SỰ CHIA RẼ VƯƠNG QUỐC
***
SALÔMON (Ðọc 3V, 1 - 11).
Salômon con trai của Bat-shêba,
được chọn làm vua thể theo quyết định trên giường lâm chung của Ðavít ; người
anh của Salômon là Ađônyah thì không được chỉ định, Salômon tiếp tục công việc
Ðavít đã bỏ dỡ. Triều đại ông đã nổi tiếng lẫy lừng về sự vinh quang phú quí .
Có biệt tài về những đường lối thế tục, ông đã bước vào thị trường thương mại
quốc tế và đem lại sự phồn vinh cho Yêrusalem. Hàng trăm chiếc xe trận đã tậu
được với hàng ngàn con ngựa. Di tích những chuồng ngựa đã được tìm thấy tại
thành Mêgiđô trong cuộc khai quật tối tân, chứng tỏ rằng điều mô tả trong 3V.
10, 26 không phải là những lời có tính cách yêu nước quá đáng.
"Salômon tậu dàn xe cộ và
ngựa : Ông có một ngàn bốn trăm cỗ xe và mười hai ngàn con ngựa ; ông dồn chứa
trong các thành để xe và gần bên vua ở Yêrusalem". Lương thực chi dụng
trong nhà của ông là "Ba mươi gánh bột tinh lúa miến và sáu mươi gánh bột
mỳ, mười bò béo nẫy và hai mươi bò chăn ngoài đồng, một trăm dê cừu không kể
hươu nai, hoẳng, cu cu nuôi béo" (3V. 4, 22 - 23).
Chúng ta đọc thấy rằng nữ hoàng
Saba đã phải kinh ngạc khi trông thấy "sự thịnh soạn nơi bàn ông, chổ ở
của triều thần, hàng ngũ quân hầu và y phục của họ, các quan chước tửu của ông,
cùng những lễ thượng hiến mà dâng tiến nơi nhà Yavê". Sự giàu sang phú quý
của ông tiêu biểu cho các triều đình thời xưa, và trái ngược hẳn với sự đơn
giản của thủ đô vua Saul ; đó là chưa nói gì đến sự nghèo đói cùng cực mà Môsê
và dân chúng phải trải qua nhiều năm trong sa mạc, trong thời kỳ xuất hành. Sự
phồn vinh này che đậy một câu chuyện đáng thương tâm về những sưu cao thuế nặng
mà người bình dân trong mỗi thị tộc phải gánh chịu, câu chuyện ngàn đời về
người giàu trở nên giàu hơn và người nghèo lại càng nghèo mạt là một thực tế
hàng ngày trong suốt đời vị vua quá xa hoa này.
Mặc dầu quá say mê sự phù phiếm
thế trần, vua Salômon cũng góp phần vào lịch sử cứu độ và vào sự phát triển tôn
giáo Môsê, trong đó ơn cứu độ được tiềm tàng. Trong khoảng thời gian bảy năm
(khoảng 960 - 953 trước TCGS) ông dồn sức lực vào việc xây cất một đền thờ cho
Thiên Chúa, trên sân đập lúa của Araunah mà Ðavít, cha của ông, đã mua trước
kia . Vật liệu hảo hạng nhất đã tìm được gỗ bá hương cao vút của xứ Liban phía
bắc. Vua xứ này tên là Khiram, đã gửi những người thợ tài khéo nhất của ông đến
để giúp xây cất. Ðền thờ rất đơn giản về hình thể : Nó hình chữ nhật, không có
gì là to lớn đối với tiêu chuẩn thời nay, độ 60 xích chiều dài, 20 xích chiều
rộng. Ðược chia làm ba phần chính : một tiền đình, một chính điện và một hậu
tẩm, nơi Cực Thánh. Khám Giao Ước được đặt vào giữa cảnh thâm u của hậu tẩm.
Khi được đặt vào Hậu Tẩm và khi đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa đã bao
phủ trên nó, thì Khám Giao Ước trở thành một vật cao quý nhất trong nơi thánh
thiện nhất trên thế giới. Chỉ một mình vị thượng tế mới được phép vào chốn thâm
cung của nó, mỗi năm chỉ được một lần mà thôi, vào dịp lễ xá tội được cử hành
cách trọng thể.
Nghi lễ thờ phụng chung quanh
Khám đã có dưới thời Ðavít trước kia, được cải thiện cho hoàn hảo hơn. Thánh
Kinh nói : "Các Lêvít ca sĩ, tất cả nhóm Asaph, Hêma, Giơđutun, các con
cái và anh em họ đều mặc lụa là đứng sẵn với chũm chọe, đàn sắt, đàn cầm, ở
phía đông tế đàn, và bên cạnh họ là 120 tư tế thổi loa. Vậy khi tất cả như một,
họ thổi loa ca hát, đồng thanh cất tiếng ngợi khen cảm tạ Yavê, và trổ tiếng
loa, chũm chọe và nhạc khí mà ngợi khen Yavê (2Ks. 5, 12 - 13).
Những nghi thức bên ngoài của
tôn giáo Môsê cứ như thế mà phát triển. Những nghi thức đó cũng có thể trở
thành kiểu cách bên ngoài mà thôi (đó là mối nguy hiểm mà mọi tôn giáo đều
gặp), nhưng nó chứng tỏ lòng ước ao của vua cũng như của dân chúng muốn dâng
lên Thiên Chúa cái đẹp của ca nhạc và nghi lễ. Tính cách thiêng liêng của
Salômon, vị vua thuộc dòng Ðavít và là con của Thiên Chúa, được nổi bật qua
đoạn văn mô tả sự dâng hiến đến thánh như sau :
"Khi Salômon đã nguyện xong
với Yavê tất cả lời khấn nguyện van xin ấy, thì ông đứng dậy trước khỏi tế đàn
Yavê, nơi ông quì gối và giương tay lên trời, đoạn ông đứng mà chúc lành lớn
tiếng cho toàn thể đoàn hội Israel .
Ngày ấy vua đã tác thành khoảng
giữa tiền đình trước nhà Yavê, ở đó ông đã thượng hiến đồ cúng, và dàn mở lễ tế
kỳ an." (3V. 8, 54 - 55, 64).
Trong khung cảnh đó, Salômon
hành động như là một tư tế hơn là một vị vua. Nói cho đúng hơn, ông đã hành
động như một vị vua có tính cách tư tế, đang ở một địa vị đặc biệt giữa Thiên
Chúa và loài người, địa vị đó đã được ban cho các vua dòng dõi Ðavít qua lời
tiên tri Nathan. Trong mỗi tường hợp như thế, chắc là dân chúng đã tự hỏi :
Phải chăng chính Salômon là vị vua, con của Thiên Chúa, là kẻ đã được hứa ban
cho một vương quốc vừa vĩnh cửu vừa phổ bác.
Salômon cũng đã ảnh hưởng đến sự
phát triển của tôn giáo Môsê do những lời khôn ngoan ông đã nói và đã viết.
Truyền thống Thánh Kinh nhấn mạnh nhiều về sự khôn ngoan sâu xa của ông, và
những câu cách ngôn ông đã phát biểu.
"Ông khôn ngoan hôn tất cả
mọi người trong thiên hạ. Hơn Etan, Egrakhi và Hêman, hơn Kalrol và Ðarđa con
của Makhôl. Tên ông vang đến tất cả các dân chung quanh. Ông cũng đã truyền
3000 cách ngôn, và thi cả của ông tính đến 1005 bài (3V. 4, 31 - 32). Theo Linh
mục Thế Thuấn thì (1V. 5, 11 - 12).
Nhiều câu cách ngôn của Salômon
chắc chắn là đã được truyền lại xuyên qua nhiều thế kỷ tiếp, và đã tới tay
chúng ta dưới hình thức "Sách Cách Ngôn" và những Thánh Vịnh.
Tuy vậy, vị vua con của Thiên
Chúa, con người khôn ngoan và hòa bình này, đã kết liễu bằng một tôn giáo bi
thảm, bị xấu hổ thẹn thùng vì tính say mê sắc dục vô độ của ông. Các bà vợ và
hầu thiếp của ông đếm được hàng chục, hàng trăm, nhiều bà thuộc ngoại giáo, và
họ mang theo sự tôn thờ những vị thần tà giáo của họ. Việc Salômon chấp nhận
cách thụ động những thể thức ấy chính là đầu mối sự tội của ông. Và cuoối cùng
ông đã thực sự tham gia vào việc cúng bái các tà thần đó.
"Vua Salômon yêu nhiều gái
ngoại bang, công chúa của Pharaô, các con cái Moab, Ammon, Eđom và Hít-tít .
Salômon trắn tríu yêu thương chúng nó. Ông có 700 thê thất và 300 hầu thiếp, và
chúng đã làm xiêu lạc lòng ông. Khi Salômon đã già, thì các vợ ông làm xiêu
lòng ông theo các thần khác. Lòng ông không còn đơn thành với Yavê Thiên Chúa
của ông như lòng của Ðavít cha ông. Salômon đã đi theo Astoret của dân Siđôn,
Milkom, đồ tởm của dân Ammon. Bấy giờ Salômon đã xây cao đàn cho Kamosh, đồ tởm
của Moab, trên núi phía đông Yêrusalem. Ông cũng làm như thế cho tất cả các vợ
ngoại bang, những người muốn huân yên tế lễ cho các thần của họ (3V. 11, 1 -
8).
Thiên Chúa không làm ngơ trước
thái độ khinh thường này của vị vua, con của Ngài, và hình phạt chẳng bao lâu
đã xuất hiện. Vương quốc hùng cường và phồn thịnh của Salômon chỉ tồn tại ít
lâu sau khi ông chết :
"Bởi đã nên thế ấy nơi
ngươi, và ngươi đã không giữ Giao Ước của Ta và các luật điều Ta đã truyền dạy
ngươi, Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi . Song Ta sẽ không làm thế vào ngày
đời ngươi, nhân vì Ðavít cha ngươi, nhưng Ta sẽ xé nát khỏi tay con ngươi. Có
điều là Ta sẽ không xé nát tất cả nước, Ta sẽ ban cho con ngươi một chi tộc vì
Ðavít tôi tớ của Ta, và chỉ Yêrusalem Ta đã chọn" (3V. 11, 11 - 13).
Thế rồi Salômon chết, khi đã già
và hư hỏng, vương quốc phồn thịnh và tội lỗi của ông gần như bị tiêu tan.
SỰ LY KHAI (Ðọc 3V. 12, 1 -
33).
Sự thống nhất vương quốc của Salômôn bị tiêu tan ít lâu
sau khi ông chết, vào khoảng 932 trước TCGS, người kế vị là Roboam con ông, hãy
còn trẻ tuổi và rất ít sự khôn ngoan lẫy lừng của vua cha. Chính tại thành
Sikem ở phía bắc, đã được cung hiến để tưởng nhớ các vị tổ phụ, là nơi bùng nổ
vấn đề về tài chính, một vấn đề vốn đã âm ỉ từ thời Salômon hãy còn sống. Ðó là
vấn đề liên quan đến sưu dịch mà Salômon bắt mỗi chi tộc phải đóng góp để có đủ
tài chính và công nhân đáp ứng cho các chương trình xây cất vĩ đại của ông.
Khi Rôbôam lên ngôi, người ta hy
vọng rất nhiều ở một chính sách dịu dàng hơn và nhất là được giảm bớt sưu thuế.
Bên cạnh lòng ước muốn cải cách ấy còn một dòng thác sâu xa hơn, đó là sự ganh
tỵ cổ truyền giữa miền nam và miền bắc. Mối ganh tỵ này đã nằm yên dưới triều
đại của Ðavít, và đã bắt đầu khuấy động lại dưới thời Salômon, bây giờ trở
thành hiển nhiên khi Rôbôam đến Sikem để dự nghi lễ tấn phong. Có người cho
rằng những sắc thuế nặng nề của Salômon không đánh trên chi tộc Yuđa ở miền
nam. Nếu đúng như thế, thì những chi tộc ở miền bắc đã phải chịu tất cả cái
gánh tài chánh nặng nề cho những chương trình của Salômon. Vậy những chi tộc
miền bắc yêu cầu vị vua trẻ tuổi Rôbôam giảm bớt sưu thuế. Rôbôam không phải là
một con người khôn lanh về chính trị, và ông đã tỏ ra dửng dưng trước những yêu
cầu của thời đại và nộ khí của dân chúng, thay vì giảm bớt sưu thuế, ông tuyên
bố sẽ tăng thêm. Và ông đã tăng sưu thuế. Dưới sự lãnh đạo của Yêrôbôam, một
người đã từng phục dịch vua Salômon, thuộc chi tộc Ephraim (dĩ nhiên là người
miền bắc), toàn thể miền bắc nổi dậy chống miền nam và đòi ly khai. Những chi
tộc miền bắc đã phá vỡ sự thống nhất với những tiếng la ó :
"Nào ta có phần nào với
Ðavít ?
Không khoản nào với Ysai !
Israel hỡi ! Hãy lui về lều !
Hãy liệu lấy nhà ngươi, hỡi
Ðavít !
Rôbôam chỉ còn làm vua trên một
phần vương quốc của cha ông và của ông nội ông, chỉ kiểm soát được chi tộc Yuđa
và một số phần tử thuộc các chi tộc Benjamin và Simêon. Công trình chính trị
của Saul, Ðavít và Salômon đã bị đổ nát, và dân Israel sẽ không bao giờ còn
được biết một vương quốc thống nhất gồm cả mười hai chi tộc như dưới triều đại
ba vị vua đầu tiên của bọ.
Một torng những hành động đầu
tiên, một hành động nguy hiểm nhất mà Yêrôbôam đã thực hiện trong vương quốc
của ông ở miền bắc (thường gọi Israel để phân biệt với vương quốc Yuđa ở miền
nam) là làm cản trở sự sùng mộ của dân chúng đối với Yêrusalem, thủ đô miền nam
về phương diện tôn giáo. Ông nhận định rằng sự hiện diện của đền thờ và Khám sẽ
luôn luôn là dịp lôi kéo các chi tộc miền bắc thống nhất với miền nam. Bởi đó
ông xây cất những đền thờ riêng, một ở Ðan về phía cực bắc của xứ ông, và một ở
Bêthel, không xa Yêrusalem bao nhiêu, ông hy vọng rằng bất cứ khách hành hương
nào từ vương quốc của ông định đi Yêrusalem để viếng đến thờ và Khám Yavê, cũng
sẽ bị quyến rũ dừng hẳn lại ở Bêthel. Tại Ðan và Bêthel ông đều cho dựng lên
những con bê vàng (chắc chắn những tượng bằng gỗ thếp vàng). Ðiều này không
phải hoàn toàn vì mục đích bái sùng ngẫu tượng. Những con bê chắc là có ý định
tiêu biểu cho ngai Yavê và tượng trưng quyền năng của Ngài, nhưng không thể nào
làm cho dân chúng nghĩ đúng như thế, bởi vì con bê cũng còn tượng trưng cho tà
thần Baal của dân Canaan, vị thần của sự sinh sản đông đảo, quả nhiên chẳng bao
lâu nhiều người đến bái lạy trước những con bê vàng, không phải vì coi như là
biểu hiệu ngai của Thiên Chúa vô hình của Israel, song họ coi như là biểu hiện
hữu hình của vị thần sinh sản đông đảo. Yêrôbôam đã mở đầu cho một tập quán tôn
giáo nguy hiểm nhất. Nhờ đó ông đã ngăn chận được dân chúng của ông, không để
họ đi hành hương đến Yêrusalem, nhưng cũng vì thế mà ông đã gieo mầm mống sự
phản bội sau này của Israel đối với Thiên Chúa chân thực của mình. Tuy nhiên sự
phản bội này sẽ không phải là không bị chống đối. Những vị tiên tri của Thiên
Chúa bước vào lịch sử của Israel ở miền bắc và Yuđa ở miền nam, để yêu cầu phải
ăn năn trở lại và để mang đến một sứ điệp thiêng liêng rất sâu xa.
CÁC TIÊN TRI TRƯỚC THỜI KỲ LƯU
ÐÀY.
TIÊN TRI CỦA ISRAEL.
Phần nhiều nghe nói đến tiên tri, người ta hay nghĩ đến
một người nói trước việc vị lai, một người có tầm mắt nhìn rất xa. Hiểu như thế
tức là chưa phân biệt rõ ràng nhiệm vụ của các vị tiên tri. Ðúng thế, ở một vài
trường hợp rất ít họ cũng nói trước những việc vị lai, nhưng thường nói một
cách bóng gió huyền bí. Nhưng nhiệm vụ chính của họ là đem đến một sứ điệp tinh
thần đúng lúc và rất rõ ràng của Thiên Chúa, đến cho vua và dân chúng họ là
phát ngôn viên của Thiên Chúa, những sứ giả của Ngài truyền lại những ời Thiên
Chúa yêu cầu dân chúng thờ đó hãy ăn năn trở lại. Sứ điệp của họ chỉ nhằm vào
thời đại họ mà thôi, nhưng chân lý và tầm quan trọng của nó ngày nay vẫn còn
giá trị.
Môsê là một tiên tri. Thật vậy
ông là sứ giả vĩ đại nhất của Thiên Chúa, trước thời Chúa Giêsu ra đời.. nhưng
kỷ nguyên của các tiên tri, một khoảng thời gian chừng 900 năm từ khoảng 1050
đến 150 trước TCGS, thật sự bắt đầu với Samuel và sự chỗi dậy của vương quyền,
tiên tri và vương quyền dường như cùng chỗi dậy chung với nhau, và cả hai đều
có sự liên hệ chặt chẽ trong nhiều thế kỷ, lý do là một trong những nhiệm vụ
chính của tiên tri là khuyên răn và cảnh cáo vua. Ðó là một nhiệm vụ bội bạc,
bởi vì các vị vua phần đông ở miền bắc (Israel) cũng như ở miền nam (Yuđa)
không phải là những người biết kính sợ Thiên Chúa và biết hoan nghênh sứ điệp
của Thiên Chúa, câu nói "phần thưởng dành cho vị tiên tri" có một
giọng điệu mỉa mai chua chát ngay từ lúc lịch sử tiên tri khởi đầu, bởi vì các
tiên tri hay bị đau khổ rất nhiều về sứ mạng của họ. Họ bị đánh đập, tù đày, sĩ
nhục, gông cùm, nhận sâu xuống bùn nhưng chỉ có một điều làm cho họ im lặng, đó
là sự chết, và thường thường họ bị giết một cách tàn bạo. Chúng ta đã thấy
Samuel đem đến sứ điệp của Thiên Chúa truất phế Saul ; và Nathan đã can đảm
khiển trách vào mặt Ðavít về tội âm mưu giết người với Batshêba. Những cuộc
chạm mặt như thế là điển hình cho mối quan hệ giữa các tiên tri và các vua kế
tiếp.
Không phải sự hoạt động của các
tiên tri chỉ hạn chế nơi các vua mà thôi. Nhiều người khác nữa cũng cảm thấy
sức mạnh của sứ điệp Thiên Chúa. Có vị đã nói (lớn tiếng và rõ ràng), những lời
phản đối các vị tư tế đã phản bội chức vị linh thiêng của mình bằng sự tham ô
và bái sùng ngẫu tượng ; phản đối những người giàu dày xéo bóc lột người nghèo,
và phản đối cả những người nghèo có lối sống lang thang sa đọa không có mục
đích, chẳng khác nào những con cừu đi theo những người chăn hư đốn, các tiên
tri lên tiếng nói với mọi người : vua, tư tế, kẻ có tước quyền, người giàu có,
kẻ nghèo hèn. Tính cách thiêng liêng mạnh mẽ trong những lời giáo huấn của họ
đã góp phần rất lớn cho tôn giáo Môsê và còn thúc đẩy tiến hơn nữa lên thời kỳ
cứu độ, trong đó con người sẽ được cứu rỗi bằng việc thờ phụng trong tinh thần
và trong chân lý.
Trước khi nói về một ít vị tiên
tri quan trọng hơn, thời kỳ trước lưu đày, thiết tưởng cũng nên tóm lược nhanh
chóng những điều giáo huấn tổng quát của họ. Những lời sấm truyền cũng như
những lời giảng dạy của các tiên tri thường tập trung vào những điểm sau đây :
* SỰ THÁNH THIỆN TRONG TÂM
HỒN. Một trong những lời thiên khải của các tiên tri (điều cần thiết cho ta
ngày nay cũng như cho chính thính giả Hippri ngày xưa đã được nghe lần đầu
tiên) là phải có một tôn giáo thực trong tâm hồn, một tôn giáo đặt nền tảng
trên sự yêu mến Thiên Chúa và vâng phục Ngài. Trong suốt thời kỳ náo loạn của
các tiên tri, dân Israel tin tưởng quá tuyệt đối ở giá trị của những nghi lễ
bên ngoài. Tâm hồn họ không muốn thờ phụng Thiên Chúa bằng cách vâng Thánh Ý
Ngài hàng ngày, bởi đó họ trấn an lương tâm bằng cách tăng thêm nhiều bàn thờ
và nhiều lễ tế. Họ phỏng đoán cách thê thảm là những việc này có thể kéo xuống
lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Sự chuộng hình thức thối nát khô khan đã
đâm rễ trong một thời kỳ khá lâu. Tiêu biểu nhất cho sự phản đối cái tôn giáo
giả tạo chỉ vụ bề ngoài như thế, là những lời lên án của tiên tri Yêrêmia.
"Yavê các cơ binh, Thiên
Chúa của Israel phán thế này : Hãy cải thiện đường đi nước bước cùng hành vi
của các ngươi, và Ta sẽ để cho các ngươi lưu lại chốn này. Ðừng tin cậy noơi
những lời dối trá, rằng : "Ðền thờ của Yavê ! Ðền thờ của Yavê ! Ðền thờ
của Yavê chính là đây !" Phải, nếu các ngươi cải thiện đường đi nước bước
cùng hành vi của các ngươi ; nếu giữa đồng bào với nhau, các ngươi thi hành
công lý ; nếu các ngươi không áp bức khách ngụ cư, mồ côi, quả phụ ; nếu các
ngươi không đổ máu vô tội ở chốn này ; nếu các ngươi không đi theo các thần
khác - để mà phải khốn vào thân, thì Ta sẽ để các ngươi lưu lại chốn này, trên
đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi, từ đời đời cho đến đời đời" (Yr. 7, 3
- 7).
* CHỈ THỜ PHỤNG MỘT THIÊN
CHÚA CHÂN THẬT. Các tiên tri thường xuyên chỉ trích sự bái sùng ngẫu tượng
ở thời đại của họ "Ta là Yavê Thiên Chúa của các ngươi. Ngoài Ta ra, các
ngươi không được có vị thần nào khác". Ðó là giới răn khẩn thiết nhất của
thời đại ấy ngay cả một vài vị vua tốt như Êyêkia và Yôsia cũng chỉ thành công
rất giới hạn trong những chiến dịch bài trừ sự bái sùng ngẫu tượng thời đó.
Nhiều người Israel đã dâng con của họ làm của lễ bị thiêu sinh mà tế lễ vị thần
tà giáo Môlôt. Pho tượng giống như hình người của vị thần này quả thật là một
lò lửa khổng lồ. Dọc theo mấy cách tay giơ lên của nó, xuyên qua cái ngực mở ra
của nó và vào trong bụng có lửa cháy bừng bừng của nó, người ta ném những nạn
nhân vô tội để tế lễ tà thần. Yêrêmia đã nói rằng "ngay cả nơi tà áo của
Yuđa cũng tìm thấy máu mạng người bần cùng vô tội" (Yr 2, 34).
Sự tôn thờ Baal và "nữ
hoàng thiên cung" cũng phản nghịch không kém, và lại còn phổ biến hơn nữa.
Nền tảng của nó là sự tuần hoàn hàng năm của thiên nhiên. Bởi vì thiên nhiên
trông như ngủ yên dưới cái nắng ác nghiệt của mùa hè và sống lại với những trận
mưa về cuối mùa thu. Người ta đã đặt ra một huyền thoại để giải thích tại sao
lại có sự thay đổi giữa các mùa như thế. Theo huyền thoại này thì Baal, vị thần
của sự sinh sản đông đúc bị chết vào mùa nắng ráo và đến mùa thu thì được bà vợ
của ông ta làm cho hồi sinh. Rồi cuộc làm tình của họ đã làm cho thiên nhiên
sinh sôi nảy nở sau những trận mưa. Những người tin tưởng ở huyền thoại này thì
muốn tôn thờ hai vị thần nam và thần nữ của mình bằng cách bắt chước họ mà làm
tình, để hy vọng là chính mình cũng được phúc sinh sản đông đúc như là thiên
nhiên vậy. Xuyên qua sự bắt chước làm tình như thế, dân chúng nghĩ rằng mình
mới tiến gần những vị thần đa tình của mình hơn, và mới bảo đảm được sinh nhiều
con cái và ruộng đất được phì nhiêu. Vì sự tôn thờ này mà đĩ điếm đầy dẫy và
sinh ra nhiều nghi lễ rất sỗ sàng thô tục. Quả là liều thuốc độc cho đời sống
tôn giáo trong các vương quốc của dân Israel. Các tiên tri luôn luôn chỉ trích
vấn đề này, nhưng không được hiệu quả thiết thực nơi thính giả. Cá ngài đã khẩn
khoản yêu cầu họ, đe dọa họ và khóc lóc trước mặt họ để xin họ hãy trở lại và
hãy trung thành với một Thiên Chúa độc nhất mà thôi, hãy tôn thờ Ngài, bằng
cách tuyệt đối vâng phục Thánh Ý Ngài vì Ngài là Thiên Chúa thật của thiên
nhiên.
* SỰ CÔNG BẰNG XÃ HỘI. Ðây
cũng là một đề tài khác của các tiên tri mà có thể áp dụng cho thời nay. Sự xa
hoa của các đền đài dinh thự đã được xây cất, trên sự bất công đối với công
nhân và sự hối lộ của các thẩm phán trong những phiên tòa công khai tại các cửa
thành. Những người buôn bán thời đó thường xử dụng những hình thức lùa gạt đê
tiện nhất, dùng cân lường không chính xác (thời đại chúng ta không phải là
không có), để khách hàng phải trả tiền nhiều hơn món hàng nhận được. Người
nghèo, người cùng khổ, người bạch đinh, theo lời các tiên tri, rất quan trọng
đặc biệt trước mặt Thiên Chúa. Khốn cho ai không biết đối xử với những kẻ ấy
như "những người nghèo khổ của Thiên Chúa". Ðề tài này được nhiều
tiên tri nhắc tới, nhất là Amos, "vị tiên tri của nhiệm vụ con người đối
với đồng loại".
"Ya vê phán thế này : Vì ba
tội ác của Israel và vì bốn tội, Ta sẽ không hối lại, bởi chúng bán người lành
với giá bạc, và kẻ khó với một đôi dép. Nghèo nàn chúng chà đầu đất bụi, và
chúng uốn cong đường lối kẻ hèn."(Am. 2, 6 - 7).
"Khốn cho những kẻ tráo đổi
công lý thành khổ ngải và lẽ ngay chính thì hất nhào xuống đất. Cho nên : nhân
vì các ngươi bắt nghèo hèn è cổ nộp tô, và thu lúa thóc bóc lột nó, nên các
ngươi xây nhà đá mà sẽ không được ở. Các ngươi trồng vườn nho sang quý mà sẽ
không được uống rượu.
Phải, Ta biết tội ác các ngươi
nhiều, các ngươi quá phạm cũng lắm ; chúng bắt nạt người ngay, nhận quà hối lộ,
nơi công môn hất quyền kẻ khó." (Am. 5, 7 - 12).
"Hãy nghe điều này hỡi quân
chà đạp kẻ khó, và muốn chà đạp những người khiêm ti trong xứ. Các ngươi nói :
Bao giờ ngày sóc qua đi để ta bán lúa ? Bao giờ Hưu Lễ mới xong để ta mở hàng ?
Ta, bóp nhỏ đấu đong và thêm nặng quả cân, và làm sái cái cân giả mạo. Ta tậu
lấy người nghèo bằng giá bạc và kẻ khó với một đôi dép. Lúa quét bỏ ta cũng bán
đi". (Am. 8, 4 - 6)
Việc khởi đầu này của các tiên
tri về vấn đề công bình đối với người nghèo khó chẳng khác gì một bản tuyên
ngôn các mối phúc thật thời kỳ Chúa Kitô chưa ra đời. Vừa kêu gọi công bình và
từ thiện, vừa đề cao kẻ nghèo khó là những người được Thiên Chúa yêu thương
cách riêng.
Sự thánh thiện trong tâm hồn, sự
phụng thờ một Thiên Chúa chân thật độc nhất, sự công bình đối với người nghèo
khổ : đó là những đề tài chính của các tiên tri của Thiên Chúa. Các vua, các tư
tế, các kẻ quyền quí giàu sang cũng như mọi tầng lớp nhân dân khác, đều là
thính giả của họ. Nhưng về phần cá nhân của những vị tiên tri đó như thế nào,
họ là ai và thuộc hạng người nào ? Tiêu biểu nhất và quan trọng nhất trong vai
trò chống lại vương quốc mạnh mẽ của sự tội, đó là các tiên tri Êlia, Êlisa,
Amos, Hôsê, Ysaia, Mica và Yêrêmia.
CÁ NHÂN NHỮNG TIÊN TRI THỜI KỲ
TRƯỚC LƯU ÐÀY.
ÊLIA VÀ ÊLISA (Ðọc 3V.
16, 23 ; 4V. 13, 21).
Chức vụ của hai tiên tri hay làm phép lạ này quay chung
quanh triều đại của Akhab, vua của dân Israel vào khoảng 870 trước TCGS. Chính
cha của Akhab, vua Omri, đã dời thủ đô của vương quốc miền bắc về thành Samari.
Chúng ta biết được, qua những tài liệu không thuộc bộ Kinh Thánh, thời đại của
Omri là một thời đại rất vẻ vang và phồn vinh. Ông đã kết ước với nước lân bang
Phênixia chuyên buôn bán, bằng cách cưới công chúa Phênixia tên là Iabel cho
con trai Akhab của ông. Nhưng tác giả thiên khải của chúng ta không màng chi
đến những thành công vật chất của Omri. Triều đại của ông đã bị phê phán một
cách ngắn gọn và buồn tẻ khi nói đến sự thất bại thiêng liêng của ông.
"Omri đã làm sự dữ trước
mắt Yavê và ăn ở thất đức hơn tất cả những người đã sống trước ông. Ông đã hoàn
toàn đi theo con đường của Yơrôbôam . theo các tội lỗi do đó ông đã làm cho
Israel vấp phạm, và chọc tức Yavê Thiên Chúa của Israel với những thần phù
phiếm của chúng" (Các Vua III. 16, 25 - 26).
Izabel, người vợ ngoại giáo của
Akhab, có tính tình cương nghị hơn chồng. Giữa bà và tiên tri Êlia xảy ra một
mối hận thù mãn đại, bởi vì bà đã đem theo sự bái thờ thần Baal của xứ
Phênixia. Bà dựng đền thờ ở Samari và đặt những pháp sư ở đó để lo việc sùng
bái phóng túng cho thần ấy. Bà giết hại các tiên tri của Thiên Chúa, một mình
Êlia đã thoát khỏi bàn tay sát nhân của bà. Bởi đó tại Samari, vương quốc của
sự tội đã lấn áp nhờ sự hận thù.
Chương 18 trong quyển thứ ba,
sách Các Vua đã mô tả một cách linh động cuộc tranh chấp nổi tiếng trên đỉnh
núi Karmel, giữa những pháp sư của Baal và một mình Êlia. Ðó là một cuộc chạm
trán tay đôi giữa quyền lực Baal và quyền lực Thiên Chúa. Cả hai bên đều trưng
bày những thú vật tế lễ. Các pháp sư của Baal cầu kinh suốt buổi sáng để xin
lửa xuống thiêu hủy lễ vật, nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Bị Êlia thôi thúc một
cách chế giễu, họ lại tiếp tục cầu kinh suốt buổi chiều. Êlia lại cười nhạo
"Phải kêu lớn hơn nữa ! vì ngài là thần linh, ngài đang bận suy tính hay
mắc trở việc và có khi ngài đang đi vắng ; có lẽ ngài đã thiếp ngủ, ngài sẽ
thức dậy !" (câu 27), vẫn không có gì xảy ra, rồi Êlia cho tưới nước ngập
những lễ vật, ông cầu xin và có lửa xuống thiêu hủy lễ vật. Cuộc tranh chấp kết
thúc bằng cuộc xử tử các pháp sư của Baal.
Nhưng Izabel vẫn còn sống và
mạng sống của Êlia lúc nào cũng bị đe dọa. Ông đã phản đối xong sự bái sùng
ngẫu tượng đang thịnh hành trong vương quốc của Akhab. Nhiệm vụ kế tiếp của ông
là phản đối nhà vua về một bất công xã hội rất đê hèn mà cả nhà vua và hoàng
hậu đều liên can. Ðó là vấn đề vườn nho của Nabôt ở thành Yizrơel. Vườn nho này
ở sát cạnh cơ sở của nhà vua và ông này rất thèm muốn nó. Nhưng Nabôt không
chịu bán vì đó là cơ nghiệp của tổ tiên. Nhà vua buồn rầu tuyệt vọng. Nhưng
Izabel lại có phản ứng khác hẳn, bà chỉ có việc làm cho Nabôt bị đem ra xét xử
về những lời vu cáo rằng ông ta đã nguyền rủa đến Thiên Chúa và nhà vua. Bị kết
án là có tội. Nabôt bị đưa ra ném đá chết, và nhà vua được vườn nho. Bấy giờ vị
tiên tri bước vào sân khấu :
"Bấy giờ lời Yavê đến với
Êlia rằng : Hãy chỗi dậy, xuống gặp Akhab vua Israel, đóng đô ở Samari. Này nó
đang ở vườn nho của Nabôt, nó đã xuống đó để tịch thu vườn ấy. Ngươi sẽ nói với
nó rằng : Yavê phán thế này : há ngươi đã giết người, ngươi lại tịch thu của
nữa sao ?
Ðoạn người nói với nó rằng ,
Yavê phán thế này : Chính nơi chó đã liếm máu Nabôt, chó sẽ liếm máu ngươi, cả
ngươi nữa !. Và Yavê cũng đã phán về Izabel nữa, chó sẽ ăn thịt Izabel bên
tường lũy Yizrơel" (3V. 21, 17 - 19 ; 23).
Hai trường hợp trên đây của Êlia
chống lại sự bái sùng ngẫu tương và sự bất công xã hội là sứ mệnh điển hình cho
sứ mệnh tất cả các tiên tri Israel. Họ mang đến sứ điệp của Thiên Chúa, họ thức
tỉnh lương tâm của những người làm điều xấu, họ phô bày ý nghĩa của lời Giao
Ước Thiên Chúa đối với Dân Người và sự sa đọa của vua cũng như của dân trong
đời sống luân lý của họ. Vương quốc của sự tội mạnh mẽ đến cực độ. Chính các vị
tiên tri, với sự trợ lực của Thiên Chúa hạn chế được một phần nào.
ÊLISA. Là phụ
tá của Êlia, và khi biến khỏi mặt đất thì Êlia đã để lại áo choàng của mình
(tượng trưng cho sứ mệnh của ông) cho Êlisa. Câu chuyện Êlisa cũng là một
chuyện chống đối lực lượng sự ác trong vương quốc miền bắc. Nhưng ông được mô
tả trong sách Các Vua III và IV, như là một người hay làm phép lạ. Ông đã làm
cho con trai của một người Ihunem đã chết được sống lại (4V. 4, 25 - 37) ; đã
làm cho bánh mỳ hóa ra nhiều để đủ cho nhiều người ăn (4V. 4, 42 - 44) ; và đã
chữa cho Naaman khỏi bệnh phung (4V, chương 5). Trong những trường hợp này ta
thấy rõ quyền lực các tiên tri của Thiên Chúa đối với sự chết và bệnh tật là
hai đặc điểm của vương quốc satan. Qua tất cả những điều đó, Êlisa thật là một
người tiền hô của Ðức Kitô, vị tiên tri vĩ đại, Ngài cũng sẽ hành động như thế.
AMOS VÀ HÔSÊ (Ðọc Amos
các chương 1 - 9 ; Hôsê các chương 1 - 14 nhất là các chương 1 - 3, chương 11
và 14).
Ðây là hai vị tiên tri đã viết lần đầu tiên, nghĩa là hai
vị tiên tri đã để lại những lời sấm và giáo huấn của họ bằng những quyển sách
có chữ viết mang tên của họ. Cả hai vị tiên tri này nhiều điểm giống nhau, bởi
vì sứ mệnh của họ đều ở vương quốc Israel vào khoảng 750 trước TCGS. Lúc đó
Israel đang phồn thịnh dưới triều đại của Yêrôbôam II, một người khôn lanh việc
trần thế. Nhưng về tính tình và về tầm quan trọng, thì hai vị khác nhau rõ
ràng.
AMOS là một
người miền nam và là một người nhà quê, cả hai sự kiện này có ảnh hưởng đến
cách thức trình bày sứ điệp của ông. Là một người miền nam, ông không thích
những vấn đề ông gặp ở miền bắc, nên ông nêu chúng ra và tố cáo. Là một người
nhà quê, ông lấy làm chướng tai gai mắt trước cảnh phồn thịnh của hai thành
Bêthel và Samari. Những sự phồn vinh và sung túc như thế là một cái gì thật xa
lạ đối với ông. Ngay từ đầu ông đã có thành kiến. Ông lại cùng lấy làm chướng
tai gai mắt hơn nữa trước cảnh mâu thuẩn giữa "kẻ có và người không",
giữa nếp sống xa hoa của người giàu có và sự túng cực thấp hèn của người nghèo
đã bị người giàu bóc lột. Chúng ta đã thấy một số những điều ông nêu ra về sự
bất công xã hội và có thể nhớ lại lối nói thô chướng của ông. Ta có thể hình
dung rõ ràng sự phẫn nộ của những người sang trọng và tham ăn xứ Samari khi bị
Amos tố cáo cách cay nghiệt, ông gọi họ là bò cái :
"Hãy nghe lời này, hỡi
những bò cái Bashan trên núi Samari, quân áp bức kẻ hèn, hành hạ kẻ khó, những
kẻ nói với các đức ông của chúng : "Ðem lại đây uống nào" Ðức Chúa
Yavê đã lấy thánh đức của Người mà thề : Quả thế, này sẽ đến trên các ngươi
những ngày, người ta sẽ lấy câu liêm lôi các ngươi đi và hậu duệ các ngươi bằng
lao đánh cá.
Ngang qua tường đổ, các ngươi sẽ
ra, mỗi người thẳng trước mặt mình, các ngươi sẽ bị quăng xa vào chỗ bùn lầy.
Sấm của Yavê" (Am. 4, 1 - 3)
Thật vậy, cách nói ấy rất là rõ
ràng, khó được cảm tình với khán giả và khó lôi cuốn họ. Nhưng Amos cho rằng
chỉ có cách đó mới vạch rõ được sự tuyệt vọng của tình trạng lúc bấy giờ. Mà
tuyệt vọng thật, bởi vì sự sùng bái ngẫu tượng cũng đang thịnh hành nữa.
"Áo cầm đợ, chúng trải ra
nằm bên cạnh các tế đàn ; tiền phạt chúng dùng uống rượu trong nhà Thiên Chúa
của chúng" (Am. 2, 8).
Nếu sự bất công xã hội này và sự
sùng bái ngẫu tượng không chấm dứt ngay việc làm thối nát xứ sở, thì Thiên Chúa
sẽ hủy diệt quốc gia. Ngày sẽ là ngày của Yavê, ngày thẩm phán. Không phải là
một ngày thưởng công và thắng trận hạnh phúc như dân Israel mong đợi, song là
một ngày mà sự nhơ nhớp của tội lỗi Israel sẽ tự nó kéo xuống sự công bình
nghiêm khắc của Thiên Chúa.
"Khốn cho những kẻ ước mong
ngày của Yavê là gì vậy, ngày của Yavê, đối với các ngươi ? Tối tăm đó, chẳng
phải là sáng ! Ấy cũng như người nọ vừa chạy thoát sư tử thì gấu bất thần gặp
được, và khi vừa đến nhà, vừa chống tay vách tường thì rắn cắn. Lại không phải
tối tăm đó sao, ngày của Yavê, chứ không phải sáng ? Phải, mù mịt đó, chứ không
lóe được chút quang minh !" (Am. 5, 18 - 20).
Và tuy vậy, ngay cả trong ngày
thẩm phán, một nhóm ít linh hồn trung tín, "Số sót" sẽ khỏi bị tiêu
diệt.
"Yavê phán thế này với nhà
Israel : Thành xuất quân một ngàn, sẽ còn sót lại một trăm. Thành xuất quân một
trăm sẽ chỉ còn sót lại được mười" (Am. 5, 3).
Một ít dấu chứng trên đây đủ cho
ta thấy sứ điệp của Amos. Ðó là một tiếng gào thét phản đối sự bất công và sự
bái sùng ngẫu tượng. Ðồng thời cũng là một lời cảnh báo nghiêm nghị báo trước
ngày thẩm phán hãi hùng trước mắt, lúc đó chỉ một nhóm ít người (kẻ lành) khỏi
bị phạt mà thôi. Nhưng công trình của Amos không có kết quả. Sau một thời gian
độ vài ba tháng thi hành sứ mệnh, ông rút lui về cuộc sống đơn giản của ông
trên đồi xứ Yuđêa về phía nam, ở đó ông viết những điều cảm nghĩ của ông thành
sách có mang tên ông, để truyền lại cho chúng ta ngày nay. Ông đã chiến đấu vì
những lý tưởng lời giao ước của Thiên Chúa với Israel, nhưng ông đã thất bại.
Tuy nhiên những lời giáo huấn của ông, những tiếng gào thét đòi hỏi công bình
và từ bi cũng như những lời cảnh cáo của ông về ngày kinh hãi của Thiên Chúa đã
trở nên phổ thông nơi các tiên tri kế tiếp ông. Ông đã ảnh hưởng đến nhiều thế
hệ về sau của Israel, và để lại một sứ điệp quan trọng ngay cả cho chúng ta,
những kẻ đang sống trong thời đại xa ông rất nhiều, nhưng không khác xa thời ấy
bao nhiêu.
HÔSÊ cũng
lên tiếng nói với chính những hạng người mà Amos đã tố cáo họ, nhưng giọng điệu
của ông khác hẳn. Dù sao Hôsê cũng là người miền bắc, nói với dân chúng của
mình. Giọng điệu của ông dịu dàng hơn Amos, tuy lời chỉ trích của ông rất đúng
và mạnh mẽ nhưng được nói lên với lòng yêu thương và cảm tình rõ rệt.
Ðiều độc đáo nơi Hôsê là ông đã
sống cái sứ điệp của ông trước, rồi mới rao giảng. Xin giải thích rõ hơn : Hôsê
đã cưới Gôme, một người vợ thất trung đã sớm bỏ chồng để sống cuộc đời gái
điếm, cũng có thể là thứ gái điếm trong những nghi lễ tế tà thần. Nhưng Hôsê
vẫn yêu cô ấy. Ông đã tìm kiếm cô và đưa cô trở về nhà. Ðó là cái thảm kịch
trong đời tư của Hôsê, và mối tình sâu xa của ông đối với người vợ thất trung.
Hôsê rao giảng cái kiểu thảm
kịch đó và cái kiểu tình yêu sâu xa đó, nhưng trên một bình diện siêu nhiên. Sự
bất hạnh của ông đã giúp ông nhận thức rõ ràng cái thảm kịch Israel từ bỏ Thiên
Chúa, và tình yêu không thể tưởng tượng của Thiên Chúa đối với Israel. Theo lời
của Hôsê, Israel là bạn trăm năm của Thiên Chúa, hợp nhất với Ngài bằng những
dây thân ái còn chặt chẽ hơn là hôn nhân. Tuy nhiên Israel đã thất trung, đã
hăm hở chạy theo tà thần ngoại giáo. Càng ngày Israel càng đi sâu hơn vào tội
ngoại tình thiêng liêng. Dù thế Thiên Chúa vẫn luôn tìm kiếm, cứu vớt và đem
Israel trở về với Ngài. Mối quan hệ giữa Thiên Chúa đối với Israel, trên bình
diện siêu nhiên, chẳng khác gì mối quan hệ giữa Hôsê và Gôme, trên bình diện
phàm nhân.
Làm sao giải thích được mối tình
của Hôsê đối với Gôme ? Thật là khó. Tình yêu không thể giải thích được, nhất
là mối tình chân thật được minh chứng bằng sự hy sinh anh dũng. Làm sao giải
thích được tình yêu của Thiên Chúa đối với Israel ? Vài lời của vị tiên tri này
nói lên cho chúng ta tất cả những gì chúng ta có thể biết được.
"Không, Ta sẽ không thi
hành hỏa hào khí nộ. Ta sẽ không hủy diệt Ephaim (Israel) vì Ta là Thiên Chúa,
không phải phàm nhân. Ở giữa ngươi, Ta là Ðấng Thánh" (Hs. 11, 9).
"Ta là Thiên Chúa không
phải phàm nhân", đó là lối giải thích độc nhất có thể được. Thiên Chúa bền
vững trong tình yêu của Ngài, bởi vì như lời một tác giả thiên khải về sau đã
viết : "Thiên Chúa là tình yêu" (Yn I. 4, 16). Thiên Chúa thương yêu
vì chính Ngài là Tình Yêu. Ðó là điều sâu xa nhất Hôsê đã hé màn cho chúng ta
thấy. Ðiều này lại càng được thấy rõ hơn nữa khi tình yêu của Thiên Chúa được
chứng minh bằng sự Nhập Thể (của Ngôi Lời) để đem lại sự cứu độ cho loài người.
Bởi đó, chính Hôsê đã đưa vào
Thánh Kinh hình bóng "cuộc hôn nhân giữa Thiên Chúa với Israel". Hình
bóng đó được nhiều vị tiên tri về sau chấp nhận, và chính Ðức Kitô cũng dùng
hình ảnh đó để mô tả sự liên hệ giữa Ngài với Israel Mới, tức là Giáo Hội. Và
hình ảnh đó được khia triển đầy đủ nhất trong thư của thánh Phaolô gửi tín hữu
Êphêsô 5, 22 - 23.
Hôsê lại còn để cho chúng ta một
chân lý sâu xa nữa khi ông nói "Vì Ta muốn tín nghĩa chứ không phải tế tự
và nhận biết Thiên Chúa hơn là thượng hiến" (Hs 6, 6).
Qua những lời trên đây, Hôsê chỉ
trích thứ tôn giáo chỉ vụ hình thức bên ngoài ở thời ông, thứ đạo đức giả hiệu
chỉ đặt hy vọng vào những nghi lễ bên ngoài, gia tăng hình thức nghi lễ thay vì
những hành vi vâng phục và yêu mến. Ðiều Thiên Chúa đòi hỏi là lòng từ bi sự
trung tín và hợp nhất với Ngài để rõ biết Ngài như thế nào. Nghi lễ bên ngoài
chỉ có giá trị khi nào nó thể hiện sự sùng kính bên trong. Ðức Kitô cũng dùng
những lời tương tự như Hôsê, khi nói về những người giả hình đạo đức ở thời
Ngài (Mt 9, 13 ; 12, 7).
SỰ HỦY DIỆT VƯƠNG QUỐC
ISRAEL Ở MIỀN BẮC (Ðọc Các Vua IV, chương 17).
Amos và Hôsê đều rao giảng tại vương quốc miền bắc vào
khoảng 750 trước TCGS. Họ là những sứ giả cuối cùng Thiên Chúa đã gửi đến cho
một dân tộc đang quay lưng với Ngài. Amos dùng những lời nảy lửa và đanh thép ;
Hôsê thì dùng những lời lẽ đầy yêu thương. Các vua, các tư tế và dân chúng đã
bịt tai không chịu lắng nghe một vị tiên tri nào cả. Và do đó, đã giáng xuống
vương quốc miền bắc cái "ngày của Thiên Chúa" ngày tối tăm chứ không
phải ánh sáng, ngày mù mịt không lòe được chút quang minh (Am. 5, 20). Dụng cụ
để thi hành công lý của Thiên Chúa là đế quốc Asyria, thủ đô là thành Ninivê,
là một trong những đế quốc lớn trên thế giới. Nó nắm quyền kiểm soát
Mêsôpôtania trong vòng gần 300 năm, khoảng từ 900 đến 600 trước TCGS.
Vị vua cuối cùng của Israel tên
là Hôsê (không phải là tiên tri Hôsê), lên ngôi vào khoảng năm 730 trước TCGS.
Bị thua quân Asyri dưới sự lãnh đạo của Shalmaneser, vua Hôsê đã phải nộp những
lễ vật triều cống nặng nề cho quân xâm lăng. Ông quay sang cầu cứu nước Aicập.
Aicập hứa giúp đỡ, nhưng không bao giờ thực hiện lúc Israel bị tấn công, và
Asyri đã tấn công Israel. Thủ đô của Israel là Samari bị bao vây trong vòng ba
năm trời. Trong lúc đó Shalmaneser chết và Sargon lên kế vị. Ông này là một
người nổi tiếng, đã sáng lập một triều đại Asyri mạnh mẽ nhất. Năm 722 trước
TCSG, ông đã hoàn toàn tiêu diệt vương quốc miền bắc, lưu đầy dân Israel và đưa
các người ngoại bang từ "Babilon, Kuta, Av-va, Khamat và Sơpharvaim"
vào nước Israel (4V. 17, 24). Những người này định cư ở phía bắc Phalệtinh, họ
dựng vợ gã chồng với bất cứ gia đình nào của Israel còn sống sót, họ lượm lặt
chút ít điều họ hiểu biết về tôn giáo của người Samari, là những người mà dân
Dothái thời Ðức Kitô thù ghét nhất.
Những ký sự đầy vẻ phô trương tự
đắc của Sargon đã mô tả sự cáo chung của Israel như sau :
"Trong năm thứ nhất triều
đại của tôi, tôi đã chinh phục Samari. Tôi đưa đi lưu đày 27000 người. Tôi lấy
các xe của họ để cho quân đội tôi dùng, tôi bắt họ nộp triều cống. Dân chúng
trong xứ là những nạn nhân trong tay tôi, tôi bắt chúng sống nơi khác và tôi
đặt quan lại của tôi để cai trị họ, và họ phải nộp thuế như những người dân
thuộc quyền cai trị của tôi".
Tất cả những điều này phù hợp
với câu chuyện thê thảm Thánh Kinh thuật lại cho chúng ta. Sargon cũng bày ra
những khổ hình bi thảm để bắt những người ông đưa đi lưu đày phải chịu. Họ bị
sắp thành hàng dài, trói lại với nhau bằng những dây thừng buộc ở cổ hoặc ở cổ
tay họ, hoặc buộc vào những vòng đâm xuyên qua mũi hay môi của họ. Dân Israel
bị đưa đến Haran ở phía bắc, hoặc những xứ thuộc miền Mêsôpôtamia ở phía đông.
Không bao giờ họ trở về nữa, và dần dần họ bị đồng hóa với các dân tộc nơi họ
bị lưu đày.
"Sự đã xảy ra vì con cái
Israel đã phạm tội nghịch với Yavê Thiên Chúa của chúng, Ðấng đã đem họ lên từ
đất Aicập, từ bàn tay của Pharaô, vua Aicập, và vì họ đã kính giới các thần
khác. Chúng đã đi theo thói tục của các nước Yavê đã đánh bạt khỏi trước mặt
con cái Israel, những thói tục mà các vua họ đã tạo lấy. Con cái Israel đã thốt
ra những điều chẳng phải, phạm đến Yavê Thiên Chúa của họ. Họ đã xây cho mình
cao đàn trong các thành của họ, từ tháp canh cao cho đến đồn lũy, họ đã dựng
bài vị và nêu thờ trên mọi đồi cao và dưới mọi cây cối xum xuê. Trên đó, trên
mọi cao đàn họ đã huân yên, như các nước Yavê đã đày khỏi mặt họ . Họ đã bác bỏ
tất cả các lệnh truyền của Yavê Thiên Chúa của họ, và đã tạo cho mình tượng đúc
là hai con bê ; học đã làm nêu thờ và thờ lạy tất cả các cơ binh trên trời và
phụng sự Baal. Họ đã chuyền con trai con gái họ qua lửa ; họ đã học đòi bói
quẻ, yêu thuật ; họ đã bán mình làm sự dữ trước mặt Yavê để khơi cơn nghĩa nộ
của Ngài. Cho nên Yavê đã chân nộ bừng bừng trên Israel và Ngài đã xua họ khỏi
nhan Ngài. Vẻn vẹn chỉ còn một mình chi tộc Yuđa" (4V, 17)
Trong chương trình cứu độ, chỉ
một mình Yuđa còn sót lại. Nơi chi tộc Yuđa và các vua của họ, thuộc dòng dõi
Ðavít, được đặt tất cả niềm hy vọng cứu độ cho Israel và cho tất cả các nước.
Từ khi quốc gia bị chia rẽ sau
cái chết của vua Salômon trước đó độ 200 năm, Yuđa ở miền nam đã vững mạnh hơn
Israel ở miền bắc. Lý do chính là vì ở miền bắc, kẻ nào đủ sức mạnh cướp ngôi
(thường bằng sự sát nhân) thì được lên làm vua. Ðang khi đó ở miền nam quyền
lên ngôi vua chỉ thuộc về một gia đình mà thôi. Ðó là gia đình Ðavít. Sự kiện
duy nhất này đã làm cho quốc gia tồn tại và bền vững. Dưới mắt của những công
dân miền nam, thì vua của họ phải thuộc về dòng dõi Ðavít, bởi vì Thiên Chúa đã
quyết định như thế qua miệng tiên tri Nathan (2V. 7). Thiên Chúa cũng đã khẳng
định bằng cách nào đó và vào lúc nào đó, vương quốc này sẽ trở nên vừa phổ bác
vừa vĩnh cửu. Người Yuđa biết tất cả điều này, họ rất lấy làm hãnh diện và ỷ
lại. Họ không bao giờ nghĩ rằng chính những tội ác đã đưa Israel đến chỗ cáo
chung thê thảm, cũng có thể làm cho Yuđa bị tiêu tán như thế. Không, họ không
thể bị tiêu vong, họ nhất định phải tồn tại vì vương quốc của họ là vĩnh cửu.
Nhưng một sự loạn lạc nghiêm
trọng đã hiện ra trước mắt. Ngay cả một người quan sát tình cờ sân khấu chính
trị và xã hội ở Yuđa, cũng thấy được rằng những tội lỗi đã làm cho vương quốc
Israel bị tiêu diệt ũng chính là những tội lỗi của Yuđa. Tuy chưa rõ ràng như
thế, dựa trên sự tin tưởng hão huyền rằng nhiều lễ tế và nhiều lễ vật có thể
thay thế cho lòng yêu mến và vâng phục mà Thiên Chúa đòi hỏi. Cũng có những bất
công xã hội như thế lợi dụng người đồng loại một cách vô nhân đạo để mưu ích
cho bản thân, bất công đối với kẻ nghèo, coi rẻ nhân phẩm mà mọi người đều có
trước mặt Thiên Chúa.
Và cũng có sự bái sùng ngẫu
tượng như thế : Yuđa cũng chạy theo tà thần ngoại giáo vào lúc Israel bị lưu
đày, thì vua Akhaz của Yuđa "đã chuyển qua lửa ngay cả người con trai của
ông, theo những điều gở các dân ngoại đã làm, dân Yavê đã đánh bạt khỏi trước
mặt con cái Israel" (4V. 16, 3). Nếu Yuđa cứ tiếp tục làm những điều vô
luân như thế thì ngay của Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên nó. Ðể giữ gìn Yuđa
xứng đáng là người bạn trăm năm trinh trắng của Thiên Chúa, nhiều vị tiên tri
thời bấy giờ đã đấu tranh kịch liệt, như tiên tri Isaia, Mica, và một thế kỷ
sau đó : tiên tri Yêrêmia.
ISAYA VÀ MICA (Ðọc Isaya chương 5 - Bài ca vườn nho ;
chương 6 - Isaya được kêu gọi ; chương 7 - 12 (sách Emmanuel) ; các chương 33 -
39 (Êzêkia và Sennakêrib). Cũng hãy đọc Mica : các chương 1 - 7).
Isaya và Mica cùng chung một bối
cảnh. Cả hai đều là người miền nam của nước Yuđa. Sứ mệnh của họ bắt đầu vào
lúc Amos và Hôsê chấm dứt sứ mệnh của mình. Một số sứ điệp của họ nhằm vào
vương quốc miền bắc trước khi nước này bị suy đổ năm 722 trước TCGS. Tuy nhiên
, mối quan tâm chính của họ là những hoàn cảnh trong vương quốc Yuđa. Họ hoàn
toàn thành công trong sứ mạng này, chính là vì ông vua lên cầm quyền ở miền nam
vài năm trước (hay sau - các học giả không nhất trí) sự sụp đổ của Israel, là
một trong ba vị vua anh minh (hai vị kia là Ðavít và Yôsia) của triều đại. Nhất
là Ysaia, là một cố vấn thân mật của vua Êzêkia, vua này đã nhờ rất nhiều ở
những lời khuyên nhủ của ông.
Thời kỳ của Ysaia và Mica là một
thời kỳ hỗn loạn, chính trị rối ren, bị quân Assyri đe dọa và tấn công, họ có
lực lượng mạnh mẽ lúc bấy giờ. Yuđa được thoát khỏi nạn diệt vong như Israel
năm 722, nhưng bàn tay của Assyri vẫn xiết chặt Yuđa trong quyền lực của mình,
mặc dầu chúng chưa bóp nát nó. Sau khi Sargon, người đã chinh phục Israel, bị
ám sát năm 705 trước TCGS, Sennacherib lên kế vị và bắt đầu một cuộc xâm lăng
Yuđa năm 701. Ông đã hoàn toàn thành công mặc dầu ông không chiếm lấy thành
Yêrusalem, trong dịp này, hoặc trong một dịp tương tợ chừng 10 năm sau đó (khó
xác định niên biểu) quân lính của ông đã vây thành Yêrusalem và trông có vẻ
chắc chắn chinh phục được thành ấy, nhưng đã bị tan vỡ vì một thứ bệnh giống
như ôn dịch. Ðây là một sự cứu thoát thành thánh đối với người Yuđa, một sự cứu
thoát đã được ca tụng trong sách Isaya, chương 37, câu 36 - 38 và trong sách
Các Vua IV, chương 19 câu 35 - 36. Ðọc Isaya và Mica, nên nhớ đến bối cảnh
chính trị và quân sự này.
Người ta biết rất ít về con
người và đời sống của Mica. Môrêset, quê nhà của ông, cách Yêrusalem về phía
tây nam độ hai mươi dặm. Ngôn ngữ đơn sơ và không chải chuốt của ông cho thấy
rằng ông xuất thân từ một địa vị xã hội khiêm tốn. Ông và Amos giống nhau ở
điểm này, và cũng như Amos, ông là một người quan tâm sâu xa đến vấn đề công
bình xã hội. Chúng ta không rõ ông thi hành sứ mệnh của ông trong bao lâu, cũng
không rõ ông mất lúc nào và trong trường hợp nào. Tuy nhiên chúng ta đọc trong
sách Yêrêmia rằng, ít nhất cũng có một lần những lời sấm của ông đã đem lại sự
cải cách hữu ích ở Yuđa.
"Mica người Môrêset, làm
tiên tri vào thời Êzêkia vua Yuđa, đã nói với toàn dân Yuđa rằng : Yavê các cơ
binh phán thế này, Sion sẽ thành ruộng cày, Yêrusalem hóa ra đống vụn, núi của
nhà, một gò rừng hoang. Phải chăng, Êzêkia vua Yuđa và toàn thể Yuđa đã xử tử
ông ấy ? Lại không phải là vua đã kính sợ Yavê và đã vỗ về nhan Yavê và Yavê đã
hối lại sự dữ Người đã phán trên họ đó ư ?" (Yr. 26, 18 - 19).
Về Isaya thì chúng ta biết được
nhiều hơn, mặc dù vẫn chưa đầy đủ như chúng ta mong muốn. Ngôn ngữ Híppri chải
chuốt của ông cho thấy ông là một con người có học thức, và sự ông đi lại dễ
dàng với vua Akhab và hoàng tử của ông ấy là vua Êzêkia, cho thấy rằng ông đã
quen giao tiếp với hạng quyền quý. Ông có vợ và có ít nhất hai người con. Cả
hai đều được đặt những tên có ý nghĩa tượng trưng, người con thứ nhất là
Shear-jashub, "một kẻ sống sót sẽ trở về" và người con thứ hai là Maher-shalalhashbaz,
"của trộm cắp thì vội vàng, nạn nhân thì hối hả". Ơn kêu gọi bước vào
cuộc đời tiên tri của ông xảy ra, theo lời ông thuật lại ở chương 6 câu 1
"vào năm Ôzia chết" tức là vào khoảng 740 trước TCGS, độ 18 năm trước
khi Israel bị tiêu diệt, chúng ta cũng biết rằng ông đã giúp đỡ Êzêkia lúc bị
Sennakêrib xâm lăng vào khoảng 700 năm trước TCGS. Nhưng không rõ ông kết liễu
cuộc đời ra sao. Theo lời truyền không được chắc chắn thì ông đã bị vua Manassê
cưa làm hai, vua này là đứa con phản nghịch của Êzêkia, nhưng không có một sử
liệu nào để xác nhận điều này.
Vì chức nghiệp của hai vị tiên
tri này khá lâu, đặc biệt là Isaya, nên chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi
thấy có những điểm cực đoan trong các điều họ viết. Có những đoạn yên ủi và lên
án, bởi vì họ phải đấu tranh không những với vị vua anh minh Êzêkia, mà còn
phải đấu tranh với ông vua xấu khét tiếng là Akhab, cha của Êzêkia. Akhab có ít
niềm tin ở Yavê và có lúc dường như để rơi mất luôn niềm tin ít ỏi đó. Chúng ta
biết rằng vua ấy đã có lần dâng những đứa con trai của mình để làm lễ tế thần
tà giáo. Vào lúc gần cuối đời, vua lại đi xa hơn nữa bằng cách dựng một bàn thờ
ngoại giáo ở trong đền thờ Yêrusalem. Ngay cả thời kỳ cải cách của Êzêkia cũng
không phải là hoàn toàn thành công. Tội lỗi vẫn còn đầy dẫy, khiến cho Isaya và
Mica phải lên tiếng đả kích.
SỨ ÐIỆP CỦA TIÊN TRI ISAYA VÀ MICA.
Hai vị tiên tri đồng thời này đều đề cập đến nhiều điểm
tương đồng, nên chúng ta có thể khảo sát họ cùng một lúc. Vậy 39 chương đầu
trong sách Isaya thì có thể được chấp nhận là chính vị tiên tri này viết. Còn
những chương sau của sách Isaya được viết trong thời kỳ lưu đày ở Babilon,
khoảng 150 năm về sau.
MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT, đó là điểm cả hai vị
tiên tri đều nhấn mạnh. Isaya diễn tả điều này bằng cách nêu lên quyền cai trị
tối thượng của Thiên Chúa đối với ngay cả những nước ngoại giáo và xa xôi.
"Người phất cờ ra hiệu cho
một nước từ phương xa lại, Người huýt gọi nó lại từ mút cùng mặt đất, và này
chúng vội đến lanh chai" (Is. 5, 26).
Về phương diện tiêu cực, thì cả
hai đều lên tiếng đả kích mạnh mẽ sự bái sùng ngẫu tượng ở thời họ. Ðó là tội
nặng nhất của Israel, và chính nó đã buộc Thiên Chúa phải đoán xử phân minh.
"Phù phép, Ta sẽ vất phăng
đi khỏi tay ngươi, và những thầy chiêm bốc sẽ không còn có nơi ngươi. Các thần
tượng của ngươi, Ta sẽ hủy phăng đi, và những bài vị của ngươi ta sẽ cất khỏi
giữa ngươi.
Ngươi sẽ không còn phục lạy công
trình tay ngươi, các nêu thờ của ngươi, Ta sẽ nhổ đi khỏi giữa ngươi, các ảnh
tượng của ngươi Ta sẽ hủy diệt" (Mi. 3, 1 - 3).
SỰ THÁNH THIỆN TRONG TÂM HỒN, trái
nghịch với sự chuộng hình thức bên ngoài, là một điều mà hai vị tiên tri cũng
đều rao giảng. Ðiều này cho thấy cách đặc biệt sự tiến dần đến mạc khải mà Ðức
Giêsu sẽ nhấn mạnh khi Ngài nói rằng ơn cứu độ là do sự thờ phụng Thiên Chúa
trong tâm hồn và trọng chân lý. Nếu những lễ tế bên ngoài không phải là dấu
hiệu bày tỏ lòng mến yêu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa không xá kể.
"Ích gì cho Ta, lễ tế vô
vàn của các ngươi ? Yavê phán : Ta đã chán ngấy thượng hiến cừu tơ và mỡ thú
vật béo nẫy. Huyết bò tơ với chiên con - cùng dê đực, Ta cũng không màng. Khi
các ngươi vào yết Nhan Ta, nào ai đòi các ngươi làm thế : dẵm lên các tiền đình
của Ta ? Các ngươi đừng đem lại lễ cúng tào lao : hương hoa với Ta là đồ tởm.
Ngày sóc vả lễ bái của ngươi, hồn Ta đã ghét : chúng là gánh nặng cho Ta, Ta đã
chán rồi không chịu nổi.
Các ngươi giang tay lên, Ta sẽ
bịt mắt Ta với các ngươi. Các ngươi có gia tăng nguyện cầu, Ta cũng không nghe
: tay các ngươi vấy đầy những máu ! Hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy mình đi. Hãy cất
khỏi mắt Ta, sự dữ của việc làm các ngươi. Hãy thôi làm dữ ! Hãy học làm lành,
hãy theo dõi công minh, hãy đỡ đần người bị áp bức, hãy xử cho kẻ mồ côi, hãy
bênh đỡ người góa bụa" (Is. 1, 11 - 17).
Một nhóm ít NGƯỜI SỐNG SÓT vẫn
trung thành với Thiên Chúa giữa một quốc gia tội lỗi, và cũng chính nhóm ít
người sống sót này sẽ được tồn tại sau những ngày thẩm phán trước mắt, đó là
một điểm khác nữa mà Isaya và Mica cũng như Amos đều rao giảng. Tất cả đều tưởng
tượng rằng nhóm ít người này sẽ là những người tiếp đón lời hứa của Thiên Chúa,
và sự cứu độ sẽ đến với họ và qua họ.
"Trong ngày ấy, Yavê các cơ
binh sẽ là triều thiên trang điểm, là tràng hoa huy hoàng cho số sót của Dân
Người" (Is 28, 5).
Một chân lý càng quan trọng hơn
nữa được gặp thấy trong những sách ấy, đó là tính cách phổ bác của ơn cứu độ,
nghĩa là ơn cứu độ được mở rộng bằng cách nào đó ngay cả cho các dân ngoại.
Chân lý này nhắc cho chúng ta một lần nữa lời hứa thứ ba của Thiên Chúa đối với
Abraham. Theo lời hứa ấy các dân ngoại cũng sẽ được chúc phúc qua Abraham và
gia đình ông. Trải qua bao thế kỷ, lời hứa này đã hóa nên xa lạ đối với dân
Israel và dường như bị quên lãng. Chính các tiên tri đã đưa nó ra ánh sáng, và
như thế, các vị ấy chuẩn bị cho vương quốc phổ bác và công giáo của Ðức Kitô sẽ
đến.
"Vào những ngày sau hết,
núi nhà Yavê sẽ nên kiên vững trên đỉnh đầu các núi non, và nó sẽ được nhắc cao
quá gò nỗng. Các dân sẽ tuôn về đó, và đông đảo chư quốc sẽ đổ về. Họ nói :
"Nào Ta hãy lên nuúi Yavê, đến nhà của Thiên Chúa Yacob thờ, để Người dạy
ta đường lối của Người, để theo nẻo đi của Người, ta tiến bước, vì từ Sion
thánh chỉ ban ra, và lời Yavê phán tự Yêrusalem (Mi. 4, 1 - 2 ; cũng gặp thấy ở
Is. 2, 2 - 3)
Một yếu tố rõ rệt sau cùng trong
sứ mệnh của hai vị tiên tri này là sự nhấn mạnh vị cứu thế có vương quyền và
vai trò vinh hiển của vị đế vương thuộc dòng dõi Ðavít sẽ đến. Isaya nhấn mạnh
đặc biệt "Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con, và sẽ gọi tên là
Emmanuel" (Is.7, 14). Trong những chương kế tiếp ông tả rõ thêm : vị đế
vương này sẽ mang đến sự hiện diện của Thiên Chúa (Emmanuel có nghĩa là : Thiên
Chúa ở cùng chúng ta). Ông tả vị ấy như là một chồi "xuất từ gốc
Ysai" (11, 1), do đó thuộc dòng dõi Ðavít con của Ysai. Ở đây sự cứu độ
được tập trung vào một cá nhân, một vị vua con của Ðavít. Ở một đoạn khác,
Isaya nói thẳng về người con trai của Ðavít và về vương quốc vĩnh cửu và phổ
bác đã hứa với người qua miệng tiên tri Nathan. Ông mô tả bằng nhiều từ ngữ
phấn khởi, đến nổi những độc giả trong các thế hệ tương lai chuẩn bị đón tiếp
một vị đế vương siêu phàm xuất chúng.
"Vì một trẻ đã sinh ra cho
ta, một con trai được ban xuống cho ta , vai Ngài đỡ lấy mọi quyền bính và
thiên hạ hô tước hiệu Ngài : Mưu sự lạ, Thần anh hùng, Cha đời đời, Vua bình
an, quyền bính bao la, bình an vô tận trên ngai Ðavít, trên nước của ông, cho
nước được vững bền kiên cố, nhờ công trình đức nghĩa, từ nay và cho đến muôn
đời" (Is. 9, 5 - 6).
Mica cũng nói về vị đế vương
thuộc dòng dõi Ðavít mà mọi người chờ mong, vê vương quốc phổ bác của Ngài và
về thân mẫu Ngài.
"Phần ngươi, hỡi Bêlem -
Ephrata, nhỏ bé nhất trong hàng các bộ tộc Yuđa. Chính tự nơi ngươi sẽ xuất
hiện cho Ta, vị có mệnh thống lĩnh sơn hà Israel.
Nguồn gốc của Ngài đến trước xa,
lên tới những ngày thuở xưa.
Cho nên Người sẽ phó nộp chúng
cho đến thời "Ðẻ" sẽ sinh con, và số sót anh em Ngài về với con cái
Israel.
Ngài sẽ bền vững, Ngài sẽ chăn
dắt, đưa vào quyền lực Yavê, nhờ uy Danh của Ðức Yavê, Thiên Chúa của Ngài.
Và chúng sẽ được an cư, vì bấy
giờ, Ngài sẽ nên lớn lao cho đến mút cùng mặt đất. Chính Ngài là sự bình an (Mi
5, 1 - 4).
Cũng nên lưu ý rằng những lời
trích dẫn trên đây mô tả vị cai trị Israel trong tương lai như là một kẻ chăn
chiên (Ðế vương chăn chiên). Một lối mô tả lạ thường, nhưng nó sẽ trở thành
chính xác nhất khi tới ngày nó được ứng nghiệm.
Cả hai vị tiên tri đều cố ý nhằm
hai mục đích : vạch ra những tội lỗi thông thường dân chúng thời đại các ngài
thường ngã phạm, và hướng tư tưởng của họ về nhữntg ngày vinh quang trước mắt
trong tương lai. Các ngài khuyến giới : Giờ đây hãy phụng sự Thiên Chúa, hãy
kính trọng đồng loại, và như thế để chuẩn bị cho những ngày vị đế vương sẽ đến.
Vị đế vương này sẽ đem lại ơn cứu độ, và sẽ mở ra một thời đại hòa bình mà loài
người sẽ là bạn của Thiên Chúa và là bạn với nhau.
TRIỀU ÐẠI CỦA MANASSÊ CON
TRAI CỦA VUA ÊZÊKIA TỐT LÀNH - Quãng cách giữa Isaya và
Yêrêmia.
Manassê được 12 tuổi khi lên làm
vua, ông đã trị vì ở Yêrusalem mười lăm năm. Tên mẹ là Khephxi-Bah. Ông đã làm
sự dữ trước mắt Yavê, như những điều ghê tởm các dân ngoại đã làm, những dân
Yavê đã đánh bạt khỏi trước mặt con cái Israel. Ông đã xây lại những cao đàn,
Êzêkia cha ông đã phá, ông đã dựng những tế đàn kính Baal, và tạc một Ashêrah
như Akhab vua Israel đã làm ; ông đã thờ lạy tất cả cơ binh trên trời và phụng
sự chúng. Ông đã xây những tế đàn trong nhà Yavê .
Ðể kính tất cả các cơ binh trên
trời, ông đã xây những tế đàn trong hai tiền đình của nhà Yavê. Ông chuyền qua
lửa con trai ông và đã chiêm tinh làm yêu thuật, lập ra nào đồng bóng, pháp sư
; và làm lắm điều dữ trước mắt Yavê để chọc tức Ngài. Tượng Ashêrah ông đã tạc,
ông đặt trong nhà mà Yavê đã phán với Ðavít và với con là Salômon : "Nơi
nhà này và tại Yêrusalem, Ta đã chọn giữa các chi tộc Israel, Ta sẽ đặt Danh Ta
mãi mãi. Và Ta sẽ không để chân Israel phiêu bạt khỏi thửa đất mà Ta đã ban cho
cha ông chúng, miễn là chúng tuân giữ làm theo mọi điều Ta đã truyền cho chúng
theo tất cả lề luật Môsê tôi tớ của Ta đã truyền dạy chúng". Nhưng chúng
đã không nghe và Manassê đã làm chúng lạc đường, khiến chúng làm sự dữ còn
nhiều hơn các dân ngoại Yavê đã hủy diệt trước mặt con cái Israel.
Yavê mới phán qua các tôi tớ
Ngài là các tiên tri rằng : "Nhân vì Manassê vua Yuđa đã làm các điều ghê
tởm ấy, vì nó đã làm bậy hơn cả dân Amori có trước nó đã làm, và nó cũng đã làm
cho cả Yuđa phạm tội vì các xú thần của nó, vì thế, Yavê Thiên Chúa của Israel
đã phán : Này đây Ta sẽ giáng xuống, trên Israel và Yuđa một tai họa và mọi kẻ
nghe đến sẽ ù cả hai tai . Ta sẽ chùi Yêrusalem đi như người ta chùi cái bát,
chùi rồi thì úp mặt nó xuống. Ta sẽ bỏ mặc cơ nghiệp Ta sót lại và phó nộp nó
cho các địch thù tha hồ cướp bóc hôi của, vì chúng đã làm sự dữ truớc mắt Ta và
chúng hằng khiêu giận Ta từ ngày tổ tiên chúng ra khỏi Aicập cho đến ngày
nay".
"Manassê cũng đã đổ máu vô
tội, nhiều đến nổi ông đã làm Yêrusalem này vấy đầy máu từ đầu thành đến cuối
thành, đó là không kể các tội ông đã nên cớ cho Yuđa phạm, là làm sự dữ trước
nhan Yavê" (4V. 21, 1 -16).
Ðoạn văn mô tả ngắn gọn này cho
thấy rõ ràng hiệu quả công trình tốt đẹp do vua Êzêkia và hai tiên tri Isaya và
Mica đã thực hiện được, không tồn tại bao lâu. Manassê, con trai Êzêkia, đã
hoàn toàn làm tiêu tan công trình ấy. Ông phá hoại tôn giáo của Yuđa đến mức độ
khó tưởng tượng được, ông xây cất tế đàn ngoại giáo ngay cả trong đền thờ ! Nếu
Israel vì phạm nhiều tội mà đã phải hủy diệt, thì liệu Yuđa có khỏi bị trừng
phạt nặng nề như thế chăng ?
Vào khoảng cuối triều đại của
ông vua xấu xa khét tiếng này, có lẽ 650 năm tước TCGS, một đứa trẻ tên là
Yêrêmia chào đời tại một thành nhỏ Anatôt, cách Yêrusalem về phía đông bắc
chừng vài dặm. Thân sinh ông là Hêlcia, một người thuộc hàng tư tế. Khi còn bé,
Yêrêmia đã sống trải qua một thời kỳ mục nát đồi bại trong tôn giáo, do Manassê
tiếp tay. Các vua cũng như dân không ai để ý đến bài học mà sự hủy diệt vương
quốc miền bắc để lại. Họ tiếp tục hành động như thể là Yavê không hiện hữu,
hoặc Ngài có hiện hữu thì Ngài cũng không quan hệ gì tới hạnh kiểm, đạo đức của
Dân Ngài. Bàn tay của Thiên Chúa đã sẵn sàng giáng xuống hình phạt cho nước
Yuđa lúc Yêrêmia hãy còn thơ ấu.
YÊRÊMIA (Ðọc Yr. 1, 4 - 19 (Yêrêmia được kêu gọi) ; 7, 1 -
8, 3 và 26, 1 - 19 (Giảng về đền thờ) ; 6, 9 - 12 ; 15 10 - 21 ; 20, 7 -18 (Tự
thú) ; 18, 1 - 12 (hình bóng nắm đất trong tay thợ gốm) ; 23, 1 - 8 (Người sống
sót) ; 27, 1 - 22 (Hình bóng cái ách) ; các chương 30 - 31 (sách Aica) ; chương
36 (Yêrêmia với những bài giảng viết ra và Yôyakim) và các chương 37 - 44
(những năm cuối cùng của Yêrêmia).
Vua hắc ám Manassê chết lúc Yêrêmia được 10 hay 15 tuổi.
Amôn, con trai ông, lên kế vị và cai trị chỉ độ một hai năm. Sau đó Yôsya lên
ngôi, ông này là một trong những vị vua tốt nhất của Yuđa. Ông lên làm vua nước
Yuđa năm 638 trước TCGS khi mới lên tám tuổi. Trong những năm đầu tiên của vị
vua niên thiếu này, những truyền thống vô đạo của Manassê và Amôn hãy còn tồn
tại. Hình thức bái sùng ngẫu tượng tệ hại nhất đang thịnh hành khắp vương quốc
và ngay cả trong Ðền thờ. Bất cứ một người thành tín nào cũng đều thấy rõ rằng
nước Yuđa đang cần một tiên tri can đảm để kêu gọi trở lại. Vị tiên tri đó
chẳng bao lâu đã xuất hiện trên sâu khấu. Vào năm thứ 13 đời vua Yôsya, 625
trước TCGS, có lời Yavê đến với Yêrêmia, kêu gọi ông làm tiên tri. Ðây là một
sự kêu gọi độc đáo. Lập tức Yêrêmia trả lời bằng câu khước từ : "A ha !
Lạy Ðức Yavê, này tôi đâu có biết nói, vì tôi chỉ là một đứa trẻ !" (1,
8). Yêrêmia không phải là một người tự tín kiểu Isaya. Ông là một thanh niên dễ
cảm, quen với nếp sống yên tĩnh ở thành phố nhỏ, bản tính không thích hợp với
đời sống xông pha và cách đối xử cay nghiệt mà các nhà cải cách đều trải qua.
Tuy nhiên, Yêrêmia vẫn lãnh nhận sứ mệnh khiếp sợ này, tin tưởng ở lời Thiên
Chúa hứa luôn luôn trợ lực.
"Này Ta đặt lời lẽ của Ta
trong miệng ngươi ! Hôm nay Ta đặt ngươi cai các dân tộc và các nước, để nhổ và
lật đổ, để hủy và để phá, để xây và cấy trồng .
Phần Ta, nay Ta đặt ngươi làm
một thành trì, làm trụ sắt, làm tượng đồng cự lại cả xứ, cự lại các vua Yuđa,
các khanh tướng của nó, cự lại hàng tư tế và dân trong xứ. Chúng sẽ tuyên chiến
với ngươi, nhưng chúng sẽ không làm gì được ngươi, vì có Ta ở với ngươi - sấm
của Yavê - để giải thoát ngươi" (Yr 1, 9 - 10 ; 18 - 19).
Ðộ ba năm sau, năm 622 trước
TCGS, sứ mệnh của Yêrêmia trở nên dễ dàng hơn nhiều, nhờ ở cuộc cải cách rộng
lớn vua Yôsya thực hiện. Sự cải cách này là do sự tìm thấy một quyển sách luật
của Môsê trong đền thờ. Gần như chắc chắn đó là một phần của quyển sách Thứ
Luật ngày nay, lúc bấy giờ được khám phá. Khi nghe đọc lớn tiếng cuốn sách đó,
vị vua trẻ tuổi liền kinh hãi vì nhận thấy rằng ông và vương quốc ông đã đi quá
xa, không biết phục tùng Thánh Ý Thiên Chúa. Lập tức ông bắt đầu một cuộc cải
cách khiến cho Yêrêmia lòng đầy phấn khởi. Sự mô tả những biện pháp cải cách
nhằm chống lại sự bái sùng ngẫu tượng cho ta thấy sự sa đọa tinh thần của Yuđa
đã đến một mức độ kinh khủng.
"Vua truyền cho Hilkiah
thượng tế, các tư tế đệ nhị phẩm, các thủ hộ phải đem ra khỏi đền thờ Yavê hết
các đồ vật đã làm để kính bái Baal, Ashêrah và tất cả cơ binh trên trời . Ông
cho thủ tiêu những tư tế mà các vua Yuđa đã đặt ra để huân yên trên các tế đàn
nơi các thành Yuđa và vùng ngoại ô Yêrusalem, cùng những kẻ huân yên cho Baal,
nhật nguyệt, các chòm sao và tất cả cơ binh trên trời. Ông cho đem nêu thờ khỏi
nhà của Yavê . Ông triệt hạ các nhà chứa điếm tế tự nam nơi nhà Yavê, nơi mà
các phụ nữ dệt áo cho Ashêrah . Ông làm cho uế tạp Tophet trong thung lũng
Ben-hinnom, để đừng ai chuyền qua lửa con trai, con gái của mình cho Môlok. Ông
đã phá hủy những con ngựa các vua Yuđa đã cung hiến cho mặt trời ở lối vào nhà
Yavê . và ông cho phóng hoả những xe của mặt trời, và những tế đàn trên sân
thượng của nhà Akhaz do các vua Yuđa đã làm, cùng những tế đàn Manassê đã làm
nơi hai tiền đình nhà Yavê, vua đã triệt hạ và đập tan tành . Các cao đàn đối
diện với Yêrusalem về phía nam núi Tàn Phá, vua Salômon đã xây cho Astartê, đồ
tởm của dân Siđon, Kamosh, đồ tởm của dân Moab, Milkom, đồ quái gở của con cái
Ammon, vua cho làm ra uế tạp và đập bể các bài vị, chặt các nêu thờ." (4V.
23, 4 - 14).
Ta không còn ngạc nhiên tại sao
các tiên tri lại đả kích một cách mạnh mẽ như thế, và tại sao hình phạt của
Thiên Chúa lại khắc nghiệt như thế. Sự bái sùng ngẫu tượng, những nghi lễ sinh
sản đông đảo đồi trụy, và ngay trong đền thờ ! Vương quốc tội lỗi của satan
được bảo vệ bằng những hào hố kiên vững biết bao !
Yôsya và công cuộc cải cách của
ông kéo dài gần 13 năm. Vào năm 609 trước TCGS, vua này bị giết trong một trận
đánh mà độc giả ngày nay chắc sẽ cho là điên khùng. Ðế quốc hùng cường Assyri
đã bị ngã quỵ trước cuộc tấn công khốc liệt của quân Babylon. Ninivê, thủ đô
nổi tiếng của Assyri bị hủy diệt năm 612 trước TCGS. Tuy nhiên, tàn quân Assyri
đã tập hợp lại để tử thủ. Quân đội Aicập vội vã đi lên phía bắc để yểm trợ quân
Assyri, và Yôsya, một cách khờ dại, đã cố gắng ngăn chận quân Aicập không để họ
đi xuyên qua Phalệtinh, ông chết trong trận đó. Và những ngày bình an của sứ
mệnh Yêrêmia cũng chấm dứt theo cái chết của ông. Những vua kế vị Yôsya không
phải là những người đẹp lòng Thiên Chúa và những cuộc đối phó thường xuyên của
Yêrêmia với họ chỉ đem lại thất vọng và vô hiệu quả, lại gây nguy hiểm cho tính
mạng của ông.
Có bốn người lên kế vị, nhưng
hai người, Yoakhaz và Yoakin chỉ cai trị được ít tháng. Yêrêmia phải bỏ ra hầu
hết thì giờ và sức lực của mình để đương đầu với Yoakhim và Sêđêqya. Yoakhim
trị vì từ 609 - 598 ; Sêđêqya từ 598 cho đến khi thành Yêrusalem bị hủy diệt
năm 587 trước TCGS. Trong bốn ông này thì Yoakhaz, Yoakhim và Sêđêqya là con
của Yôsya, còn Yoakin là con của Yoakhim.
1. Yôsya
(Trị vì 638 - 609 trước TCGS)
2. Yoakhaz
(selium) 3. Yoakhim 5. Sêđêqya : vị vua cuối cùng
(3 tháng
năm 609) (609 -598) của Yuđa (598 - 587
(bị lưu
đày sang Aicập) (bị đày sang Babilon)
4. Yoakin
(Yêkhônia
: cônia)
(3 tháng
năm 598)
(bị lưu
đầy sang Babilon)
Ðời sống bi thảm của Yêrêmia đã
làm cho ông xứng đáng với danh hiệu là "con người sầu khổ". Nghiệp vụ
của ông thật là xáo động, nhất là 20 hoặc 25 năm cuối cùng. Khi tự gọi mình là
"con chiên bị đem đi giết" (Yr. 11, 19), ông đã vô tình nhưng quả
thực là tự đặt mình làm tiền thân của Ðức Kitô, Ngài cũng sống dưới bóng của
thành Yêrusalem sắp bị tiêu diệt. Cuộc đời của Yêrêmia chỉ là những chuổi ngày
đau khổ. Việc ông đả kích sự đồi trụy của những người kế vị Yôsya và những tư
tế hay dân chúng đã làm cho ông bị oán ghét kinh khủng. Ðường lối chính trị chủ
bại gàn dở của ông đã trút xuống đầu ông cơn thịnh nộ của các vua và các tướng
lãnh. Lập trường của Yêrêmia không thể bị đánh giá đúng đắn bằng cặp mắt trần
tục, nhưng phải bằng cái nhìn của Thiên Chúa. Yêrêmia đã thấy rằng tội lỗi của
Yuđa đã quá mức. Sự trừng phạt tất nhiên phải đến tự nơi tay Thiên Chúa, và
Thiên Chúa đã chọn dân Babilon làm dụng cụ để thi hành án phạt. Quân đội
Babilon dưới sự lãnh đạo của Nabukôđôsor chỉ là đòn công lý của Thiên Chúa
giáng xuống tội lỗi của Yuđa. Không có gì ngăn được sự trừng phạt này. Chống
đối lại, như các vua và các tướng lãnh đã có ý định tức là chống đối Thiên
Chúa, một việc làm điên cuồng nhất. Ðó là quan điểm của Yêrêmia bởi vì đó là
quan điểm của Thiên Chúa. Nhưng khi rao giảng như thế với tất cả sức lực của
mình, niềm tin của Yêrêmia bị căng thẳng đến tột độ.
Tiên tri này bị đánh đòn và đeo
gông (20, 2), bị câu lưu trong sân khu vệ quân (30, 1), bị đánh đập và bị giam
trong một cái hầm có mái vòm (37, 15 - 16). Sau hết, họ đã đem Yêrêmia đi mà
quăng xuống bể nước của hoàng tử Malkiyahu, ở ngay trong sân khu vệ quân, họ đã
lấy thừng giọi ông xuống, bề không có nước mà chỉ có bùn ; và Yêrêmia đã lún
xuống bùn (38, 5 - 6). Sự việc này cho ta một hình ảnh cảm động nhất về vị tiên
tri bị đau khổ, bị ném xa khỏi mắt thế tục, bị quăng sâu xuống chổ bùn nhơ.
Lại còn những sự đau khổ khác
nữa, thuộc phạm vi gia đình hơn, và vì thế, lại càng làm đau lòng con người
nhạy cảm này hơn nữa. Chính bà con cũng như những người hàng xóm của Yêrêmia
cũng âm mưu hãm hại ông.
"Vì ngay chính anh em của
ngươi, những người trong nhà cha ngươi cũng phản bội ngươi ; họ tập họp lực
lượng để chống đối ngươi"(12, 6).
"Cho nên Yavê phán về những
người Anatôt muốn mưu hại mạng ngươi mà rằng : Ðừng tuyên sấm nhân Danh Yavê,
chẳng vậy mày sẽ chết tong tay chúng ta !" (11, 21).
Trong nhà cha của ông, trong quê
quán của ông cũng như tại Yêrusalem, không một nơi nào Yêrêmia được bằng yên và
khỏi bị chê cười "Tiên tri có bị khinh, thì chỉ có nơi quê quán và nơi nhà
mình thôi" (Mt. 13, 57). Ðức Kitô mô tả một lối đối xử y hệt như thế.
Không gì đáng ngạc nhiên khi ta thấy nỗi thống khổ tinh thần mà ông mô tả trong
những chương gọi là "tự thú củ Yêrêmia", chứng tỏ ông đã chịu đựng
quá sức người phàm. Ðâu rồi, những trợ lực của Thiên Chúa ? Sự trợ lực mà Thiên
Chúa đã hứa khi kêu gọi Yêrêmia ? Tại sao ông bị bách hại tứ phía và không
ngừng ? Tại sao ông không được chút cảm tình nơi thính giả, không chút mảy may
thành công ?
Yêrêmia gần như mất cả niềm tin
và gần như bỏ cuộc, tâm trạng của một tâm hồn trung tín bị thử thách kinh khủng
đã được mô tả trong những đoạn như 15, 10 - 18 ; 20, 7 - 18, là một phần
"những lời tự thú của Yêrêmia".
"Người dụ dỗ tôi, lạy Yavê,
và tôi đã để mình bị dụ,
Người đã uy hiếp tôi và đã thắng
; suốt ngày tôi đã nên trò cười, cả lũ chúng nhạo báng tôi.
Vì hễ tôi phải nói, là tôi la
lối, những kêu lên : Hành hung và ức hiếp.
Vì lời Yavê đã nên cho tôi mối
hổ nhục và chế giễu suốt ngày.
Tôi tự nhủ tôi sẽ không nghĩ đến
nữa, tôi sẽ không nói nhân Danh Người nữa !
Nhưng nơi lòng tôi như lửa bừng
bừng, bị dồn ép trong xương cốt tôi.
Tôi hết sức nén lại, nhưng không
tài nào nén được .
Ðồ chúc dữ, cái ngày tôi đã sinh
ra ! Ngày mẹ tôi đã đẻ ra tôi, ước gì nó chẳng được chúc lành !
Ðồ chúc dữ, kẻ đã đem tin mừng
cho cha tôi mà rằng : Con ông đã ra đời, một con trai. Và đã làm cho người mừng
vui khôn tả ! Người ấy hãy nên như các thành Yavê đã lật nhào mà chẳng hề hối
tiếc, sáng sớm nó hãy nghe kêu cứu và vào buổi trưa tiếng hò xung phong ! Bởi
nó đã giết quách tôi ngay nơi bụng mẹ, khiến cho mẹ tôi nên mồ chôn tôi và bụng
mẹ tôi chửa tôi mãi mãi !
Tôi đã lọt lòng mẹ làm gì, để
phải thấy những lao đao phiền sầu, và ngày đời tôi tiêu hao trong tủi hổ ? (Yr.
20, 7 - 9 ; 14 - 18)
Ðiều đáng ngạc nhiên là Yêrêmia không bỏ cuộc. Ông vẫn hy
vọng giữa cơn tuyệt vọng, ông tin tưởng giữa lúc không thấy một dấu hiệu nào
chứng tỏ có sự trợ lực của Thiên Chúa. Ông làm việc mình phải làm chỉ vì Thiên
Chúa muốn như thế. Và chúng ta nên nhớ là ông không hề có một viễn ảnh đầy an
ủi về miền hoan lạc và sự bình an trên trời như chúng ta, nhưng ông chỉ được hé
mở cho thấy một sự bí mật nặng nề cho những người nước Yuđa trong thời ông.
Yêrêmia tiếp tục chịu đau khổ vì Thiên Chúa, trong lúc mà phần thưởng duy nhất
ông biết được là một phần thưởng bị giới hạn trong thế gian này, nhưng phần
thưởng ấy ông cũng không gặp được trong đời sống. Ðến lúc "chư thánh diễn
hành bước vào" trong ngày tận thế, con người sầu khổ này chắc chắn sẽ được
vinh quang nổi bật nhất.
Nổi đau khổ sâu xa của Yêrêmia
cũng có thể là do cảnh hãi hùng xảy ra đúng như lời ông cảnh cáo, cảnh thành
Yêrusalem kiêu căng bị hủy diệt hoang tàn. Năm 587 trước TCGS, sau một cuộc bao
vây ác liệt khoảng một năm rưỡi, lực lượng của Nabukôđônosor tiến vào Yêrusalem
và phá hủy cả thành lẫn đền thờ. Những lời tiên tri bi thảm của Yêrêmia và
những bạn đồng nghiệp của ông đã ứng nghiệm "Ngày của Yavê" lại đến,
cái ngày phán xử công minh. Tội lỗi của Yuđa đã kéo hình phạt từ trời xuống ;
không có cách nào khác để ngăn chận những sự đồi trụy của nó và đưa nó về con
đường thống hối. Yêrêmia đau nát lòng khi thấy thành của Ðavít và đền thờ đều
hóa thành những đống gạch vụn. Khi mà được phép chọn lựa, hoặc sống cách vinh
dự, ở Babilon nơi người Yuđa đang bị lưu đày, hoặc ở lại giữa cảnh điêu tàn của
Yuđa, ông đã chọn cách thứ hai này. Nhưng ngay cả ở đó, cụ già Yêrêmia cũng
không hưởng được an bình và nghỉ ngơi. Người bạn của ông, Gôđôlia, mà người
Babilon đã đặt lên để cai trị những người Yuđa không bị đưa đi lưu đày, đã bị
ám sát. Sợ quân Babilon trả thù, các bạn bè của Yêrêmia liền trốn sang Aicập,
mặc dù ông hết sức can ngăn, thế rồi ông buộc lòng phải đi theo họ và ở đó trên
dãi đất mà Môsê đã giải thoát dân chúng độ 650 năm về trước, Yêrêmia lại đau
khổ thêm khi thấy những đồng bào Yuđa của ông hăm hở bái sùng những ngẫu tượng
của địa phương đó. Khi vị tiên tri này khiển trách họ, thì họ trả lời như sau :
"Về lời ông nói với chúng
tôi nhân Danh Yavê, chúng tôi không nghe ông đâu, song le chúng tôi quyết thi
hành cho trọn vẹn lời đã xuất từ miệng chúng tôi, là huân yên kính đức thiên nữ
vương, và dâng rượu tế kính bà, như chúng tôi đã làm. Chúng tôi, cha ông chúng
tôi, các vua và các vương công của chúng tôi, trong các thành Yuđa và nơi các
phố phường Yêrusalem ; bấy giờ chúng tôi được ăn bánh no nê, được sung sướng và
hết phải thấy tai họa. Nhưng từ khi chúng tôi thôi không huân yên kính đức
thiên nữ vương và dâng rượu tế kính bà, chúng tôi đã phải thiếu thốn mọi sự, và
đã tiệt dân vì gươm, vì đói" (44, 16 - 18).
Tình trạng cuối cùng cuộc đời
Yêrêmia là như thế đó. Ông chết đi giữa sự thất bại hoàn toàn dưới mắt thế
gian. Ông đã làm việc rất vất vả, chịu đau khổ rất nhiều và đã thành công rất
ít. Chỉ trong những năm sau khi ông chết, khi người Yuđa bị đày ở bên Babilon,
nhìn lại số phận của mình và những lời rao giảng của Yêrêmia, thì con người đặc
biệt này mới bắt đầu được quý chuộng. Những điều ông viết ra đều được bảo quản,
sứ điệp của ông được nghiên cứu và những lời giảng dạy của ông được áp dụng.
Nội dung những điều Yêrêmia đã
giảng dạy, nói cách ngắn gọn, là như thế nào ?
Sự bái sùng ngẫu tượng lan tràn,
đó là điều gai mắt nhất trên đất Yuđa. Khi Yoakhin lên ngôi năm 609 trước TCGS,
những hiệu quả tốt lành do công trình cải cách của vua cha Yôsya của ông, đều
bị bỏ rơi. Những thần ngoại giáo được bái thờ khắp nước Yuđa, ngay cả trong đền
thờ. Sự bắt trẻ con làm lễ vật thiêu sinh lại bắt đầu ở thung lũng Hinnom, ngay
phía nam Yêrusalem. Yuđa cũng áp dụng chính những hình thức tôn giáo đồi bại đã
khiến cho Israel bị Thiên Chúa trừng phạt. Bàn tay công minh của Thiên Chúa
không thể ngăn chận được nữa.
"Phải chăng các ngươi không
trông thấy chúng làm gì trong các thành Yuđa, và nơi các phố phường Yêrusalem ?
Con cái lượm củi, các ông bố nhóm lửa, các bà vợ nhồi bột làm oản kính thiên nữ
vương ; đoạn chúng chước tửu tế kính các thần khác . Dân chúng Yuđa đã làm sự
dữ trước mắt Ta - sấm của Yavê - chúng đã đặt những đồ nhờm tởm của chúng trong
nhà trên đó Danh Ta đã được kêu khấn, để làm cho nhà ấy ra nhơ uế. Chúng đã xây
cao đàn Tôphet trong thung lũng Ban-Hinnom, để hỏa thiêu con trai, con gái
chúng . (7, 17 - 18 ; 30 - 31).
Thứ tôn giáo chỉ vụ hình thức
cũng lan tràn một cách ngấm ngầm như ung thư trên khắp nước Yuđa. Chúng ta đã
thấy Yêrêmia từng lên tiếng tố cáo mạnh mẽ Yuđa đã tin cậy quá ở sự hiện diện
của đền thờ Yêrusalem. Họ tin tưởng rằng mình là dân Thiên Chúa, là con cháu
Abraham, cũng quá đáng và quá tự đắc. Ðiều Thiên Chúa đòi hỏi, theo lời Yêrêmia,
là sự cắt bì thiêng liêng, là sự dâng hiến lòng và tai để hiểu ý muốn cũa Thiên
Chúa và tuân theo.
"Hãy cắt bì sùng bái Yavê,
hãy cắt bì lòng các ngươi, hỡi người Yuđa và dân cư Yêrusalem, đừng để phẫn nộ
của Ta như lửa phóng ra, nó bốc cháy mà không ai có tài dập tắt vì những hành
vi ngang trái của các ngươi" (4, 4).
"Với ai tôi phải nói, phải
đoan chứng để họ nghe cho ? Này tai chúng, tai không cắt bì, chúng không thể
nào chú ý được, này lời Yavê đã nên trò cười đối với chúng, chúng không màng
tới" (6, 10).
Nhiều thế kỷ về sau, thánh
Phaolô cũng nhấn mạnh chân lý đó : "Vì chúng ta mới là giới cắt bì, hạng
người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí" (Ph. 3, 3).
Tuy nhiên sứ điệp quan trọng
nhất của Yêrêmia là sứ điệp nói về Giao Ước mới mà Thiên Chúa sẽ thiết lập.
Sách Yêrêmia không phải chỉ toàn là cảnh cáo, là hô hào trật tự, hay nghiêm
khắc tố cáo tội ác. Nó cũng còn chứa đựng vài đoạn đầy an ủi nhất trong bộ sách
các tiên tri. Các chương 30 - 31 là cao đỉnh thiêng liêng tuyệt vời của sấm
Yêrêmia, và là cái nhìn trực tiếp của Yuđa về một tương lai sẽ được kết hiệp
mật thiết với Thiên Chúa. Yêrêmia nói về Giao Ước Mới sẽ đến, về tôn giáo mới
trong tâm hồn và thành thật bên trong. Thật vậy, lời tiên tri này hết sức quan
trọng trong lịch sử cứu độ đang biến chuyển. Giao ước thời Môsê ràng buộc
Israel với Thiên Chúa của họ một cách thật là tốt đẹp. Giao ước thời Ðavít mà
Nathan đã loan báo, nhấn mạnh vào vai trò trọng tâm của vị Vua dòng dõi Ðavít ;
Vua ấy sẽ là Con của Thiên Chúa và một ngày nào đó sẽ có một vương quốc phổ bác
và vĩnh cửu. Nhưng Israel đã không trung thành lời giao ước với Thiên Chúa của
họ và đã lập nhiều đền thờ để tế các tà thần dân ngoại. Bởi đó, giao ước này bị
hủy bỏ. Lời hứa cũa Yêrêmia về một Giao Ước Mới là một loạt mũi tên khác nhằm
vào tôn giáo mới, lời Giao Ước Mới này sẽ được bảo chứng bằng Máu Chúa Kitô
(1C. 11, 25), Ngài là Môsê mới và là Con Vua Ðavít.
"Này sẽ đến những ngày -
sấm cũa Yavê - Ta kết với nhà Israel và nhà Yuđa, một Giao Ước Mới, không phải
như Giao Ước Ta đã kết với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay chúng để đem chúng ra
khỏi đất Aicập. Chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dù Ta là Chúa tể của chúng
- sấm của Yavê - Ta sẽ đặt luật của Ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết lên
tim lòng chúng ; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng ; còn chúng, chúng sẽ là Dân
của Ta (31, 31 - 33).
Lời rao giảng của Yêrêmia là lời
cảnh cáo cuối cùng cho dân chúng thời ông. Ðó là điều rõ rệt nhất. Tiếng nói
của ông là tiếng cuối cùng của Thiên Chúa nói với dân Yuđa. Nếu nó không được
tôn kính và vâng phục, thì nhất định tai họa sẽ đến.
"Hãy nghe và hãy lắng tai,
đừng có tự cao tự đại, vì Yavê phán. Cho Yavê Thiên Chúa của các ngươi, hãy
dâng kính vinh quang trước khi tời tối, trước khi chân các ngươi vấp rặng núi
lẫn vào nhá nhem. Các ngươi trông còn sáng, nhưng người sẽ đổi thành u minh,
biến ra mù tối.
Nhược bằng các ngươi không nghe,
trong âm thầm hồn Ta chỉ còn biết khóc sự kiêu mạn của các ngươi và mắt Ta nhỏ
lệ, vì đàn chiên của Yavê bị dẫn đi đày" (13, 15 - 17).
Yêrêmia đã tặng cho Yuđa một cơ
hội may mắn cuối cùng, cũng như Amos và Hôsê đã làm cho Israel, nhưng cơ hội
này đã bị khước từ. Lời kêu mời của Thiên Chúa bị khinh chê và tiên tri của
Ngài bị nhạo cười. Vì thế năm 587 trước TCGS, người Babilon đã hủy diệt cả
thành lẫn đền thờ và đưa dân chúng đi đầy sang Babilon.
Chuỗi những biến cố lịch sử nằm
sau cái án phạt cuối cùng này thật là quan trọng, nhưng chúng ta không thể làm
được gì hơn là chỉ phát họa nó trong việc nghiên cứu nhanh chóng của chúng ta
về sự cứu độ. Ðế quốc Assyri nắm quyền kiểm soát miền cận đông trong vòng độ
300 năm, bắt đầu suy yếu vào nửa thế kỷ thứ bảy trước TCGS. Nó bị sụp đổ trước
sự tấn công của quân Babilon và quân Mêđê năm 612 trước TCGS. Ninivê, thủ đô
đáng kính của nó, đã bị hủy diệt và những tàn quân của Assyri tập hợp tại Haran
để cố thủ một cách vô hiệu. Chính vào lúc này, năm 609, vị vua anh minh Yôsya
bị giết trong khi ông cố gắng ngăn chận quân lực Aicập kéo họ tiến về phía bắc
tiếp viện cho quân Assyri.
Ít lâu sau, năm 605 trước TCGS,
Nabukôđônosor lên ngôi ở Babilon, lúc bấy giờ hùng cường nhất thế giới, Yuđa bị
bắt nộp triều cống cho ông. Mỗi lần Yuđa bỏ qua nhiệm vụ đó, ông liền gửi quân
đội sang để sửa sai. Vị vua Yuđa lúc đó là Yoakin, vừa mới thay thế vua cho
Yoakhim, bị bắt đưa sang Babilon cùng với một số người ưu tú của Yêrusalem, vào
khoảng năm 598.
Yoakin bị lưu đày được Sêđêqya
kế vị, ông này là vị vua cuối cùng của Yuđa, là một con người thiếu cương
quyết. Khi Aicập, Tyrô và Ammon ép buộc ông liên minh với họ để chống lại Babilon,
ông đã quên lời khuyến cáo của Yêrêmia và đã liên kết với họ. Quân Babilon tức
giận tràn xuống. Cuộc bao vây thành Yêrusalem bắt đầu năm 588 và kéo dài trong
18 tháng tàn nhẫn. Cuối thời gian đó, người Yuđêa bị vây chặt trong thành, phải
điên khùng và ốm yếu vì đói khát và bệnh tật. Năm 587, tường lũy bị phá vỡ. Vua
Sêđêqya chạy trốn vào sa mạc về phía đông, nhưng đã bị bắt gần Yêrikhô và bị
nộp cho Nabukôđônosor đang ở trong tổng hành dinh của ông tại Ribla. Các con
trai của ông bị giết trước mặt ông, rồi người ta móc mắt ông. Ðiều mà ông được
trông thấy lần cuối cùng là máu của các con ông chảy ra. Rồi người ta xiềng ông
lại để đưa đi lưu đày sang Babilon.
"Tháng Mười năm thứ Chín
đời vua Sêđêqya, vua Yuđa, Nabukôđônosor, vua Babilon và tất cả quân binh của
ông, đến Yêrusalem và đã vây thành. Mồng Chín tháng Tư, năm Mười Một, đời
Sêđêqya, thành bị công phá .
Tất cả các tướng lãnh của vua
Babilon đi vào và đặt bản doanh ở cổng giữa .
Vừa thấy thế, Sêđêqya, vua Yuđa,
và tất cả binh lính bỏ chạy và ra khỏi thành ban đêm theo hướng con đường ngự
uyển, qua cổng giữa hai lũy. Vậy ông đã ra theo con đường đến hoang-giao. Quân
Kan-đa đuổi theo sau họ và chúng đã đuổi kịp Sêđêqya trong vùng hoang giao
Yêrikhô. Chúng đã bắt ông và điệu đến Nabukôđônosor, vua Babilon ở Ribla trong
đất Khamat và vua Babilon đã tuyên án trên ông. Vua Babilon đã cho hạ sát ở
Ribla các con của Sêđêqya trước mắt ông. Vua Babilon cũng cho hạ sát tất cả
hàng thân hào Yuđa. Ðoạn vua đã đâm mù mắt Sêđêqya và cho xiềng ông lại bằng
hai xích đồng để điệu về Babilon" (Yr. 29, 1 - 7).
Nơbuzarađan, hồng lô tự khanh,
quan hầu cận của vua Babilon, được sai đi hủy diệt thành Yêrusalem. Cả quốc gia
lẫn tôn giáo của Israel đều cáo chung. Tôi lỗi đã để lại những hậu quả tàn hại
biết bao ! Vương quốc bị tiêu tan, kinh thành bị phá hủy, đền thờ bị bình địa !
"Mồng Mười tháng Năm.
Nơbuzarađan, hồng lô tự khanh, quan hầu cận trước mặt vua Babilon đến
Yêrusalem. Ông đã đốt nhà của Yavê, cung điện nhà vua và tất cả các nhà ở
Yêrusalem ; mọi ngôi nhà to lớn đều bị lửa thiêu hủy. Quân lính Kanđu dưới
quyền quan hồng lô tự khanh, đã triệt hạ tất cả các tường lũy quanh Yêrusalem.
Dân còn sót lại trong thành,
những người đã đào ngũ theo vua Babilon và những thợ thuyền còn lại, thì
Nơbuzarađan hồng lô tự khanh đã bắt đi đày. Còn lê dân trong xứ, Nơbuzarađan
hồng lô tự khanh đã giữ lại để trồng nho và canh tác.
Quân Kanđu đập bể các trụ đồng
nơi nhà Yavê, các giá chở vạc và biển đồng trong nhà Yavê, mà lấy đồng đem về
Babilon. Họ cũng lấy cả nồi niêu, xẻng, bình tưới, quán tôn, đĩa bát và tất cả
những gì bằng vàng bằng bạc. Hai cột trụ, một biển đồng và 12 con bò bằng đồng
ở bên dưới cái giác chở vạc vua Salômon đã làm cho nhà Yavê. Ðồng của tất cả
các đồ vật ấy thật vô lường . Vậy Yuđa đã bị đày xa đất đai của họ (Yr. 52, 12
- 28).