CHƯƠNG II
GIA ÐÌNH
- DÂN TỘC - TÔN GIÁO
GIA ÐÌNH CỦA ABRAHAM (Ðọc Khởi Nguyên 12, 1 - 25, 8).
Ðến đây lịch sử cứu độ tiến lên một
cách đáng kể và tiến gần hơn với ý nghĩa hiện đại của hai chữ "lịch
sử". Chúng ta bắt đầu tiếp xúc với những nhân vật và những biến cố mà
người ta có thể xác định được thời gian, không gian trong văn bản của lịch sử
tổng quát.
Chín chương trước đây của " Khởi
Nguyên" (3 - 11) đã cho thấy một cách rất linh động sức mạnh mà vương quốc
của Satan tràn ngập con người và thế giới con người đang sống. Sự vận chuyển
mỗi ngày một dần dần xa Thiên Chúa. Hết câu chuyện này đến câu chuyện khác,
những câu chuyện về sự tội cứ nối tiếp nhau, con người ngày một rời xa cái tính
"bản thiện" thuở nó được tạo dựng ; càng ngày nó càng rời xa Thiên
Chúa, nó cần sự cứu độ một cách tuyệt vọng nhưng không thể tự mình làm được.
Không có một người nào vẫn còn trung thành với Thiên Chúa sao ?
Và giờ đây, chính Thiên Chúa bước vào
một cách rất đột nhiên và cảm động. Người tuyển chọn, từ một thế giới trầm luân
trong tà giáo, một nhóm ít người, thuộc thị tộc Thare sống tại Ur gần vịnh Ba
Tư, Ur cũng thường được gọi là Chalđê. Thị tộc này di chuyển về phía tây bắc,
đất Haran, gần nguồn sông Euphrates. Từ thị tộc này Thiên Chúa chọn một người
duy nhất : Abraham. Sự chỉ có một Thiên Chúa duy nhất đã được mạc khải cho ông
và với ông, công trình cứu độ của Thiên Chúa cũng như dân riêng Chúa chọn được
bắt đầu. Những chi tiết của sự mạc khải đầu tiên này không rõ như thế nào,
nhưng hình như nó đã xảy ra trước khi có lời hứa quan trọng và lừng danh được
mô tả ở " Khởi Nguyên" chương 12 câu 1- 3. Những lời hứa này coi
Abraham như là một người đã thân tình với Thiên Chúa. Ðoạn văn thật cảm động :
Thiên Chúa phán với Abram : "Hãy
đi khỏi xứ sở của ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ
chỉ cho ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn. Ta sẽ chúc lành cho ngươi và
Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc
lành cho những ai chúc lành ngươi, ai mà nói động đến, Ta sẽ chúc dữ. Mọi thị
tộc trên trần thế sẽ lấy ngươi mà cầu phúc cho nhau".
Ðoạn văn ngắn ngủi này hé mở ra dưới
hình thức hơi tổng quát, những lời mà Thiên Chúa tự ý HỨA với Abram, con người
đã được Chúa chọn để làm con tàu cứu rỗi. Trong thực chất, những lời hứa này
nói về :
1. Một dân tộc sẽ phát xuất từ Abraham.
2. Một đất nước thuộc quyền sở hữu của dân tộc này, và
3. Một phúc lành được ban xuống cho các dân trên thế giới
nhờ Abraham.
Những lời hứa này được lập lại trong
những chương kế tiếp, và lời hứa thứ nhất cũng như thứ nhì sẽ trở nên rõ rệt
hơn. Ðất nước đã hứa cho miêu duệ của Abraham sẽ là miền đất Canaan về phía tây
nam Haran, miền này về sau được lịch sử gọi là Pha-Lệ-Tinh. Lời tiên tri về một
dân tộc phát xuất từ Abraham cũng trở thành rõ rệt hơn. Dân tộc này được mô tả
như là lớn lao, đông đảo chẳng khác gì bụi đất (13 - 16) và sao trên trời (15,
5). Quan trọng hơn nữa, nó được ghi như là một dân tộc sẽ phát triển từ một
người con của Abraham - một người con mà ông sẽ có sau với bà vợ già son sẻ của
ông. Ðây là một lời hứa có vẻ khó tin đối với ông, nhưng đó là điều Thiên Chúa
báo trước và Abraham phải tin. Ðiều đã được nói ở chương 12, câu 3, liên quan
đến các dân tộc được chúc lành qua Abraham, được lập lại một lần nữa ở chương
18, câu 18, nhưng chưa bao giờ được giải thích rõ ràng hơn. Nó vẫn là một điều
mầu nhiệm đối với Abraham và miêu duệ của ông.
Ðể bảo đảm và xác nhận những lời hứa
này, một lễ kết ước đã diễn ra giữa Thiên Chúa và Abraham, con người được tuyển
chọn. Lễ kết ước là một thỏa hiệp, một sự giao kết, một tôn giáo, ràng buộc con
người với Thiên Chúa. Chương 15 câu 17 - 18 mô tả một quang cảnh huyền bí.
Abraham đem đến một con bê, một con dê cái, một con dê đực, một con chim cu gáy
và một bồ câu, đoạn ông xẻ ra chính giữa và đặt phần này đối chiếu với phần
kia.
"Và khi mặt trời đã lặn và tối tăm
bao trùm thì này một lò lửa nghi ngút khói và một đuốc cháy ngang qua giữa
những mảng thịt hy sinh. Ngày hôm ấy, Thiên Chúa đã kết ước với Abraham rằng :
Cho dòng giống ngươi, Ta sẽ ban thửa đất này"
Nghi lễ kết ước này theo đúng tục lệ
thời đó, những bên bước vào thỏa hiệp đều đi ngang qua những con vật xẻ đôi để
cam kết rằng mình cũng sẽ bị xẻ đôi như thế nếu phá vỡ thỏa hiệp. Cái biểu hiệu
bề ngoài của mối quan hệ mới, sự đoan kết mới giữa Thiên Chúa và Abraham, sẽ là
nghi lễ cắt bì (17, 1 - 14).
Các câu chuyện này có gì quan trọng đối
với lịch sử cứu độ không ? Những giai đoạn trong đời sống của Abraham làm nổi
bật ba khía cạnh hoạt động của Thiên Chúa, sự hoạt động này xuất hiện từng thời
kỳ qua nhiều thế kỷ, khi Thiên Chúa đem lại ơn cứu độ cho thế giới. Khía cạnh
thứ nhất là sự tuyển chọn, Thiên Chúa chọn một người để làm khí cụ của Ngài.
Trong trường hợp này, đó là Abraham, một con người vô danh trong một thị tộc vô
danh, ở một thành phố vô danh. Tại sao lại chọn Abraham ? Bởi vì Thiên Chúa
muốn chọn ông. Ðó là câu trả lời duy nhất có thể được. Và vấn đề xảy ra như thế
xuyên qua bao thế kỷ. Thiên Chúa chọn ai, mặc ý Ngài : người này chứ không phải
người khác, người này chứ không phải là anh của hắn. Isaac được chọn trên
Ismael ; Yacob trên Esau, Yuse trên các người anh của ông, Maria trên các trinh
nữ của Israel. Bao giờ quyền tuyển chọn cũng chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa
mà thôi.
Yếu tố thứ hai là lời hứa : Cựu Ước từ
đầu đến cuối vẫn là một lời hứa. Lúc này những lời hứa được phán ra với
Abraham. Những lời hứa ấy sẽ được nối tiếp bằng những lời hứa khác sau này với
những cá nhân mà Thiên Chúa muốn chọn làm những người lãnh nhận thiên chức. Mặc
dầu không cần, Thiên Chúa vẫn hứa hẹn những ân huệ rõ rệt trong tương lai và
lòng trung tín của Ngài đã đảm bảo cho chúng được nên trọn vẹn.
Yếu tố thứ ba là lễ kết ước, biểu lộ sự
hiệp nhất thiêng liêng giữa Thiên Chúa và loài người. Lễ kết ước với Abraham
thật đơn giản, nhưng ít nhất cũng thiết lập bước đầu của một tôn giáo, một sự
ràng buộc của Thiên Chúa đối với loài người và của loài người đối với Thiên
Chúa. Cái tôn giáo phát triển đầy đủ của Israel trong tương lai hãy còn xa cách
đó khoảng sáu thế kỷ nữa. Cũng nên ghi nhớ rằng, liên quan tới lễ kết ước cùng
Abraham, lễ hy tế được đưa vào như là một thành phần của lễ kết ước.
Ba yếu tố : tuyển chọn, lời hứa, kết
ước là những điều phía Thiên Chúa dùng để kết buộc với Abraham. Ðó là những
điều Thiên Chúa đem đến, phía Abraham thì có những gì ? Ông đáp ứng lại Thiên
Chúa ra sao ? NIỀM TIN ! Abraham tin và với niềm tin đó, công trình cứu độ bắt
đầu về phía loài người, ông tin rằng Thiên Chúa sẽ cho dòng giống ông đất
Canaan (Phalệtinh). Ông tin rằng ông sẽ có một dòng giống đông vô số, như những
hạt bụi đất và sao trên trời. Hơn nữa ông tin rằng Thiên Chúa sẽ làm cho lòng
dạ cằn cỗi của bà vợ già son sẻ của ông sinh ra một đứa con, nó sẽ là khởi đầu
cho một gia đình và cho một dân tộc, đó không phải là một lời hứa dễ tin. Sara
đã cười khi bà được loan báo tin đó (18, 12) và chính Abraham, mặc dù là con
người có niềm tin mãnh liệt, cũng phải bật cười khi nghe tin mừng đó lần đầu
tiên (17, 17). Ðó là một lời hứa khó khăn, nhưng Abraham đã tin. Bởi vì ông tin
nên một người con đã sinh ra bởi Sara, tên của cậu bé là Isaac, có liên quan
đến từ ngữ Dothái nghĩa là cười, một nụ cười xảy ra khi đón nhận lần đầu tiên
lời hứa cậu bé đó sẽ được sinh ra.
Isaac lớn lên bình thường và mạnh khỏe.
Cha của cậu yêu cậu hết lòng và quý cậu như con ngươi của mình. Niềm hy vọng
cứu độ của thế giới được đặt ở nơi cậu. Tuy nhiên khi Thiên Chúa bảo Abraham
mang cậu con trai đi dâng làm của lễ toàn thiêu, thì ông cứ vâng lệnh ra đi đến
nơi tế lễ, mặc dù đau nát ruột. Thiên Chúa ngăn chận tay ông lại và giao hoàn
cậu con trai cho ông, nhưng chỉ sau khi Abraham minh chứng niềm tin sâu xa hơn
nữa của ông, một niềm tin có một không hai trong lịch sử loài người ở thời đại
trước Ðức Kitô. Vì thế người ta không ngạc nhiên bao nhiêu khi thánh Phaolô
giới thiệu ông như là người gương mẫu cho những kẻ tin vào Ðức Kitô, và cho
rằng đức tin có một vai trò quan trọng nhất trong công việc cứu độ. Sự cứu độ
của cả thế giới đã bắt đầu với niềm tin của Abraham như thế nào, thì sự cứu độ
của mỗi người Kitô hữu cũng bắt đầu với niềm tin của mình như vậy, với ý muốn
chấp nhận mọi điều Chúa dạy và mọi lời Chúa hứa.
Chúng ta có thể xác định Abraham và câu
chuyện về đời sống của ông trong bối cảnh của lịch sử thế tục không ? Các học
giả ngày nay công nhận rằng câu chuyện về Abraham hoàn tòan ăn khớp với các
chuyện chúng ta biết về thế giới Canaan và Mêsôpôtamia khoảng 2000 năm trước
Thiên Chúa giáng sinh. Lối sống cũng như những phong tục của Abraham và gia
đình ông rất giống lối mà các nhà khảo cổ học đã xác định nơi những dân bán du
mục thời đó, họ di cư rất đông từ Mêsôpôtamia đến Canaan. Vậy nếu cho rằng
Abraham sống vào khoảng 1850 hay 1800 trước Thiên Chúa giáng sinh thì chắc cũng
sẽ không sai lắm.
Tiếp theo câu chuyện về gia đình
Abraham là câu chuyện về Isaac và Yacob (Ðọc Kn. 21 - 36). Isaac được mô tả
bằng những nét nhợt nhạt, nhất là đối với cha của ông là Abraham và con của ông
là Yacob. Cả hai nhân vật này với nhân cách rất vững vàng đã làm cho hình ảnh
của Isaac bị lu mờ đi. Tuy nhiên việc Thiên Chúa lập lại với Isaac những lời đã
hứa với Abraham là một điều quan trọng cho lịch sử cứu độ. Ở chương 26 câu 3 và
5, Thiên Chúa phán với Isaac :
Ta sẽ giữ lời Ta đã thề với Abraham cha
ngươi, Ta sẽ cho dòng giống ngươi nên đông đảo như sao trên trời. Ta sẽ ban cho
dòng giống ngươi tất cả xứ này. Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu
phúc cho nhau .
Vợ của Isaac là Rêbecca, không phải đã
được chọn trong số những cư dân tại Canaan, nhưng đã được chọn trong họ hàng
của ông hãy còn đang sống về phía bắc Haran, bà sinh đầu lòng hai người con
trai song sinh. Vì một lý do cao siêu nào đó, chúng ta khó hiểu được, Thiên
Chúa đã chọn người con thứ là Yacob chứ không chọn người con cả là Esau. Tính
tình của Yacob được mô tả bằng những màu sắc rất trung thực. Việc ông dùng bát
cháo để đổi lấy quyền trưởng nam của Esau đang đói bụng, là một hành động mánh
khoé chứ không phải là gian dối (25, 29 - 34). Trong trường hợp này, tác giả
gần như ít bất mãn về hành động của Yacob hơn là về Esau : "Esau đã khinh
rẽ quyền trưởng nam đến thế" (25, 34).
Việc Yacob đã dùng mưu kế để giả dạng
Esau ngõ hầu được chúc lành của cha ông (Kn 27) là một việc trông có vẻ gian
xảo hoàn toàn, nếu việc được quyền trưởng nam như thế không có chứa lý do để
giải thích và biện hộ cho phần nào. Ðó là một ví dụ cho thấy Thiên Chúa thường
vạch những đường thẳng xen lẫn với những đường cong, bởi vì xuyên qua Yacob chứ
không phải Esau mà chương trình cứu độ sẽ tiếp tục.
Từ trước tới đây, Yacob đã được cho
thấy như là một con người có tính tình tồi tàn. Tuy nhiên, một khi ông đã trốn
về phía bắc Haran để tránh cơn giận dữ của người anh, thì những vẻ tốt đẹp nơi
ông mỗi ngày một gia tăng và hiện ra đậm nét rõ rệt. Kn 28, 10 - 22 nói về sự
chiêm bao của ông và lời ông khấn với Thiên Chúa tại Bêthel, và sự Thiên Chúa
nhắc lại với ông về những lời Thiên Chúa đã hứa với Abraham và Isaac. Kn 32, 25
- 31 nói về một cuộc gặp gỡ khác với Thiên Chúa và việc được chúc lành tại
Phanuel, sau đó Yacob được đổi tên là Israel. Cả hai lần mô tả này nhằm mục
đích cho thấy Yacob ngày càng thêm tiến đức. Câu chuyện rất hay về mối tình của
ông đối với Rakhel và về bảy năm ông giúp việc để lấy được nàng, bảy năm
"đối với chàng chỉ như vài ngày thôi, vì chàng quá yêu nàng" ( Kn 29,
20) cho ta thấy một câu chuyện ái tình đầu tiên trong Kinh Thánh và những đặc
điểm nhân loại rất đáng cảm phục. Yacob đã đối xử khôn khéo với Laban, một
người cha vợ cũng khôn khéo chẳng kém, nhưng những ngày lừa gạt đã qua hẳn rồi.
Như chúng ta đã biết, chính Laban đã tỏ
ra mánh khóe hơn Yacob trong việc hôn nhân của Rakhel. Chúng ta đọc thấy rằng :
"Laban có hai cô con gái, tên cô lớn là Lêa và tên cô bé là Rakhel. Mắt
Lêa lờ đờ, còn Rakhel lại dáng dấp xinh đẹp, dung nhan mỹ miều" ( Kn. 29,
16 - 17). Yacob một người mánh khóe, đã gặp một tay mánh khóe bậc thầy !
Hai người vợ của Yacob là Lêa và
Rakhel, và hai tớ gái của các bà ấy, đã sinh cho Yacob 12 người con trai, và
chương trình cứu độ của Thiên Chúa sẽ tiếp tục xuyên qua họ. Trong những người
con trai ấy, quan trọng nhất là Yuse, con của Rakhel và là anh của Benjamin.
Câu chuyện về Yuse (đọc Khởi Nguyên các
chương 37 - 50) là một trong những câu chuyện được phổ biến nhất trong Cựu Ước.
Bị các anh ghen ghét và bán cho người Aicập để làm nô lệ, Yuse đã tỏ ra đức độ
và khôn ngoan đáng làm mẫu mực cho thiên hạ. Ông đã được cất nhắc lên địa vị
cao trọng thứ nhì, chỉ sau vua Pharaô một cấp mà thôi. Khi các người anh của
ông đến Aicập tìm lương thực trong thời kỳ đói kém, Yuse đã tiếp đón họ một
cách nhân từ và bác ái, một gương tốt đẹp. Khoảng 1700 năm trước thời của nó về
luật yêu thương trong Bài Giảng Trên Núi của Ðức Kitô. Sau hết, toàn thể gia
đình của Yacob dời sang Aicập ở với Yuse và ở đó Yacob "thu chân lại lên
giường và ông đã thở hơi cuối cùng. Và ông đã được xum vầy với tổ tiên" (
Kn. 49, 33).
Ðó là những chi tiết của câu chuyện.
Tuy nhiên đàng sau những sự kiện này, có chứa đựng nhiều điều về lịch sử Aicập
và về chương trình của Thiên Chúa. Việc Yuse được cất nhắc lên nắm quyền hành
của Aicập dường như đã làm cho câu chuyện tỏa ra một vẻ đẹp huyền bí thần tiên
trong nhiều thế kỷ. Làm sao tưởng tượng được rằng một con người từ thân phận nô
lệ đã được cất nhắc lên một địa vị cao trọng như thế trong chính quyền ? Hiện
nay chúng ta biết rằng vào khoảng 1700 - 1570 trước Thiên Chúa giáng sinh, nước
Aicập đã bị tràn ngập bởi những người Sêmít xâm lược từ phía bắc lấn xuống, và
họ đã nắm hết quyền cai trị. Những người ngoại xâm này được gọi là
"Hyksos", có nghĩa là "chủ nhân ngoại quốc". Sự chiến thắng
của họ là nhờ ở việc sử dụng ngựa và xe mà thời bấy giờ người Aicập chưa có.
Tất cả những điều này đã làm cho việc Yuse được cất nhắc trở nên dễ hiểu hơn.
Ông được cất nhắc lên như là một người ngoại lai trong một chính quyền do những
người ngoại lai như ông nắm giữ.
Dĩ nhiên là tác giả của chúng ta không
quan tâm gì cả đến vai trò mưu lược của người Hyksos trong lịch sử Aicập. Ông
chỉ quan tâm đến một việc khác đó là những việc kỳ lạ của Thiên Chúa quan
phòng. Chúng ta hãy nhớ rằng sự cứu độ nằm trong gia đình Yacob. Trong thời kỳ
đói kém ở Canaan, gia đình này đã phải nguy khốn và có thể chết sạch. Nhưng họ
không chết, chỉ vì Thiên Chúa đã thấy rằng, chỉ cần một người trong gia đình,
đó là Yuse, nắm một địa vị quan trọng cũng đủ cứu sống cả gia đình. Ðó là lý do
tại sao Yuse bị bán sang Aicập. Ðường lối của Chúa quan phòng tuyệt diệu biết
bao ! Chính những lời của Yuse đã tường thuật lại ý nghĩa cao siêu của giai
đoạn này :
"Tôi là Yuse, em của các anh,
người các anh đã bán qua Aicập. Nhưng bây giờ đừng quá buồn sầu, đừng tức tối
với mình vì đã bán tôi. Này, chính để là phương cứu sống mà Thiên Chúa đã sai
tôi đi trước các anh. Nay mới là hai năm đói nội trong xứ nhưng còn năm năm nữa
không cày không gặt. Thiên Chúa đã sai tôi đi trước các anh là để lưu số sót
lại trên đất cho anh em, cứu sống anh em và mưu việc giải thoát lớn. Vậy không
phải các anh đã sai tôi đến đây, nhưng là Thiên Chúa ; chính Người đã đặt tôi
làm như cha của Pharaô, làm chúa tất cả cung điện của ngài, thống trị toàn cõi
Aicập" ( Kn. 45, 4 - 8).
Những chương cuối của Khởi Nguyên nói
về cái chết của Yacob-Israel và Yuse. Trước khi Yacob-Israel chết, ông đã nhận
hai người con của Yuse, là Ephraim và Manassê làm con nuôi. Trong hai người đó,
Ephraim, mặc dù nhỏ hơn, đã nhận được phúc lành lớn hơn, bởi vì thị tộc của ông
đã trở nên một thị tộc quan trọng ở Canaan. Mười hai thị tộc Israel sẽ được
thành lập từ mười hai người con trai của Yacob-Israel, trừ Yuse và Lêvi, nhưng
lại thêm vào Ephraim và Manassê. Yuse đã được trừ ra, bởi vì con cháu của ông,
nhưng người Lêvi sẽ trở nên các vị tế lễ và sẽ sinh sống chính bằng chức nghiệp
đó.
Chúng ta đang ở vào phần cuối của sách
Khởi Nguyên, thiết tưởng cũng nên tóm tắc một cách ngắn gọn những gì đã xảy ra
trong lịch sử cứu độ từ trước tới nay. Thế giới và con người được sáng tạo nên
trong sự THIỆN HẢO. Sau đó Satan đến với vương quốc của nó là sự tội, sự chết,
bệnh tật. Các chương 4 - 11 gây cho chúng ta một ấn tượng về sức mạnh của sự
tội. Ở chương 12, Abraham đã được Thiên Chúa tuyển chọn, đã đón nhận những lời
phán hứa và lễ kết ước. Sự cứu độ của nhân loại bắt đầu từ điểm này. Những lời
phán hứa đã được nhắc lại với Isaac và Yacob-Israel, và họ đã noi gương Abraham
mà hiến dâng chính bản thân và gia đình mình cho Thiên Chúa qua hy tế. Sau hết
Yuse đã được chọn để bảo toàn gia đình lúc di chuyển về đất Aicập.
GIA TỘC BIẾN THÀNH DÂN
TỘC (Ðọc Xuất Hành 1 - 18).
"Yuse đã chết, rồi các anh em ông
hết thảy, rồi tất cả thế hệ ấy. Con cái Israel sinh sôi nảy nở, họ nên đông đảo
và hùng hậu lắm lắm, đến đổi xứ đầy những người của họ.
Bấy giờ có vua mới, không hề biết Yuse,
lên ngôi ở Aicập. Ông nói với dân của ông : "Này dân con cái Israel đông
đảo và hùng hậu hơn ta. Nào ! Ta phải khôn mưu với nó ! Kẻo nó sinh sôi và khi
xảy có giặc, nó lại hùa với địch mà đánh lại ta rồi lên khỏi xứ này". Và
người ta đã đặt trên Israel những khổ dịch để bức bách dân è vai vác nặng, và
dân đã phải xây cho Pharaô các thành thương khố Phithom và Ramsès. Nhưng người
ta càng áp bức, thì dân càng thêm đông đảo bành trướng, khiến người ta phải
khiếp sợ con cái Israel. Người Aicập bắt con cái Israel lao công một cách ác
nghiệt, bắt chúng sống cay sống cực bằng lao dịch nặng nề : khuấy hồ làm gạch,
và các công việc đồng áng, tức là hết thảy các công việc người ta bắt họ phục
dịch một cách ác nghiệt" (Xh 1, 6 - 14).
Qua những dòng trên đây, sách Xuất
Hành, quyển thứ nhì của Thánh Kinh, đã dồn ép lịch sử, một khoảng độ 400 năm
bằng cách nhảy từ Yuse sang Môsê. Sự suy thoái của dân Israel, dòng giống của
Yacob-Israel, chắc là đã trùng hợp với sự người Hyksos bị mất quyền hành ở
Aicập. Những người ngoại xâm này đã bị dân bản xứ Aicập đánh bại vào thượng bán
thế kỷ thứ XVI trước Thiên Chúa giáng sinh (khoảng 1570), và chúng ta có thể
hình dung được dễ dàng sự thất sủng nhanh chóng của dân Israel sau khi bà con
của họ là những người Sêmít bị trục xuất, tuy nhiên họ vẫn tiếp tục phát triển
và tạo thành một gia đình nói được là rất đông đúc và bà con họ hàng với nhau.
Khi vận mệnh của họ dường như đã sa xuống tận đáy vực sâu, thì một vị giải
thoát, một vị cứu tinh liền được gởi đến cho họ. Ðấy là Môsê, một khuôn mặt
chắc chắn nổi bật nhất trong Cựu Ước.
Buổi thơ ấu và thời kỳ niên thiếu của
Môsê càng thêm đậm nét qua việc ông được thoát chết khi hãy còn bé bỏng, việc
ông được giáo dục trong triều đình vua Pharaô, việc ông khám phá được sự thật
về gia đình của ông, việc ông trốn khỏi Aicập sau khi đã giết chết một người
Aicập đang hành hạ một người Israel và việc ông đến Mađian (xứ này ở phía nam
Eđom và phía đông vịnh Agaba). Ðến đây giai đoạn quan trọng nhất của đời ông
bắt đầu.
Ở chương 3 sách Xuất Hành, chúng ta đọc
thấy câu chuyện Môsê với bụi gai có lửa bốc cháy mà vẫn không bị thiêu hủy. Ông
cởi dép ra vì nơi ông đang đứng đã được thánh hóa bởi sự hiện diện của Thiên
Chúa. Môsê được Thiên Chúa chọn làm vị cứu tinh của dân Hi-Bá-lai (Hippri) đang
bị nô lệ. Ông được Thiên Chúa ban cho quyền đánh động vua Pharaô, và được Thiên
Chúa mạc khải Thánh Danh của Ngài : Yavê. Ý nghĩa của Thánh Danh này hãy còn
được các nhà học giả tranh luận, nhưng theo một ý kiến đáng tin cậy thì nó có
nghĩa là : "Ta là Ðấng ban sự sống cho muôn vật". Bởi thế Môsê đã trở
lại Aicập và bắt đầu thương lượng với vua Pharaô để dân Israel được giải thoát.
Những tai ương cũng như những sự rối loạn trong thiên nhiên đã thúc bách Pharaô
sớm thực hiện cuộc phóng thích đó. Nhưng ông vẫn chống lại cho đến khi tai họa
cuối cùng giáng xuống ông mới đầu hàng : Sự giết chết tất cả những con đầu lòng
của người Aicập. Ðêm trước khi xảy ra việc này, dân Israel đã được lệnh giết
một con chiên cho mỗi gia tộc, lấy máu nó bôi lên cửa, ăn một cách hối hả sẵn
sàng để ra đi bất cứ lúc nào. Cái chết đã giáng xuống cho tất cả các con đầu
lòng đất Aicập những vẫn vượt qua một cách vô hại trước những cánh cửa người
Israel có bôi máu. Ðây là sự VƯỢT QUA đầu tiên, giây phút quyết định của cuộc
giải phóng, giây phút không bao giờ được quên trải qua các thế kỷ kế tiếp,
Pharaô buộc lòng phải phóng thích các người nô lệ và để cho họ ra đi.
Dân Israel trốn vào samạc đi thẳng về
phía đông, có một con đường thẳng và gần dẫn vào đất Canaan, mục tiêu cuối cùng
của những người trốn thoát. Nhưng Môsê không chịu dùng con đường ấy. Có lẽ ông
thấy rõ ràng rằng con đường đó sẽ giúp cho ông và những người tùy tùng đi nhanh
hơn, nhưng nó cũng sẽ giúp cho các xe trận của Pharaô càng đi nhanh hơn nữa
trong trường hợp ông này thay lòng đổi dạ. Và quả thật như thế, Pharaô đã đổi
ý. Ai cũng biết rằng tất cả các nước đều rất ngần ngại khi phải để mất đi sự
phồn vinh được xây đắp bằng công phu của những người nô lệ. Lực lượng của
Pharaô đuổi theo dân Israel, bắt kịp họ nhưng rồi bị tiêu diệt bởi việc nước
Biển Ðỏ khép lại rất nhanh chóng, biển này do một hiện tượng thiên nhiên lạ
lùng gây nên bởi quyền phép Thiên Chúa, đã để cho dân Israel đi qua an toàn.
Ðây là hành động thứ nhì của Thiên Chúa mà những người nô lệ trốn thoát này
cũng như tất cả con cháu của họ không bao giờ được quên (hành động thứ nhất là
sự vượt qua). Bằng cách bày tỏ quyền năng một cách lạ lùng như thế, Thiên Chúa
đã cứu họ thoát khỏi một đế quốc mạnh mẽ nhất thời ấy. Qua những phép lạ như
thế, Thiên Chúa đã bày tỏ quyền năng của Ngài cũng như lòng từ bi và sự luôn
luôn có mặt của Ngài.
Sách "Xuất Hành" vì quá bận
tâm đến khía cạnh linh thiêng của các sự việc, đến những gì Thiên Chúa đã làm
cho dân Israel, cho nên nó hoàn toàn bỏ qua những điểm mà độc giả thời nay rất
quan tâm. Chẳng hạn, ai là Pharaô trong thời Xuất Hành thoát khỏi đất Aicập ?
Sự giải phóng đã xảy ra khi nào ? Sự vượt qua biển đã xảy ra nơi nào ? Thánh
Kinh không trả lời những câu hỏi như thế, nhưng những học giả ngày nay, được
trang bị bằng những dụng cụ nghiên cứu lịch sử và khảo cổ học, tin rằng họ có
thể trả lời được.
Cuộc xuất hành thường được cho là đã
xảy ra vào hạ bán thế kỷ thứ XIII trước Thiên Chúa giáng sinh, dưới thời vua
Pharaô Ramesès II. Ông này có 79 người con trai và 59 người con gái, điều này
dường như ăn khớp hoàn toàn với nội dung văn bản thuật lại những cuộc mạo hiểm
của dân Israel. Việc Môsê được vị công chúa Aicập cứu thoát cho thấy : Cung
điện của vua nằm ở phía bắc gần đồng bằng dân Israel ở, và nói đó là cung điện
của Ramesès, tên của thành phố đã được dân Israel xây cất mang tên là Ramesès,
có ngụ ý ông vua này là một người rất say mê việc xây cất. Những đặc điểm khác
nữa cũng chứng tỏ đó là thế kỷ thứ XIII : Môsê được nói đến như là một người
đồng thời với vua Moab, và các nhà khảo cổ ngày nay đã tuyên bố rằng vương quốc
Moab được khai sinh vào thế kỷ XIII. Vậy đặt Môsê và cuộc xuất hành vào khoảng
1250 trước TCGS có lẽ là đúng nhất.
Sự vượt biển thường được cho là đã xảy
ra ở phía trên phần chính của Biển Ðỏ, nơi sình lầy giữa vùng nước Biển Ðỏ và
hồ Timsah về phía bắc. Trong văn bản (Hippri) biển đã vượt qua được gọi là Yam
Suph, có nghĩa là Biển Sậy, điều ấy cho thấy : chỗ đó là một vùng sình lầy
Chính do những biến cố trong cuộc xuất
hành mà Môsê được gọi là vị cứu tinh của Israel. Ðây là tước hiệu thứ nhất
trong hai tước hiệu cao quý của ông. Khi nói đến việc Môsê dẫn đưa dân Israel
ra khỏi Aicập, chúng ta phải hiểu rằng từ ngữ Israel có nghĩa là một đám dân
chúng hỗn tạp. Ða số là thuộc dòng giống Yacop-Israel, nhưng chắc là cũng có
những dòng họ khác nữa, từng cá nhân hoặc từng nhóm, đã lợi dụng cơ hội để trốn
thoát khỏi ách nô lệ, chỉ khi ở trong sa mạc, nhóm này mới chấp nhận một nếp
sống chung, một mục đích chung, một luật pháp chúng và một sự lãnh đạo chung.
Và như thế, đám dân chúng ấy sẽ trở thành dân tộc.
DÂN TỘC TRỞ THÀNH TÔN
GIÁO (Ðọc
Xuất Hành các chương 19 - 20 về lễ kết ước và Thập giới ; chương 24 về sự thừa
nhận lễ kết ước ; chương 25, 1 - 27, 2 về Khám Giáo Ước và Nhà Tạm để làm nơi
Thiên Chúa hiện diện).
"Mồng một tháng thứ ba, kể từ khi
con cái Israel ra khỏi Aicập, chính trong ngày ấy họ tới sa mạc Sinai. Họ đã
trẩy đi khỏi Raphiđim và đã đến sa mạc Sinai và đóng trại trong sa mạc. Israel
đã đóng trại ở đó, đối diện với núi. Môsê đã lên với Thiên Chúa" (Xh, 19.
1 - 3).
Những dòng trên đây mở đầu biến cố thứ
nhì có tầm quan trọng vĩnh viễn và sâu xa trong cuộc đời Môsê. Ông đã chứng tỏ
ông là vị cứu tinh của Israel mà nếp sống và mục đích chung đã luyện, cho họ
trở thành một dân tộc ; giờ đây ông đã trở thành vị trung gian giữa dân Israel
và Thiên Chúa.
"Vậy bây giờ, nếu các ngươi quyết
nghe tiếng Ta mà giữ giao ước của Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta giữa
các dân hết thảy", vì toàn cõi đất đều là của Ta. còn các ngươi, các ngươi
sẽ làm một vương quốc tư tế cho Ta, một Dân Thánh" (Xh 19, 5 - 6).
Ðó là những lời Thiên Chúa phán với
Môsê. Từ ngữ "kết ước", như chúng ta đã thấy đối với Abraham có nghĩa
là thỏa hiệp, giao kết. Thiên Chúa bày ra lễ kết ước và quy động những yếu tố
thành phần của nó. Ðiều căn bản trong đó là Thiên Chúa đã đoái thương trở nên
Người Cha của dân tộc này, và nó trở thành con của Ngài. Israel là con của Ta,
con đầu lòng của Ta, đó là Lời Thiên Chúa trong Xuất Hành chương 4 câu 23. Ðể
bảo chứng thỏa hiệp này, Môsê lấy máu những con bò đực tơ, rảy phân nửa lên bàn
thờ đại diện cho Thiên Chúa, và rảy phân nửa kia lên đầu dân chúng. Qua hành
động tượng trưng này Thiên Chúa và dân chúng rở thành một gia đình, những người
cùng máu huyết. Những lời của Môsê rất quen thuộc đối với những người Công
Giáo, bởi vì rất giống những lời truyền phép trong thánh lễ : "Này là máu
giao ước đã kết với các ngươi, thể theo mọi lời ấy" (Xh 24, 8).
Như một người cha, Thiên Chúa hứa bảo
vệ dân Ngài ; như một đứa con, dân thì hứa vâng phục Cha Chí Thánh của mình. Ý
muốn của Ngài đã được bộc lộ rõ trong Thập Giới, đó là gioớil uật căn bản đã
ban cho dân Israel. Giới luật này, hoặc toàn bộ các giới luật, chỉ là sơ đẳng,
là một thứ luân lý có thể vừa tầm một dân tộc thô sơ vừa mới thoát ách nô lệ
lâu năm ở một nước ngoại giáo. Mỗ giới răn đều đặt nền tảng trên nhân đức rõ
rệt nhất và tự nhiên nhất, đó là sự công bằng, hay sự tôn kính những quyền lợi
của tha nhân. Ba giới răn đều liên quan đến những điều phải có đối với Thiên
Chúa : Sự độc tôn, sự kính trọng và sự hiến dâng một ngày trong tuần. Bảy giới
răn còn lại liên quan đến quyền lợi của tha nhân : quyền lợi của cha mẹ là
những người phải được con cái tôn kính vì đã sinh ra chúng, quyền lợi của mỗi
người đối với tài sản, với vợ chồng mình và danh giá của mình. Tuy những giới
răn này thật là chất phác và tự nhiên, nhưng chúng cũng biểu lộ rõ ràng mối
quan tâm của Thiên Chúa đối với luân lý của loài người. Những điều công bình
đơn giản như thế đã từng làm nền tảng qua bao nhiêu thế kỷ cho quy ước luân lý
cao thượng nhấ trên thế giới, trước ngày Ðức Kitô ra đời.
Những yếu tố khác của lễ kết ước này
cũng đáng chú ý. Rõ rệt nhất là Khám Giáo Ước và Nhà Tạm. Khám Giao Ước là vật
sở hữu giá trị nhất và dễ sắm của dân Israel. Rất đơn giản, nó là một cái khám
bằng gỗ keo, hai xích rưỡi chiều dài và một xích rưỡi chiều rộng, một xích rưỡi
chiều cao. Nó được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài, và bên trong nó chứa
đựng những phiến Bia Thập Giới và có lẽ cũng có một ít man-na trong sa mạc cũng
như chiếc gậy của Aarôn. Nhưng còn quan trọng hơn những vật nó chứa bên trong
nhiều, đó là cái bản bằng vàng ròng bên trên Khám, chiều dài và chiều rộng đều
y như Khám. Ở hai mút` có trang trí hai Kêrubim. Cái bàn này gọi là "Bàn
xá tội", máu các vật hy tế sẽ được vị thượng tế rảy trên bàn ấy trong ngày
xá tội. Nhà Tạm là chiếc lều bao bọc Khám, được làm bằng một khung gỗ với những
tấm màn che. Chúng ta được thuật lại rằng khi Môsê đã làm xong Khám và lều Nhà
Tạm, và đặt cái này bên trong cái kia, thì "Ðám mây đã phủ Trướng Tao Phùng
và vinh quang Yavê đầy Nhà Tạm" (Xh 40, 34). Chiếc Khám quả thật đã có một
mục đích lưỡng diện : nó chứa đựng phiến bia ghi Lời Thiên Chúa, và quan trọng
hơn nữa, nó là nơi cư ngụ của Yavê, là ngai của Ngài hiện diện đặc biệt nơi
trần thế giữa dân của Ngài.
Khi chúng ta xem kỹ những yếu tố của
Giao Ước - mối tình liên hệ cha và con, sự Thiên Chúa và dân của Ngài ràng buộc
thành một gia đình, máu cộng đồng, ý muốn của Thiên Chúa được tỏ bày trong Giới
Răn và sự Thiên Chúa hiện diện cách thân mật giữa dân Ngài - tất cả những yếu
tố đó mà người Israel gọi là giao ước, thì chúng ta sẽ gọi được là tôn giáo
giao ước xưa nay là giao ước với Môsê, có nghĩa là tôn giáo xưa hay tôn giáo
thời Môsê, chúng ta có được nói như thế. Tư tưởng sơ đẳng đằng su từ ngữ tôn giáo
là một sự ràng buộc chung giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước mà Thiên Chúa
đã lập với dân Ngài quả thật có mục đích đó. Thiên Chúa và loài người ràng buộc
với nhau như cha con. Ý của Cha đã thể hiện, người con hứa tuân theo. Và người
cha ở lại với con đầu lòng của mình. Vậy cái tôn giáo mà Môsê df9ã truyền lại
cho dân Israel đúng là một tôn giáo đầy đủ mọi khía cạnh.
Còn một nét nổi bật nữa trong tôn giáo
này : Sự thờ phụng bằng lễ tế. Lễ tế có nhiều kiểu cách khác nhau, nhưng một
vài loại tổng quá chứng tỏ rằng chúng ta đã có từ thuở ban đầu của tôn giáo
này. Có lễ hy tế trong đó toàn thể vật hy tế được lửa thiêu hủy trên bàn thờ :
hy lễ thông hiệp trong đó một phần vật hy tế được thiêu hủy, phần còn lại dành
cho các vị tư tế và người dâng lễ để họ chia sẻ với gia đình và bạn bè trong
một bữa ăn cộng đồng : HY lễ xá tội trong đó sự rảy máu là một yếu tố nổi bật
hơn cả : sự dâng rau quả (bột mỳ, trái cây đầu mùa), sự dâng hương và bánh lễ,
bánh lễ này gồm 12 miếng bánh mỳ xếp đặt thành hai hàng trên bàn trong Nhà Tạm.
Vào cuối tuần, các tư tế sẽ ân những bánh ấy, rồi làm lại những cái khác, chúng
tượng trưng cho lời thề hứa giữa 12 chi tộc Yavê.
Những lễ tế này có một ý nghĩa rất sâu
xa đối với dân Israel, chúng được coi như là những vật cống hiến cho Vị có
quyền trên muôn vật. Những của lễ thông hiệp càng làm tăng ý niệm hợp nhất. Như
những lời giao ước ngày xưa đã được bảo chứng bằng một bữa ăn cộng đồng, cũng
vậy, lời giao uớc này tức là tôn giáo giữa Thiên Chúa và gia đình của Ngài, đã
được tăng cường bằng một bữa ăn mà Thiên Chúa, các vị tư tế và gia đình cũng
như bằng hữu của người dâng lễ đều tham dự. Lễ xá tội cho thấy rằng mọi người
đều có sự ước muốn căn bản được đền tội. Tội lỗi là do sự lạm dụng những tạo
vật của Thiên Chúa, do đó nó phải được đền bù lại bằng cách tự ý khước từ ngay
cả một vài sự sử dụng chính đáng các tạo vật.
Sau khi đã thêm lời phụ chú như thế về
lễ tế, thì những yếu tố của tôn giáo thời Môsê nói được là đầy đủ. Lịch sử cứu
độ của thế giới đã bắt đầu một giai đoạn mới trong tiến trình của con người trở
về Thiên Chúa và sự THIỆN HẢO của Thiên Chúa mà con người đã bỏ rơi, khi mở cửa
cho tội lỗi bước vào thế giới. Vai trò của Môsê trong việc truyền tôn giáo này
lại cho loài người là vinh dự lớn lao nhất của ông. Ông vừa là vị cứu tinh vừ
là người trung gian, và chắcc hắn là nhiệm vụ thứ hai này quan trọng hơn nhiệm
vụ thứ nhất nhiều.
Một điểm nữa về Môsê cũng cần được nhấn
mạnh, không những ông chỉ là vị cứu tinh và người trung gian, ông còn là vị
tiên tri nữa. Tiên tri chỉ là một người nói thay cho người khác, một phát ngôn
viên. Môsê là tiên tri của Thiên Chúa bởi vì ông nói thay cho Thiên Chúa, ông
turyền đạt lại cho loài người những lời Thiên Chúa phán, sách "Thứ
Luật" chương 18 câu 15 chứa đựng một lời hứa quan trọng của Môsê liên quan
đến vai trò tiên tri của ông :
"Thiên Chúa sẽ cho chỗi dậy một
tiên tri như tôi, giữa anh em các ngươi, cc1 ngươi hãy nghe lời vị đó".
Lời hứa của Yavê nói về vị tiên tri như
ông là một lời hứa mà dân vẫn ghi nhớ xuyên ua các thế kỷ kế tiếp. Trong lịch
sử của Israel về sau, sẽ có nhiều tiên tri, mỗi vị như Mosê đều giữ vai trò
phát ngôn viên cho Thiên Chúa, mỗi vị hoàn thành một phần nào lời hứa trong
"Thứ Luật" chương 18 câu 15. Tuy nhiên dân Israel vẫn tiếp tục chờ
mong một vị tiên tri xuất chúng, một Môsê mới, vị đó sẽ là thiên sứ tối hậu của
Thiên Chúa.
Sự xuất hành khỏi nước Aicập và những
biến cố tôn giáo trên đỉnh núi Sinai là hai biến cố trung tâm trong lịch sử
Israel mà muôn đời phải ghi nhớ, chúng làm thành nền tảng cho sự tôn thờ cộng
đồng của dân chúng (nghi lễ) và đời sống cầu nguyện, cả hai đều là những việc
để tưởng niệm quá khứ, đồng thời để bảo đảm sự trợ lực cho hiện tại và tương
lai. Xuyên qua sự tổ chức nghi lễ của hai biến cố này, những người Israel ở mọi
thế kỷ đều có thể đích thân bước vào lời giao ước giữa Thiên Chúa và lễ tiến
của họ. Nhất là sự xuất hành được nhắc lại hàng năm trong đời sống của mỗi
người Israel. Hàng năm nghi lễ vượt qua đã từng chứng kiến quang cảnh những gia
đình đứng vây quanh bàn ăn, và những người đàn ông trong tư thế sẵn sàng ra đi,
chân mang dép, tay cầm gậy, áo xăn lên, ăn chiên phục sinh với rau đắng và bánh
không men. Sự nhắc lại nghi lễ này là một việc biểu dương hàng năm niềm tin ở
Thiên Chúa nhân từ và phép tắc, Ngài đã dân dắt dân Ngài ra khỏi tù đày, đưa
vào đất Ngài đã hứa với Abraham và miêu duệ của ông. Trọng tâm của nghi lễ này
rất rõ ràng trong Xuất Hành, chương 12, câu 24 - 27 :
"Các ngươi sẽ giữ điều ấy làm luật
điều cho các ngươi và con cái các ngươi đến vạn đại. Vậy khi các ngươi đã vào
đất Yavê sẽ ban cho các ngươi, như Ngài đã phán, và các ngươi giữ việc đạo này,
mà xảy ra là con cái các ngươi sẽ hỏi các ngươi : là gì vậy, việc đạo đức các
ngươi giữ đó ? Thì các ngươi sẽ nói : "Ðó là lễ tế chiên vượt qua dâng
kính Yavê, Ðấng đã nhảy ngang qua nhà con cái Israel ở Aicập khi Ngài đánh phạt
Aicập và cứu thoát các nhà chúng ta".
Một sự biểu dương đức tin tương tự như
thế cũng được thấy trong nghi lễ hiến dâng lễ đầu mùa :
"Tư tế sẽ lấy giỏ tự tay ngươi và
ngài sẽ đệ lên trước tế đàn của Yavê Thiên Chúa của ngươi. Bấy giờ ngươi sẽ
xuớng lên và nói trước nhan Yavê Thiên Chúa của ngươi : "Cha tôi là người
Aram phiêu lạc ; ngài xuống Aicập và đã ngụ nhờ ở đó, với ít mạng người ; nhưng
ở đó ngài đã nên một nước lớn lao, hùng hậu và đông đảo. Rồi người Aicập đã xử
ác nghiệt với chúng tôi, và đặt chúng tôiu lao động cực khổ. Và chúng tôi đã
kêu lên với Yavê Thiên Chúa của tổ tiên chúng tôi, và Ngài đã nghe tiếng chúng
tôi : Ngài đã nhìn đến cảnh đọa đày, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. Và
Yavê đã đem chúng tôi ra khỏi Aicập với tay mạnh, cánh tay giương với khiếp đảm
lớn lao, với dấu lạ và điềm thiêng, Ngài đã đem chúng tôi đến chỗ này ; Ngài đã
ban cho chúng tôi đất này, đất chảy tràn sữa mật". (Thứ Luật 25, 4 - 9).
Ðoạn văn này có thể được coi là
"Kinh Tin Kính" của dân Israel, một bản tóm lược thật sự những điều
họ biết về Thiên Chúa và về tính cách tôn giáo của họ.
Những nghi lễ trọng thể nhắc lại lời
giao ước trên núi Sinai thường xuyên được tổ chức trong lịch sử kế tiếp của dân
ấy. Khi Yôsua đã thành công cuối cùng trong việc đưa các chi tộc vào Ðất Hứa,
ông đã tổ chức một nghi lễ nhắc nhở lại để cho những người tùy tùng của ông,
vốn không được sống torng những ngày xảy ra biến cố cảm động ở núi Sinai cũng
có thể tự mình công nhận cái tôn giáo đã ràng buộc họ với Yavê (xem Yôsua,
chương 24). Việc Salômon hiến dâng đền thánh như đã ghi chép trong "Sách
Các Vua" chương 8, câu 54 - 61 là một ví dụ khác về sự nhắc lại trọng thể
lời giao ước. Nhưng cách tầm thường nhất để nhắc lại những hành động linh
thiêng này trong tâm trí của dân chúng là sự đọc Thánh Vịnh hàng ngày. Rất
nhiều bài Thánh Vịnh ca ngợi Thiên Chúa đã giải thoát dân Ngài khỏi Aicập và đã
hợp nhất họ lại với Ngài như thể là con đầu lòng của Ngài. Những Thánh Vịnh 110
(111) ; 77 (78) và 104 (105) chỉ là một vài ví dụ trong những câu kinh có công
dụng nhắc nhở như thế.
Bây giờ chúng ta có thể nhìn lui lại để
thử xem gia đình của Abraham, Isaac và Yacob-Israel đã bành trướng đông đảo như
thế nào trong suốt thời kỳ cư ngụ ở Aicập ; gia đình ấy đã trở thành một dân
tộc chung trong sa mạc như thế nào ; và dân tộc này đã trở thành một đoàn thể
tôn giáo như thế nào, xuyên qua những hành động diệu kỳ của Thiên Chúa trên bán
đảo Sinai. Dân tộc này đã phải chịu nhiều năm nóng nực, lạnh lẽo, đói khát
trong sa mạc, nhưng tính tình của họ dã trở nên thuần thục. Những năm có kỷ
luật sau đó chỉ là những năm tiếp tục công trình giáo dục. Ðó là những năm huấn
luyện, huấn luyện sự vâng phục, nhất là huấn luyện sự tin cậy ở sự quan phòng
của Thiên Chúa, bởi vì sự phồn vinh vật chất của Môsê và của những người theo
ông, đều hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Ðó là những năm phục vụ trung
thành, nhưng rủi thay cũng bị hoen ố bằng những thời kỳ thất tín. Chính bản
thân Môsê cũng đã có lần mất tin tưởng, vì thế ông không được ân huệ đặt chân
vào Ðất Hứa và dẫn đưa dân vào đó. Toàn thể câu chuyện được thuật lại trong
sách Dân Số và sách Thứ Luật, hai quyển sách này, cùng với sách Khởi Nguyên,
sách Xuất Hành, sách Lêvi, được gọi là Ngũ Kinh của Môsê. Sau những năm dài thử
thách trong sa mạc, ông và dân của ông đã tới một địa điểm nằm ngay ở phía đông
Canaan. Ở đó Môsê leo lên núi Nêbô trên vùng cao nguyên xứ Moab, từ đó ông có
thể đưa mắt nhìn về phía tây qua bên kia sông Yođan, nhìn vào Ðất Hứa.
Và Yavê phán với Môsê : "Ðó là Ðất
Ta đã thề với Abraham, Isaac và Yacob rằng : Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi
! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó !" Và Môsê tôi
tớ Yavê đã chết ở đó, trong xứ Moab, theo lịnh Yavê, và người ta đã chôn cất
ông torng thung lũng, ở xứ Moab, trước mặt Bet-pơor, nhưng không ai biết được
mộ ông cho tới ngày nay. Môsê thọ được 120 tuổi khi ông chết, mắt ông không lòa
và khí lực không giảm. Con cái Israel đã khóc Môsê trong đồng bằng Moab ba mươi
ngày, sau những ngày khóc tang Môsê đã mãn, trong dân Israel không còn chỗi dậy
một tiên tri nào như Môsê, kẻ đã được Yavê biết đến diện đối diện, không một ai
sánh được với ông về các dấu lạ điềm thiêng mà Yavê đã sai ông làm ở đất Aicập
trên Pharaô và tất cả bầy tôi và quyền lực kinh khủng Môsê đã biểu dương trước
mặt toàn thể Israel (Thứ Luật 34, 4 - 12).