KITÔ GIÁO VÀ DO THÁI
GIÁO
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA HAI TÔN GIÁO
NÀY.
Chúng ta thấy rằng Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước
chính thức, hai tôn giáo chính thức trên thế giới. Giao ước thứ nhất với Môsê,
tức là giao ước cũ phát sinh từ trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Ðức Kitô,
Môsê Mới, trên núi các mối phúc thật và được bảo chứng trên Núi Sọ. Sự khảo
luận về việc cứu độ đến đây đã gần chấm dứt, thiết tưởng cũng nên nói ít lời về
mối tương quan giữa hai giao ước ấy. Bởi vì có một mối tương quan rất rõ rệt.
Ðức Kitô, mặc dù sinh ra do một nữ trinh, và như thế là có sự phá vỡ giữa cũ và
mới, vẫn là thuộc dòng dõi Abraham và Ðavít. Sự việc này liên kết hai tôn giáo
lại, và như thế chúng đều nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nhưng
mối tương quan thực ra ở chỗ nào ?
Ở đây, một lần nữa, chúng ta
phải quay sang nhà thần học của Tân Ước, thánh Phaolô. Ðối với ông vốn là con
người Biệt Phái đã được rèn luyện lâu năm để hiểu biết và yêu mến lề luật Môsê,
vấn đề này có tầm quan trọng sâu xa. Ông giải thích mối tương quan giữa Dothái
giáo và Kitô giáo bằng nhiều cách khác nhau, mà tất cả họp chung lại sẽ cho ta
một hình ảnh đầy đủ.
Trước hết, Dothái giáo có nhiệm
vụ làm quản giáo cho Kitô giáo, từ ngữ quản giáo ở đây có thể bị hiểu lầm. Nó
được phiên dịch từ tiếng Hylạp và có nghĩa như người sư phạm. Ðể tránh lầm lẫn,
nên nhớ luôn rằng đối với người Hylạp, người sư phạm là một người nô lệ dẫn đứa
trẻ đi học, một khi đứa trẻ đã được đưa tới cửa trường, là nhiệm vụ của sư phạm
đã xong. Từ ngữ quản giáo hay sư phạm mà Phaolô dùng để chỉ Dothái giáo phải
được hiểu theo ý nghĩa này. Nhiệm vụ của Dothái giáo là dẫn thế giới tới cửa
Ðức Kitô. Một khi đã tới đó, là nó đã xong nhiệm vụ, nói thế dĩ nhiên là không
có ý làm suy giảm sự quan trọng công việc của nó, nhưng, và điều này được
Phaolô nhấn mạnh, công việc của nó đến đây là chấm dứt. Thế giới đã được dẫn
đưa tới cửa Ðức Kitô : Những ngày của Dothái giáo giáo đã hết rồi.
"Cho nên lề luật đã thành
quản giáo dẫn tới Ðức Kitô, ngõ hầu ta được giải án tuyên công do đức tin. Một
khi đức tin đến rồi, ta không còn ở dưới quyền quản giáo" (Gal 3, 24 -
25).
Một cách giải thích thứ hai, so
sánh Dothái giáo như là một đứa trẻ, vị thành niên, còn Kitô giáo như là người
lớn, đã thành niên. Trong thời gian đứa trẻ còn bé, nó được đối xử gần như một
nô lệ, nó bị canh chừng và theo dõi. Gia tài đã được hứa cho nó rồi, nhưng nó
không được hưởng và xử dụng. Một khi nó đã trưởng thành, tình thế đổi khác hẳn.
Nó là một người con đã lớn, đã thành niên và là một người kế thừa có trọn quyền
trên gia tài của mình. Dothái giáo so sánh với Kitô giáo, theo nhận xét của
Phaolô, cũng gần tương tự như thế. Dothái giáo bao giờ cũng vẫn là non trẻ,
được coi gần như nô lệ, và bị ràng buộc bằng đủ thứ luật lệ. Kitô giáo là người
trưởng thành, được tự do trong sự tự do của Thánh Thần, và đã hưởng gia tài, là
Thánh Thần mà Ðức Kitô Phục Sinh ban cho. Xin nhắc lại lần nữa Phaolô không bao
giờ có ý mạt sát Dothái giáo. Tóm lại người trưởng thành là người đã đạt tới
giai đoạn một đứa trẻ phải tới. Câu "Ðứa trẻ là cha của người lớn"
(Child is father of the man) là theo nghĩa đó. Không có, và không bao giờ có
thể có sự chia cách giữa hai giai đoạn này trong đời sống của con n. giai đoạn
thứ hai được dựa trên giai đoạn thứ nhất, tùy thuộc vào nó, khác hẳn với nó,
nhưng nhất thiết liên quan với nó.
"Thiết nghĩ : bao lâu kẻ
thừa tự còn là niên thiếu, thì không khác gì nô lệ, tuy nó là chủ cả mọi sự,
nhưng nó phải ở dưới quyền bảo phụ và quản gia, mãi cho mãn hạn người cha đã
định. Chúng ta cũng vậy, khi ta còn là niên thiếu, ta phải làm nô lệ dưới quyền
những nhân tố trần gian. Nhưng khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của
Ngài, sinh bởi người nữ, sinh dưới lề luật, ngõ hầu ta được chịu lấy quyền
nghĩa tử. Mà bởi vì anh em là con cái, thì Thiên Chúa đã sai Thần Khí Con của
Ngài vào lòng anh em, Thần Khí kêu lên : Abba, lạy Cha. Cho nên ngươi không còn
là nô lệ, nhưng là con, mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự thể theo ý của
Thiên Chúa" (Gal 4, 1 - 7).
Thiết tưởng cũng là điều hữu ích
khi chúng ta thử nêu lên một số đặc điểm chứng tỏ mối tương quan giữa hai tôn
giáo này mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại. Sau đây là bảng liệt kê một số yếu
tố tương quan trong mỗi tôn giáo :
2. Lề luật của người Dothái đặt nền tảng trên thập giới.
Tất cả giới luật này đều dựa trên đức công bình, "của anh, của tôi".
Con người phải trả lại cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Ngài, và không được lạm
dụng cái gì thuộc về Thiên Chúa ; con người phải trả cho đồng loại cái gì thuộc
về họ, và không được trộm cắp, hủy diệt hay ước muốn nó (lòng yêu mến cũng là
một điều răn trong Cựu Ước, nhưng nó rất là hạn hẹp về lý thuyết cũng như thực
tế. Ít khi nó được hiểu là phải bao gồm cả những người không phải Dothái, huống
chi là kẻ thù địch).
3. Những hiến lễ của Dothái giáo
là thú vật và sản phẩm. Có những hy lễ, hiến lễ hiệp thông, đền tội, dâng
hương, dâng bánh và hoa màu của ruộng đất.
1. Ba Ngôi - Ðây là chân lý tối cao của Kitô giáo. Dĩ
nhiên nó không phủ nhận việc chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, mà nó thêm vào cái
chân lý căn bản này một sự hiểu biết sâu xa hơn nhiều về bản tính của Thiên
Chúa Ba Ngôi bằng nhau : Cha Con và Thánh Thần.
2. Lề Luật của Ðức Kitô thì cao thượng hơn nhiều, nói được
là đơn giản hơn, nhưng chắc chắn là khó hơn nhiều. Nó có thể được diễn tả bằng
hai tiếng YÊU MẾN. Có nghĩa là phải mến Thiên Chúa trên hết tất cả, và hết sức
mình, và thương yêu đồng loại như chính mình. Ai yêu mến đồng loại (và đối với
người Kitô hữu, đồng loại là tất cả mọi người) thì không cần bảo đừng giết
người, đừng trộm cắp, đừng cướp đoạt vợ người. Theo chiều hướng này thì Luật
Bác Ái đã làm cho Thập Giới trở thành không cần thiết nữa.
3. Hiến lễ của Kitô giáo thì cao
hơn hiến lễ của Dothái giáo nhiều. Ðồng thời nó bao gồm tất cả mọi khía cạnh
trong hiến lễ Cựu Ước. Mình và Máu Ðức Kitô, của lễ yêu mến và vâng phục, là
hiến lễ trên Núi Sọ và được tái diễn
4. Ðiều người Dothái lấy làm
hãnh diện nhất là tước hiệu Con của Thiên Chúa. Ðiều này có nghĩa là Thiên Chúa
đối xử với họ theo tình cha con. Ngài hành động như một Người Cha đối với con
và họ phải tuân phục Ngài như con đối với cha.
5. Cuộc xuất hành là công việc
cứu độ của Thiên Chúa trong tôn giáo cũ. Hiệu quả của nó là cứu thoát khỏi ách
nô lệ Aicập. Những yếu tố chính của nó là sự rảy máu trên cửa và sự vượt biển
6. Của ăn trong cuộc xuất hành
là manna, thứ bánh hữu hình Thiên Chúa cung cấp trong những năm ở sa mạc. Nó
duy trì sự sống tự nhiên của con người.
7. Ðền thờ của lề luật cũ được
xây cất bằng đá và gỗ, để Thiên Chúa cư ngụ trong những năm Khám Giao Ước được
cất trong đó. Nó cũng là trung tâm thờ phụng của dân Dothái.
8. Tiên
tri Hôsê mô tả Israel như là bạn trăm năm của Yavê, một người bạn trăm năm thất
tín, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương nó với tình yêu khôn tả.
trong lễ Missa. Những lễ vật này
cao trọng hơn lễ vật Môsê, cũng như Thiên Chúa làm người cao trọng hơn thú vật.
Ðồng thời sự chết của Ðức Kitô là một hy lễ và cũng là một sự lấy máu để tạ
tội. Sự tái diễn hiến lễ đó trong lễ Missa là một hiến lễ hiệp thông, dùng bánh
rượu là hoa màu của ruộng đất và dùng hương.
4. Sự
được làm Con Thiên Chúa của người Kitô hữu cao hơn thế nữa. Họ là Con Thiên
Chúa là vì họ hợp nhất cách thiêng liêng và mật thiết với Ðức Kitô là chính Con
của Thiên Chúa. Trong Ðức Kitô, Con Thiên Chúa, họ trở thành Con Thiên Chúa.
Thiên Chúa nhìn họ và thấy Ðức Kitô mà họ đã hợp nhất.
5. Kitô
hữu cũng có một cuộc xuất hành, ra khỏi ách nô lệ tội lỗi. Chính Ðức Kitô, Môsê
Mới, đã thực hiện nó bằng cách đổ chính máu của Ngài. Chúng ta thông phần vào
công ơn cứu độ qua nước của phép Rửa Tội.
6. Của
ăn trong cuộc xuất hành của người Kitô hữu là thứ bánh được Ðức Kitô ban cho,
chính Mình và Máu Ngài dưới hình thức phép Thánh Thể. Bánh này duy trì và tăng
cường sự sống thiêng liêng trong những năm con người vượt qua sa mạc để vào Ðất
Hứa trên trời.
7. Chính
Ðức Kitô đã trở nên Ðền Thờ của chúng ta. Ngài đã mạc khải chân lý này khi nói
rằng trong ba ngày, Ngài sẽ tái lập Ðền Thờ, Ngài có ý nói về thân xác Ngài (Yn
2, 21). Ngài là Ðền Thờ có nghĩa là Thiên Chúa phải ở trong Ngài, bởi vì Ngài
là chính Thiên Chúa. Trong Ngài, chúng ta trở nên Ðền Thờ của Thiên Chúa. Ðồng
thời, chính trong phép Thánh Thể là trung tâm thờ phụng của các Kitô hữu. Tấ cả
nghi lễ phụng vụ của chúng ta đều tập trung vào lễ Missa và phép Thánh Thể.
8. Thánh
Phaolô cũng nói về Giáo Hội như là bạn trăm năm của Ðức Kitô. Nói như thế, ông
thêm một chân lý thiêng liêng sâu xa nữa vào ý nhiệm đó. Không những Ðức Kitô
yêu mến và coi Giáo Hội như là bạn trăm năm của mình. Ngài lại còn hợp nhất
Giáo Hội với thân thể Phục Sinh của Ngài bằng đức tin, các Bí Tích và đức mến.
Sự đối
chiếu như thế giữa đứa trẻ niên thiếu và người tráng niên trưởng thành cho thấy
rõ Kitô giáo hơn hẳn Dothái giáo. Kitô giáo là một cái gì giống như Dothái
giáo, nhưng vượt hẳn Dothái giáo rất nhiều chẳng khác gì đứa trẻ niên thiếu đã
lớn lên để trở nên người tráng niên trưởng thành, làm chủ gia nghiệp của mình.
Phaolô
cũng cung cấp một hình ảnh thứ ba và cuối cùng, để mô tả mối tương quan giữa
hai tôn giáo, bằng cách dùng những từ ngữ tương phản giữa lời hứa và sự thi
hành lời hứa. Từ đầu chí cuối, Dothái giáo là một tôn giáo của lời hứa. Nó luôn
luôn nhìn về tương lai, về những ngày sẽ đến, ngày mà những lời hứa cho
Abraham, Môsê, Ðavít và các tiên tri được trọn vẹn. Tất cả những lời hứa đó đã
được trọn vẹn nơi Ðức Kitô, và kết quả là một Giao Ước mới, một tôn giáo mới.
Phaolô đã khẳng định một cách linh động và vắn tắt sự Ðức Kitô làm trọn vẹn các
lời hứa.
"Nhiều
điều Thiên Chúa đã hứa thành có trong Ngài" (2Cr 1, 20).
Những
lời hứa đã được trọn vẹn nơi Ðức Kitô như thế nào ?
Lời hứa
trong sách Khởi Nguyên, chương 3 câu 15, về sự Satan bị đạp dập đầu trong một
cuộc giao tranh mà dòng giống người đàn bà chỉ bị thương nhẹ đã được trọn vẹn
qua sự chết và Phục Sinh của Ðức Kitô. Thật vậy, dòng giống người đàn bà đã bị
thương, và bị thương đến chết, nhưng đó là sự chiến thằng của Ðức Kitô trên tội
lỗi, được nối tiếp bằng sự Phục Sinh của Ngài là cuộc chiến thắng trên chính sự
chết. Và chính lúc Ðức Kitô dường như có vẻ bị thua Satan, thì tình thế đã đảo
ngược. Sự chết không làm gì được Ðức Kitô, và khi cất mạng sống của Ðức Kitô,
thì vương quốc Satan bị thua cuộc. Phaolô đã nêu rõ điều này cho chúng ta.
"Chúng
tôi nói lên sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong mầu nhiệm, sự khôn ngoan giữ
kín, từ trước đời đời Thiên Chúa đã tiền định làm mối vinh quang cho ta"
(1Cr 2, 7 - 8).
2. Lời
hứa với Abraham rằng các nước các dân sẽ được chúc phúc nhờ gia đình của ông,
đã được trọn vẹn nơi Ðức Kitô. Là con cái Abraham, Ngài đã ban phúc lành ấy cho
các dân các nước, những người không phải Dothái, đã hợp nhất với Ngài. Những
người này đã trở thành, trong Ngài, con cháu của Abraham. Phaolô thường nói về
điều này trong các thư gửi tín hữu Rôma và Galát. Ông gói trọn chân lý này
trong một câu đơn giản nhất.
".
Ngõ hầu chúc lành của Abraham, dân ngoại cũng được chịu lấy trong Ðức Giêsu
Kitô ; ngõ hầu nhận bởi lòng tin, ta được lãnh lấy ơn đã hứa, tức là Thần
Khí" (Gl 3, 14).
3. Lời
Nathan hứa với dòng dõi Ðavít nói về một vương quốc sẽ được vĩnh cửu và phổ
bác. Tất cả quyền Phúc Âm Matthêu đều nói về vương quốc này. Vương quốc ấy là
Giáo Hội, Thân Thể mầu nhiệm của Ðức Kitô. Bởi vì chính Ðức Kitô đã khai sinh
vương quốc đã hứa ấy, cho nên Matthêu thường nhấn mạnh trong suốt cả hai chương
đầu Phúc Âm của ông rằng Ðức Kitô là con vua Ðavít. Cũng nên nhớ rằng khi tường
thuật việc turyền tin, Luca nói cách trực tiếp rằng con của Ðức Maria là một
dòng dõi thuộc vương tộc Ðavít, là Ðấng sẽ làm chủ vương quốc vĩnh cửu.
"Chúa,
Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai Ðavít cha Ngài, và Ngài sẽ làm vua trên nhà
Yacob cho đến đời đời, và vương quyền của Ngài sẽ vô cùng vô tận" (Lc 1,
32 - 33).
Lời hứa
này nói về dòng dõi Ðavít, và lời hứa trước nói về sự dân ngoại được chúc phúc,
đã được phối hợp thành một trong Isaia chương 11 câu 10. Phaolô trích dẫn
Isaia, trong khi ông chú thích rằng Ðức Kitô là sự trọn vẹn của lời hứa.
"Ðức
Kitô đã phục vụ giới cắt bì, để chứng thực lòng chân thành của Thiên Chúa, làm
cho các lời hứa trên cha ông được nên kiến hiệu. Còn dân ngoại đã được chứng
nhận vì lòng nhân nghĩa, để họ tôn vinh Thiên Chúa như đã viết . : Chồi lộc
Ysai sẽ xuất hiện, Ðấng sẽ trỗi dậy thống trị muôn dân, muôn dân sẽ trông cậy
vào Ngài" (Rm 15, 8 - 12).
4.
Yêrêmia cũng đã tuyên bố một lời hứa trọng đại :
"Này
sẽ đến những ngày - sấm của Yavê - Ta kết với nhà Israel và nhà Yuđa một giao
ước mới" (Yr 31, 31).
Ðức Kitô
đã thiết lập một Giao Ước Mới, một tôn giáo mới. Nó đã được ấn chứng cũng như
giao ước cũ đã được Môsê ấn chứng. Trên núi Sinai, Môsê đã rảy máu trên bàn thờ
đại diện cho Thiên Chúa, rồi rảy trên dân chúng. Ðây là một biểu hiệu, một dấu
bề ngoài cho thấy rằng Thiên Chúa và dân của Ngài giờ đây đã trở nên một gia
đình, một máu huyết. Ðức Kitô đã ấn chứng tôn giáo mới bằng chính Máu của Ngài.
Khi Phaolô nói về những điều tương truyền liên quan đến bữa tối Tiệc Ly mà ông
đã được phổ biến lại, ông dùng những từ ngữ nói về sự rượu nho đã trở nên máu
gần giống y những từ ngữ Môsê đã dùng ("Ðây là máu của giao ước" -Xh
24, 8), nhưng ông còn thêm chữ "mới" vào để chỉ về lời tiên tri của
Yêrêmia.
"Cũng
vậy về chén, sau khi đã dùng bữa tối xong, Ngài nói : Chén này là Giao Ước Mới
trong Máu Ta" (1Cr 11, 25 ; Hr 6, 6 - 13 cũng nhấn mạnh điều đó).
Lễ Missa
là hiến lễ của Giao Ước Mới, theo lời hứa của Yêrêmia, đồng thời nó cũng là hy
lễ phổ bác như Malaki đã hứa. Tiên tri này thường nói : "Từ phương mặt
trời mọc, cho đến phương mặt trời lặn, Danh Thiên Chúa thật là lớn giữa các dân
các nước". Khắp nơi đều có hiến lễ và lễ vật tinh tuyền cho Danh Ngài. Và
thật ra, chính dân ngoại đã vào tôn giáo của Ðức Kitô và đã chấp nhận hiến lễ
của Ngài như là hiến lễ của chính mình. Ðức Kitô đã truyền dạy trong bữa tối
Tiệc Ly rằng hãy thường xuyên tái diễn hiến lễ này, tái diễn dưới hình bánh và
rượu vốn thật là Mình và Máu Ngài. Ðể loan báo việc Ngài chịu chết cho tới khi
Ngài lại đến lần cuối cùng.
"Chén
này là Giao Ước Mới trong Máu Ta. Các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống, mà nhớ
đến Ta. Vì mỗi lần anh em ăn Bánh ấy và uống Chén ấy, anh em loan báo sự chết
của Chúa cho tới lúc Ngài đến" (1Cr 11, 25 - 26).
5. Môsê
cũng đã tuyên bố một lời hứa nói về một tiên tri vĩ đại sẽ đến. Một hàng dài
những vị tiên tri kế tiếp ông đều góp phần vào sự làm cho trọn vẹn lời hứa này.
Mỗi vị tiên tri đều là sứ giả của Thiên Chúa như Môsê vậy. Nhưng dân Dothái vẫn
mong chờ một vị tiên tri tối cao, cỡ Môsê. Khi Yoan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng
bên kia sông Yođan, thiên hạ nghĩ rằng có lẽ ông là vị tiên tri đang được mong
chờ chăng.
"Và
đây là chứng của Yoan khi người Dothái từ Yêrusalem sai tư tế và Lêvi đến thỉnh
vấn ông : Ông là ai ? Ông tuyên xưng chứ không chối, ông tuyên xưng rằng : Tôi
không phải là Ðức Kitô. Họ lại hỏi : Vậy thì là gì ? Ông là Êlia ư ? Ông nói :
Không phải. Ông là đấng tiên tri ư ? Ông đáp : Không" (Yn 1, 19 - 21)
Yoan không
phải là vị tiên tri ấy, nhưng chính là Chúa Giêsu. Bài giảng của Phêrô nhân dịp
chữa lành người tàn tật tại Cửa Ðẹp của Ðền Thờ đã nói rõ ràng sự làm cho trọn
vẹn này.
"Ðức
Giêsu là Ðấng hiện trời cao phải đón lấy cho đến thời buổi phục hồi vạn vật,
điều mà Thiên Chúa đã phán do bởi miệng các thánh tiên tri của Ngài từ muôn
thuở. Môsê đã nói : Chúa, Thiên Chúa sẽ cho trỗi dậy giữa anh em các ngươi một
Tiên Tri như Ta. Các ngươi phải nghe Ngài trong mọi sự, Ngài sẽ nói cùng các
ngươi. Sẽ xảy ra là phàm sinh linh nào không nghe Tiên Tri ấy, sẽ bị tiêu trừ
khỏi dân Israel" (Cv 3, 21 - 23).
6. Sau
hết, các tiên tri đã nói về một số sót được tuyển chọn, một nhóm ít người
Dothái trung thành, sẽ sống sót sau mỗi hoạn nạn, sau mỗi cuộc tàn phá, để tiếp
tục vận mệnh của Dân Thiên Chúa đã chọn, và để lãnh nhận lời hứa với họ. Nhóm
sống sót này cũng được gặp thấy nơi Ðức Kitô, đặc biệt là nhóm ít người Dothái
đã công nhận Chúa Giêsu là Ðức Kitô và đã hợp nhất với Ngài. Một số đông dân
Israel đã từ chối Chúa Yêsu nên đã phải thiệt mất. Nhưng số ít người được tuyển
chọn, những người thuộc số sót, đã đón nhận Ngài như là Ðấng Messia. Nơi họ,
những lời hứa với Israel đã nên trọn vẹn.
"Thời
bây giờ cũng vậy : số sót có đó, bởi ơn mà được chọn ! Mà nếu là bởi ơn, thì không
còn là do tự việc làm . Ðiều Israel cố tìm thì đã không được, song đã được
những ai được chọn" (Rm 11, 5 - 7).
Vậy hai
tôn giáo ấy giống như một đứa trẻ thiếu niên so với một người con trưởng thành
được quyền thừa tự, như lời hứa so với sự làm cho trọn vẹn. Dothái giáo phụng
sự một mục đích quan trọng là dẫn đưa những vận mệnh thiêng liêng của thế giới
cho đến Cửa là Ðức Kitô. Sự khác biệt căn bản giữa cả hai có thể diễn tả bằng
hai tiếng : Ðức Kitô. Ngài là Ðấng dân Israel hy vọng và yêu cầu, Ngài là Vị
cứu tinh và nguồn sống của Israel.
Quãng
cách giữa hai tôn giáo ấy lớn như thế nào ? Thưa lớn như chính Ðức Kitô vậy !
Ngài thật là quãng cách ! Không phải vì thế mà những người Kitô hữu có quyền tự
hào như thế đó là do kết quả công nghiệp hay giá trị của mình. Ðức Kitô là một
ân huệ ban cho thế gian, mặc dù thế gian không xứng đáng. Ngài là một ân huệ
ban cho linh hồn mỗi một người, đó là cử chỉ yêu thương và nhân từ tuyệt vời
của Thiên Chúa. Sau hết, một nhận xét cuối cùng : Kitô giáo là cái cùng đích
của Dothái giáo. Vì lý do đó, chứ không phải vì lý do nào khác, Kitô giáo phải
bắt tay thân thiện với dân Dothái.
SỰ BÍ ẨN
CỦA DO THÁI GIÁO.
Thật ra
có hai điều bí ẩn lớn liên quan đến Dothái giáo. Ðiều bí ẩn thứ nhất là sự kiện
đáng buồn này : Sau bao nhiêu thế kỷ mong đời Ðấng Cứu Thế và vị Ðế Vương của
mình, nó không nhìn nhận ra được Ngài lúc Ngài đến. Ðó là điều các Kitô hữu đầu
tiên cho là chướng nghịch nhất. Tại sao những anh em Dothái của họ lại có thể
từ chối không tin ở Chúa Giêsu ? Phaolô đã cố gắng trả lời câu hỏi này từ
chương 9 đến chương 11 trong bức thư ông gởi tín hữu Rôma. Ðiều bí ẩn thứ hai
thì có tính cách hiện đại hơn : Dân Dothái đã làm thế nào để tiếp tục sống được
một nhóm trong khoảng thời gian gần 2000 năm nay mà không có đền thờ, bàn thờ
và hiến lễ ? Dĩ nhiên điều bí ẩn này không bao giờ đã tự trình diện với Phaolô,
nhưng với thiên tài lạ lùng của ông, ông đã để lại cho chúng ta một nguyên tắc
để căn cứ vào đó mà tìm ra giải đáp.
Không
nhìn nhận Chúa Giêsu. Trước nhất, chúng ta cần phải xét xem việc dân Dothái
không nhìn nhận Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Thế, là Vua thuộc dòng dõi Ðavít thiên
hạ ngóng chờ. Nổi buồn rầu của Phaolô đối với sự kiện này thật là sâu xa và
chân thành, đến nổi ông đã phơi bày một cách thảm thiết lòng yêu thương của ông
đối với dân tộc ông trong những câu ông viết. Ông thương hại vì họ muốn tách
rời khỏi Ðức Kitô thay vì cần phải hợp nhất với Ngài. Niềm hy vọng và nổi ước
mơ tột đỉnh của ông là họ được ơn cứu độ.
"Trong
Ðức Kitô, tôi nói thật, tôi không nói dối ; trong Thánh Thần lương tâm tôi làm
chứng cho tôi, là tôi phải ưu phiền rất mực, và đau đớn không ngơi trong lòng.
Tôi đã ước nguyện xin làm hiến vật tách khỏi Ðức Kitô vì anh em đồng chủng của
tôi về phần xác. Họ là người Israel ; thuộc về họ, địa vị nghĩa tử, sự vinh
quang, các Giao Ước, Lề Luật, việc phụng thờ, các Lời Hứa ; thuộc về họ, các Tổ
Phụ ; và do tự họ, Ðức Kitô, về phần xác. Ðấng vượt trên mọi sự" (Rm 9, 1
- 5).
"Hỡi
anh em, điều lòng tôi những mong mỏi nguyện cầu với Thiên Chúa là cho họ được
đạt ơn cứu rỗi" (Rm 10, 1).
Thật
vậy, sự kiện một số đông người thuộc Dothái giáo chưa trở thành người Kitô giáo
là điều rất khó giải thích. Thiên Chúa đã phán hứa với Abraham, Môsê, Ðavít và
các Tiên Tri ; hứa một dòng giống vô số, một vương quốc vĩnh cửu và phổ bác. Có
lẽ nào một Thiên Chúa lại thất hứa ? Không nên nghĩ như thế.
"Hẳn
không phải vì Lời Thiên Chúa đã trái hẹn" (Rm (9, 6).
Những
lời Thiên Chúa phán hứa với miêu duệ của Abraham phải được nên trọn vẹn. Nhưng
Phaolô hỏi, ai là dòng giống của Abraham để những lời hứa ấy được thực hiện ?
Phải chăng chỉ là những người họ hàng với Abraham về phương diện tự nhiên, hay
là những người mà chúng ta có thể gọi là con cái thiêng liêng của Abraham, tức
là những người họ hàng với Abraham do sự hợp nhất thiêng liêng với Ðức Kitô,
con của Abraham ? Câu trả lời của Phaolô được gặp thấy trong thư gửi tín hữu
Rôma 9, 8 - và càng rõ rệt hơn, trong một đoạn của bức thư gửi tín hữu Galát.
"Nghĩa
là : Không phải con cái theo xác thịt, tất là con cái Thiên Chúa, nhưng con cái
theo lời hứa mới được kể là dòng giống" (Rm 9, 8).
"Vì
hết thảy anh em là con cái Thiên Chúa nhờ bởi lòng tin trong Ðức Giêsu Kitô. Vì
anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Ðức Kitô, thì đã được mặc lấy Ðức Kitô
: Không còn Dothái hay Hylạp ; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ,
vì hết thảy anh em là một trong Ðức Kitô Giêsu. Mà nếu anh em thuộc về Ðức
Kitô, vậy thì anh em là miêu duệ của Abraham, những kẻ thừa tự thể theo lời
hứa" (Gal 3, 26 - 29).
Thiên
Chúa đã tỏ lòng nhân từ yêu thương đối với mọi Kitô hữu, Dothái cũng như dân
ngoại, vì cả hai đều là con cháu của tổ phụ Abraham. Trong chương trình cứu độ,
họ đã thế chỗ cho Israel xưa và hưởng mọi đặc quyền của nó. Họ đã trở thành con
cái Thiên Chúa và dân tộc Ngài yêu quý.
"Những
bình mang thương xót đó tức là chúng ta, Ngài đã kêu gọi không chỉ từ giữa
Dothái, mà cả giữa dân ngoại. Như Ngài phán trong sách Hôsê : Ta sẽ gọi phi dân
Ta làm dân của Ta, và kẻ thất sủng làm người đắc sủng. Và sẽ xảy ra là nơi đã
nói với chúng : Các ngươi không phải là dân Ta, ở đó chúng sẽ được gọi là con
cái Thiên Chúa hằng sống" (Rm 9, 24 - 26).
Những
con cái thiêng liêng của Abraham mới được tuyển chọn, chứ không phải những con
cháu về phần xác thịt, sự kiện đó ăn khớp hoàn toàn với cách tuyển chọn của
Thiên Chúa thường được thấy rõ ràng qua suốt lịch sử Israel. Thiên Chúa hay
chọn lựa người này hơn người khác. Ngài đã chọn Isaac, con trai của Sara, chứ
không chọn Isamel, con trai của Agar, mặc dù Abraham là cha của cả hai. Trong
hai anh em song sinh Esau và Yacob, Thiên Chúa đã chọn Yacob mặc dù nhỏ hơn. Và
giờ đây, Phaolô kết luận rằng Ngài lại tuyển chọn một lần nữa : tuyển chọn miêu
duệ thiêng liêng của Abraham chứ không tuyển chọn dân Dothái là con cháu tự
nhiên của Abraham. Lý do tại sao Thiên Chúa hành động như thế vẫn chưa ai hiểu
thấu được. Thiên Chúa là Thiên Chúa, nghĩa là Ngài vẫn luôn luôn là bí nhiệm
đối với con người, con người không thể hiểu hết các việc Thiên Chúa làm, hoặc
tại sao Ngài làm như thế. Con người vật thụ tạo của Thiên Chúa, không dám tra
vấn Ngài lý do và mục đích các việc Ngài làm. Phaolô nói :
"Hỡi
người phàm kia, ngươi là ai mà dám cãi trả Thiên Chúa ? Há đồ vật đất lại nói
với người nắn ra nó : tại sao ông đã làm tôi thế này sao ? Hay người thợ gốm
lại không có quyền trên nắm đất thó, để từ cũng một nắm mà nặn ra : cái thì
bình quý, cái thì bình xoàng ư ?" (Rm 9, 20 - 21).
Nhưng
tại sao Chúa Giêsu lại không được thừa nhận ? Xét về phương diện loài người,
làm sao mà lại có một khúc cong như thế trong vận mệnh một dân tộc ? Làm sao mà
nhiều người Dothái không chấp nhận sứ điệp các nhà truyền giáo Kitô hữu đầu
tiên đã rao giảng cho họ, sứ điệp của Tin Mừng Chúa Giêsu là Ðức Kitô ? Ðó là
những câu hỏi thực hiểm hóc, nhưng Phaolô đã làm hết sức để tìm cách giải đáp.
Ông, một người trước kia vốn là Biệt Phái, biết rõ rằng dân Dothái thật sốt
sắng, nhưng lòng sốt sắng của họ đã bị lạc hướng và thiếu sáng suốt. Họ đã đặt
niềm hy vọng cứu độ của họ vào lề luật, vào khả năng của họ tuân giữ giới luật.
Ðây là sự lầm lẫn căn bản, bởi vì ơn cứu độ chỉ được gặp thấy nơi Ðức Kitô mà
thôi. Sự hợp nhất căn bản với Ðức Kitô - chỉ sự hợp nhất này mới đem lại ơn cứu
độ - Phát sinh từ lòng tin tưởng nơi Chúa Giêsu, tin một cách vững vàng Ngài là
Chúa đã Phục Sinh. Ðây chính là tâm điểm thảm kịch của người Dothái. Những công
việc của họ là công việc do người thế phàm, không thể đem lại ơn cứu độ cho họ,
nhưng họ lại sốt sắng với những công việc đó. Niềm tin nơi Chúa Giêsu là Chúa
đã Phục Sinh, có thể cứu độ họ, nhưng họ lại không có niềm tin đó.
"Tôi
chứng thực cho họ là họ có lòng nhiệt thành đối với Thiên Chúa, nhưng không
được sáng suốt. Vì không nhận biết sự công chính của Thiên Chúa, và ra công
thiết lập sự công chính riêng của mình, họ đã không suy phục sự công chính của
Thiên Chúa. Vì đích cùng của Lề Luật, là Ðức Kitô, nguồn công chính cho mọi kẻ
tin .
. Nếu
ngươi tuyên xưng nơi miệng ngươi Giêsu là Chúa, và nếu ngươi tin trong lòng
ngươi : Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại từ cõi chết, ngươi sẽ được cứu. Vì tin
trong lòng thì được sự công chính, và nếu tuyên xưng nơi miệng thì được ơn cứu
rỗi" (Rm 10, 2 - 4 ; 9 -10).
Như thế
có phải là Thiên Chúa chối bỏ Israel chăng ? Phải chăng dân Dothái không còn
liên hệ gì đặc biệt với Ngài nữa ? Phaolô, một người Dothái rất yêu mến dân tộc
mình, không thể nghĩ như thế. Một mặt, không phải hết thảy mọi người Dothái đều
chối bỏ Ðức Giêsu. Tất cả những Kitô hữu đầu tiên đều là người Dothái, và nơi
họ Phaolô thấy có những người thuộc số sót mà các tiên tri thường hay nói đến.
Theo tư tưởng các tiên tri thì không có một thảm kịch nào lớn lao cho bằng sự
loại trừ người Dothái hoàn toàn ra khỏi sự phù trợ yêu thương của Thiên Chúa.
Ðiều này đã được xác thực, theo lời chú thích của Phaolô, ngay cả trong việc
Ðức Kitô làm cho Dothái giáo được trở nên trọn vẹn. Trong trường hợp này, một
số sót tín hữu người Dothái cũng đã còn tồn tại trong việc hoàn thành ơn cứu độ
của Kitô giáo. Theo ý nghĩa này thì chắc chắn là Thiên Chúa đã không chối bỏ
Dân Ngài.
"Vậy
tôi xin hỏi : Phải chăng Thiên Chúa đã ruồng bỏ Dân Ngài ? Ðừng nói gỡ ! Chứng
là tôi đây : Một người Israel thuộc dòng giống Abraham, chi tộc Benjamin, Thiên
Chúa đã không ruồng bỏ Dân Ngài đã biết đến từ trước. Hay anh em lại không biết
Kinh Thánh nói gì trong truyện Êlia, khi ông thưa kiện Israel với Thiên Chúa :
Lạy Chúa, chúng đã giết các tiên tri của Ngài ; sót lại chỉ có một mình tôi, và
chúng đang tìm hại mạng tôi. Nhưng sấm ngôn nói gì với ông ? Ta còn chừa lại
cho Ta bảy ngàn người không hề bái gối trước Baal. Thời bây giờ cũng vậy : số sót
có đó, bởi ơn mà được chọn ! Mà nếu là bởi ơn, thì không còn là do tự việc làm,
chẳng vậy ơn không còn là ơn ! Vậy thì sao ? Ðiều Israel cố tìm thì đã không
được ; song đã được những ai được chọn" (Rm 11, 1 - 7).
Phaolô
còn nhận xét một khía cạnh cứu độ khác nữa trong toàn thể câu chuyện đen tối
này của thảm kịch quốc dân Dothái. Chính cái chỗ dân Dothái bị trầm luân, lại
là nơi đưa đến ơn cứu độ cho dân ngoại, ơn cứu độ do niềm tin nơi Ðức Giêsu là
Chúa đã Phục Sinh, dường như là sự mù quáng của dân Dothái đã đưa tới ánh sáng
cho dân ngoại. Mỗi cụm mây đều có một đường viền bạc, cho nên sự nghĩ đến ơn
cứu độ của dân ngoại nhờ đức tin nơi Chúa Giêsu đã đem lại cho Phaolô một một
khía cạnh đầy an ủi trước cái thảm kịch của dân Dothái. Phaolô chợt nghĩ đến
một hình ảnh để so sánh. Dân được Thiên Chúa tuyển chọn giống như một cây ôliu.
Những cành tự nhiên và nguyên thủy của nó là dân Dothái, đã được tỉa bớt đi để
được thay thế bằng những cành khác, là những dân ngoại đã được tiếp ghép vào
cây ôliu, bởi vì giờ đây sự ngay thẳng là do niềm tin nơi Ðức Giêsu, mặc dù
chính nó làm cho dân Dothái bị tỉa khỏi cây, cũng có hậu quả đến sự dân ngoại
được tiếp ghép vào. Ðây là phần tươi sáng của bức tranh mà Phaolô muốn vẽ ra
cho chính mình và cho độc giả. Nhưng ông cũng vội vàng cảnh cáo dân ngoại đừng
tự phụ kiêu căng đối với dân Dothái. Sự được tiếp ghép vào cây ôliu là một ân
huệ ban cho dân ngoại, chứ không phải là do công trạng của họ. Chắc chắn là họ
sẽ đáp ứng lại bằng sụ biết ơn và đề phòng kẻo vì làm mất đức tin mà họ cũng bị
tỉa đi.
"Nhưng
nếu có ít nhiều nhánh bị chặt, và ngươi, ôliu hoang dại, được tháp thay vào, và
thông phần màu mỡ tự gốc ôliu, ngươi đừng vinh vang lên mặt với các nhánh kia.
Nếu có vinh vang thì này : Không phải ngươi mang rễ, nhưng rễ mang ngươi !
Ngươi sẽ đáp "nhiều nhánh đã được chặt cho tôi được tháp thay vào !"
Hẳn rồi, vì không tin, nên chúng đã bị chặt, còn ngươi tin mà đứng đó ! Ðừng có
tự cao tự đại, hãy sợ thì hơn. Vì nếu Thiên Chúa đã không tha những nhánh bẩm
sinh thuộc gốc, thì Ngài cũng sẽ chẳng tha cho ngươi" (Rm 11, 17 - 21).
Sự sống
còn của dân Dothái. Ðến đây Phaolô đưa ra cho chính ông, cho những đồng bào
Dothái Kitô hữu của ông, và cho tất cả chúng ta ngày nay lời tiên đoán mau mắn,
khả dĩ giúp chúng ta: Giải quyết một bí nhiệm sâu xa nữa liên quan đến Dothái
giáo. Bằng cách nào và vì mục đích gì mà nó vẫn còn tồn tại xuyên qua bao nhiêu
thế kỷ ? Từ ngày Yêrusalem bị quân Rôma hủy diệt năm 70 (sau TCGS). Người
Dothái không còn đền thờ, bàn thờ và hiến lễ. Họ không có một quốc gia riêng
biệt mãi cho tới khi nước Israel được tái lập cách đây ít năm. Họ đã bị lưu
đày, đưa từ xứ này sang xứ khác, bị giam hãm trong những vùng biệt lập trên
khắp thế giới (xin Thiên Chúa tha thứ cho), do chính những Kitô hữu là con cháu
thiêng liêng của họ. Nhưng họ vẫn còn tồn tại. Ngay cả sự tàn sát khủng khiếp
của Hítle cũng không tiêu diệt được họ. Trong lịch sử toàn thế giới, chưa từng
có một nhóm dân tộc nào đã từng sống sót sau bao nhiêu tang thương như thế.
Trong bất cứ quốc gia nào, người Dothái cũng có thể tổ chức thành một nhóm tràn
đầy sinh lực, tuy nhiên họ vẫn là một nhóm riêng biệt, luôn luôn ý thức về lịch
sử cổ thời của họ, luôn luôn được bàn tay Yavê phù trợ cho khỏi bị tiêu diệt.
Phaolô dĩ nhiên là đã không thể thấy trước cái lịch sử lâu dài này của dân
Dothái hãy còn kéo dài mãi cho đến thời chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, ông đã
cho chúng ta câu giải đáp để soi tỏ bí nhiệm này. Bởi vì ông tin tưởng chờ mong
có ngày họ sẽ nhìn nhận Ðức Giêsu là Ðức Kitô của họ, là Chúa đã Phục Sinh của
họ. Sự mù quáng của họ chỉ là tạm thời, sự tuyển chọn đầu tiên của Thiên Chúa,
bằng cách nào đó, vẫn hãy còn bền vững. Khi đến ngày Thiên Chúa định, những
cành nguyên thủy lại sẽ được tiếp ghép với cây ôliu. Ðó là ngày mà Phaolô chắc
chắn và đã nóng lòng chờ đợi.
"Vậy
hãy ngắm xem lòng nhân lành và sự nghiêm khắc của Thiên Chúa : nghiêm khắc với
những kẻ sa ngã, nhân lành đối với ngươi, nếu ngươi kiên trì trong lòng nhân
lành ấy ; bằng không, ngươi cũng sẽ bị chặt. Còn họ, nếu họ không kiên trì trong
sự cứng tin, họ sẽ được tháp vào, vì Thiên Chúa có quyền ghép họ vào lại. Vì
nếu ngươi bẩm sinh là nhánh lảy tự ôliu hoang dại, mà được tháp vào ôliu giống
tốt, trái với bẩm tính, thì huống chi là họ, những cành chính gốc, họ sẽ được
tháp vào thân cây ôliu gốc cũ của họ.
Hỡi anh
em, tôi không muốn để anh em không hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự
phụ mình khôn : Israel đã ra chai đá phần nào, cho đến khi toàn thể dân ngoại
đã gia nhập, và như thế tất cả Israel cũng sẽ được cứu . Xét theo Tin Mừng, họ
là người thù nghịch, vì cớ anh em ; nhưng theo sự lựa chọn, họ là chí ái vì cớ
cha ông. Vì ơn đã ban, lời đã gọi, Thiên Chúa không hề hối tiếc" (Rm 11,
22 - 29).
Chỉ khi
nào Israel xưa trở lại với Ðức Kitô, thì công trình cứu độ mới thật là được
thông phần đầy đủ, bởi vì chỉ lúc đó mới thực có sự hợp nhất phải có giữa
Dothái và dân ngoại trong Ðức Kitô, đó là sự bí nhiệm Phaolô thường nói đến.
Mãi cho đến hôm nay, chỉ những người Dothái thuộc số sót lại, số ít được tuyển
chọn, mới nhìn nhận Chúa Cứu Thế và hợp nhất với Ngài, trong Ngài, hợp nhất với
anh em dân ngoại. Hiệu quả đầy đủ công trình cứu độ của Ðức Kitô mà mục đích là
sự hợp nhất trọn vẹn, vẫn chưa được hoàn tất cho tới khi nào dân Thiên Chúa đã
chọn xưa kia nhìn nhận Ðấng Cứu Thế của mình. Chỉ bấy giờ công trình cứu độ mà
Phaolô đã mô tả một cách hùng vĩ mới được hoàn toàn thừa nhận.
"Dân
ngoại và Dothái, Ngài đã làm cho đôi bên nên một, triệt hạ tường ngăn thành
chắn, tiêu biểu cho mối hằn thù - nhờ thân xác Ngài - thủ tiêu lề luật nguyên những
điều răn lệnh chỉ, ngõ hầu trong Ngài, Ngài tạo dựng hai loại người ấy nên một
người mới, đem lại bình an và giảng hòa hai dân - trong một thân mình - với
Thiên Chúa, nhờ Thập Giá, giết chết hằn thù - nơi mình Ngài" (Ep 2, 14 -
16).
Chương
trình cứu độ, xét theo một phương diện đúng đắn đặc biệt, sẽ được hoàn tất với
mọi hiệu quả của nó khi mà cả dân Dothái và dân ngoại đều được hợp nhất với
nhau trong Ðức Kitô, và nhờ Ðức Kitô được hợp nhất với Thiên Chúa và sự thiện
hảo của Thiên Chúa. Như thế sẽ làm cho đường tròn quá trình cứu độ trở về điểm
cuối nơi mà nó đã bắt đầu trước kia, trở về với Thiên Chúa và sự thiện hảo của
Thiên Chúa. Trong khi chờ đợi, tất cả chúng ta đều được mời gọi hoạt động với
Ðức Kitô và với Thánh Thần của Ðức Kitô đang ở trong chúng ta, để thúc đẩy bằng
mọi cách tiến triển của vương quốc Thiên Chúa nơi trần thế tức là Giáo Hội, về
phương diện thiêng liêng cũng như về số lượng. Chương trình cứu độ chỉ được
hoàn tất khi nào Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Ðức Kitô, được lan rộng khắp
cùng vũ trụ.
Hết