là một dấu hiệu chỉ sự
gia tăng của sự tội.
Lúc đọc xong những câu chuyện này, chúng ta có cảm tưởng
rằng sự tội đã gia tăng bằng những bước nhảy vọt, và do lực khủng khiếp phi
thường này mà con người cần thiết ơn cứu độ cũng gia tăng từng phút. Đó chính
là ấn tượng mà tác giả muốn gây nên. Chính cái nền đen tối này, theo dụng ý tác
giả, sẽ cùng làm nổi bật khuôn mặt sáng chói của Abraham (Abram) người “bạn của
Thiên Chúa” và là vị tổ phụ của dân Chúa chọn.
THIÊN CHÚA VÀ SỰ TOÀN HẢO CỦA NGÀI. THẾ GIỚI ÐƯỢC TẠO DỰNG TOÀN HẢO CON NGƯỜI ÐƯỢC TẠO DỰNG THEO HÌNH ẢNH THIÊN CHUÁ
SATAN – SỰ TỘI – SỰ CHẾT
(1). Tội của Ađam và Evà ( Khởi
Nguyên 3)
(2). Tội của Cain
giết Abel ( Khởi Nguyên 4)
(3). tội giữa con
trai Thiên Chúa và con gái loài người ( Khởi Nguyên 6)
Khởi Nguyên
các chương 3 – 11 (4). Tội bị phạt bằng lụt hồng thủy (
Khởi Nguyên 6 – 9)
Giới thiệu
lịch sử cứu độ (5). Tội kiêu ngạo tại tháp
Babel ( Khởi Nguyên 11)
Con người sa ngã
Xa lìa Thiên Chúa Tất cả những câu chuyện về
sự tội này đều nói cho chúng
ta sự bành trướng quyền lực của vương
quốc
SATAN
SỰ TỘI
SỰ CHẾT
BỆNH TẬT