LƯU ÐÀY - HỒI HƯƠNG
DOTHÁI GIÁO - MACABÊ
SỰ PHỤC HƯNG THIÊNG LIÊNG Ở BABEL
LƯU ÐÀY.
Với việc hủy diệt thành Yêrusalem và việc đưa đi lưu đày
một số rất đông dân chúng, sự chú ý của chúng ta chuyển từ Yuđa sang đất lưu
đày. Không rõ nơi cư trú đích xác của những người bị lưu đày. Những người đầu
tiên bị lưu đày một lược với vua Yoakin năm 598 thì phần lớn định cư gần thành
Nippur. Có lẽ một số bị bắt đưa đi năm 587 cũng được lập cư tại nơi đó. Niềm hy
vọng cứu độ tập trung về Babilon, bởi vì Yêrêmia đã nói cách rõ ràng rằng số
sót lại được Thiên Chúa tuyển chọn để kiến tạo lại Dân Ngài sẽ là những người
lưu đày chứ không phải những người Yuđa ở lại Phalệtinh.
"Bấy giờ Yavê đến với tôi rằng : Yavê Thiên Chúa của
Israel phán thế này : Cũng như trên những cây vả tốt ấy, Ta sẽ đoái nhìn và
giáng phúc trên những kẻ lưu đày của Yuđa, những kẻ Ta bắt phải bỏ chốn này đi
đến xứ Kanđu. Mắt Ta sẽ dõi chúng để tác phúc và đem chúng lại xứ này, Ta sẽ
xây dựng mà không lật đổ, Ta sẽ vun trồng chúng lại mà không nhổ. Ta sẽ ban cho
chúng một tấm lòng để biết Ta là Yavê, và chúng sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là
Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ hết lòng trở lại với Ta. Nhưng như người ta
xử làm sao với những trái vả xấu - quả Yavê phán thế này - Ta cũng sẽ xử như
vậy với Sêđêkia, vua Yuđa, và các vương công của nó, với số sót của Yêrusalem
còn ở lại trong xứ này và những kẻ lập cư ở Aicập (Yr. 24, 4 - 8).
Theo nhiều sự phỏng đoán khác nhau thì khoảng hai mươi lăm
đến năm mươi ngàn người Yuđa bị đưa đi lưu đày. Giai đoạn đầu tiên trong chuyến
này, phải đi độ bảy trăm dặm đến Babilon, thật là một cuộc thử thách khốc liệt,
nhất là đối với những người hào phú chưa hề quen với công việc lao lực nặng nề.
Chúng ta có thể hình dung sự chán nản sâu xa của đám người sầu khổ đó. Họ đau
khổ nhất là vì cuộc hành trình lâu dài và vì cuộc sống thiếu thốn trong những
trại tập trung. Nhưng điều thử thách đau khổ nhất đối với họ là bị thử thách về
đức tin. Yavê ở đâu khi thành Yêrusalem bị hủy diệt, và giờ đây Ngài ở nơi nào
? Làm sao họ có thể đối đáp lại với người Babilon khi họ phô trương rằng thần
Marđuk của họ quyền phép hơn Yavê ? Và đánh giá làm sao được sự phồn vinh các
thành thị của Babilon và sự sung mãn trong xứ này nếu không giả thiết rằng có
bàn tay phù trợ của vị thần địa phương như Marđuk chẳng hạn ? Ðối với nhiều
người bị lưu đày (và có lẽ tất cả họ đều nghĩ như thế) thì lịch sử giao ước của
họ với Yavê chỉ là ảo vọng.
Những hành động cứu độ vẻ vang trong thời xuất hành dường
như vô dụng. Có lẽ không bao giờ chúng đã xảy ra. Giá trị gì nữa Ðền Thờ, Khám,
hàng tư tế ?
Ðền Thờ đã bị bình địa, Khám đã biến mất, hàng tư tế đã bị
tê liệt vì không có lễ tế. Và ích gì đâu vương quyền của vị vua thuộc dòng
Ðavít mà Thiên Chúa đã phán hứa qua các tiên tri ? Các vua đều là những người
bất tài thất đức, là kẻ vi phạm tôn giáo Môsê chứ không phải là những gương mẫu
trung thành. Yoakhaz bị đưa đi lưu đày sang Aicập. Yoakin và Sêđêqya thì bị làm
nô lệ ở Babilon, hơn nữa Sêđêkqya đã trở thành đui mù khốn khổ, không còn phân
biệt được ngày đêm. Có lẽ nhiều người bị lưu đày ở Babilon đã mất đức tin. Và
quả thế nhiều người yếu đuối đã mất đức tin thật.
Cảnh đau khổ của những người lưu đày đã được mô tả cách
linh động trong Thánh Vịnh 136.
"Trên bờ sông Babilon,
chúng tôi ngồi đó, chúng tôi
khóc,
mà tưởng niệm Sion.
Trên rặng liễu đó đây,
Chúng tôi treo lên đàn cầm,
Ở đó họ réo với chúng tôi,
Bọn cướp người đòi lời ca vãn,
Lũ đô hộ, muốn một khúc vui :
Hát ta nghe ca vãn Sion nào !
Mà làm sao chúng tôi hát được ca
vãn Yavê
Nơi đất khách quê người ?
Ta mà quên ngươi, hỡi Yêrusalem,
Thì tay phải Ta cũng hãy quên Ta
!
Lưỡi Ta hãy tê đi dính họng,
Ví thử Ta không nhớ đến ngươi,
Ví thử Ta chẳng nâng Yêrusalem
Lên tuyệt đỉnh niềm vui trong
đời !
Thế nhưng từ sự chết, lầm than, thất vọng và sầu khổ này,
Thiên Chúa đã rút ra được những điều hay. Sự lưu đày là cần thiết để thanh tẩy
dân của Thiên Chúa. Yuđa đã chìm sâu trong trụy lạc, bái sùng ngẫu tượng và bất
công. Tệ hơn nữa, sự chuộng hình thức khô khan bên ngoài ăn rễ đã khá sâu nó,
làm cho việc giữ đạo trở thành giả hình và phỉ báng Thiên Chúa. Vậy cần nên
chữa trị tận gốc, chứ không chỉ chữa trị ở trên mặt mà thôi. Thiên Chúa là nhà
giải phẩu làm cho đau đớn để mà chữa trị, và sự lưu đày là con dao Ngài dùng để
mổ xẻ. Tại Babilon Thiên Chúa bắt đầu công trình canh tân, cải cách và phục
hưng Dân Ngài.
Một mặt, việc tách rời Ðền Thờ khỏi lễ tế đã loại bỏ được
sự chuộng hình thức, thường liên quan tới hai khía cạnh này của tôn giáo. Nó
lại còn nhấn mạnh tới điều cốt yếu là con người tự hiến toàn thân cho Thiên
Chúa. Người ta không còn lấy lễ tế để dâng thay cho chính mình nữa, vì trong
cảnh lưu đày, con người còn biết lấy gì dâng lên ngoài chính mình ?
Mặt khác, giờ đây người ta có thể nhận thấy Yavê là Thiên
Chúa của đời sống luân lý, Ngài quan tâm đến hành vi của con người. Một chân lý
sâu xa mà người Israel thường không biết, hoặc đã lãng quên đó là hành động của
con người phải được đo lường theo Thánh Ý của Thiên Chúa là Ðấng quyết định sự
lành cũng như sự dữ. Trong những năm trước khi Yêrusalem bị sụp đổ, rất nhiều
người xứ Yuđa đã tự dối mình bằng cách tin rằng Yavê không có, không thể và
không nên can thiệp vào đời sống riêng tư của họ. Trong những năm suy xét lại ở
Babilon, họ bắt đầu nhận thấy sự hoàn toàn giả dối của một quan niệm như thế.
Những người bị lưu đày nhận thấy rõ ràng biết bao, rằng điều con người làm vốn
có liên can đến Thiên Chúa của nhân loại, và điều dân của Thiên Chúa làm, vốn
có liên can đặc biệt đến Ngài. Càng ngày người ta càng thấy rõ sự nhờm tởm của
tội lỗi dưới mắt Thiên Chúa. Và người ta cũng nhận thấy rõ quyền lực kinh khủng
của sự tội đã lan tràn trên khắp cõi Israel.
Sự gia tăng đời sống thánh thiện chân thật bên trong đi
đôi với sự hâm mộ học hỏi. Không còn Ðền Thờ và lễ tế nữa, dân chúng bắt đầu
đặt tầm quan trọng nhiều hơn vào sự tìm hiểu và thực thi Lời Chúa. Những sách
kinh điển được thu thập lại, được in ra và phổ biến cẩn thận. Những sách của
các tiên tri cũng được sưu tập và có lẽ lần đầu tiên được quý trọng. Một nhóm
người anh tài mới, chuyên về giới luật đã chỗi dậy ra công nghiên cứu giới luật
Môsê gọi là Tôrah. Nhiệm vụ của họ là chép lại, in lại và nhất là nghiên cứu và
giải thích những văn bản cổ điển. Những người cầm đầu họ là các tư tế. Bao
nhiêu sức lực và thời giờ xưa kia đã phải bỏ ra cho các nghi lễ ở Ðền Thờ của
Salômon, giờ đây đã được tập trung vào việc nghiên cứu học hỏi Lời của Thiên
Chúa chứa đựng trong các sách kinh điển. Còn Ðền Thờ, không thể dâng lễ tế, họ
thay thế bằng sự nghiên cứu học hỏi và cầu nguyện.
Xét về phía loài người, thì sự thanh tẩy thiêng liêng của
Yuđa phải được coi là công lao của các vị tiên tri trước kia, đặc biệt là
Yêrêmia, những lời sấm của ông để cảnh cáo, hãy còn văng vẳng bên tai những
người lưu đày, và họ chắc chắn là đã nhận thấy những lời cảnh cáo đó đúng đến
mức độ nào. Ông cũng đã viết cho những người lưu đày một bức thư yên ủi và
khuyến khích (Yêrêmia chương 29). Ðoạn sau đây chắc là đã được đọc đi đọc lại
rất nhiều lần.
"Vì Yavê phán thế này : vận 70 năm có mãn cho
Babilon, Ta mới viếng thăm các ngươi, mà giữ ứng nghiệm lời tốt lành của Ta với
các ngươi để đem các ngươi về lại chốn này. Vì chính Ta, Ta biết các mưu định
Ta đã quyết về các ngươi - Sấm của Yavê - những mưu định phúc thái chứ không
phải họa tai để ban cho các ngươi được tương lai và hy vọng. Các ngươi sẽ kêu
lên Ta, các ngươi sẽ khấn nguyện với Ta và Ta sẽ nhậm lời các ngươi. Các ngươi
sẽ tìm kiếm Ta và sẽ gặp. Vì các ngươi sẽ dõi tìm Ta hết lòng các ngươi. Ta sẽ
để cho các ngươi gặp Ta - Sấm của Yavê - Ta sẽ đổi vận các ngươi và sẽ thâu hợp
các ngươi từ muôn dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến - Sấm của Yavê - và
sẽ đem các ngươi về lại chổ Ta đã bắt các ngươi phải bỏ mà đi đầy" (Yr 29,
10 - 14).
Nhưng công nghiệp lớn lao nhất trong sự trở lại của Yuđa
là do các tiên tri đương thời, những người từng chia sẻ những nổi thống khổ của
những kẻ lưu đầy, và đem lại cho họ sứ điệp đầy khuyến khích của Thiên Chúa, để
dạy dỗ và an ủi. Hai vị tiên tri nổi bật nhất trong số này là Êzêkiel và Isaya
Ðệ Nhị.
ÊZÊKIEL
(Ðọc các chương 1, 1 - 3, 15 (Êzêkiel được kêu gọi) ; 3, 17 - 21 ; 14, 12 - 23
; 13, 1 -32 ; 33, 1 - 21 (trách nhiệm cá nhân) ; 34, 1 - 16 (các mục tử) ; 36,
16 - 37, 14 (Israel hồi sinh).
Con người này thật lạ thường, và những thị kiến của ông
lại còn lạ thường hơn nữa. Ông là một trong số những người bị đưa đi lưu đày
đầu tiên. Ông bị dẫn sang Babilon năm 598 trước TCGS, khi vua Yoakin bị lưu
đày. Những lời tiên tri của ông gồm cả hai phần, trước khi lưu đày (từ năm 593,
năm thứ năm kể từ khi Yoakin bị bắt giữ) và sau khi lưu đầy trong năm thứ năm
theo lời tường thuật của chính vị tiên tri này, "Lời của Yavê đã đến với
Êzêkiel, con của Buzi tư tế trong xứ Kanđu, bên sông Kơbar. Và ở đó tay Yavê đã
xuống trên tôi" (Ez 1, 3).
Sứ mệnh của Êzêkiel là giữ cho dân khỏi bị hoàn toàn mất
hết tinh thần. Mãi từ trước cho đến khi Yêrusalem bị sụp đổ năm 587, ông đã
chuẩn bị những đồng bào bị lưu đày của ông để họ chịu đựng sự chấn động mà cái
thảm kịch kia chắc chắn sẽ gây nên. Ông đánh tan mọi sự hy vọng hư ảo, mọi dư
luận về một cuộc thay đổi chính trị, đã tạo nên những lời đồn thổi rằng thành
thánh sẽ được giải thoát và cứu vớt. Êzêkiel đã lên tiếng nói rõ không phải như
vậy đâu. Yêrusalem phải sụp đổ và sẽ sụp đổ : tội lỗi của nó đã kéo bàn tay
trừng trị của Thiên Chúa xuống. Tuy vậy sau khi lưu đày, lúc mà dân chúng mỗi
ngày một thêm thất vọng vì thấy hàng trăm người bị lần lượt bắt đưa đi, thì
nhiệm vụ của Êzêkiel lúc bấy giờ là nâng đỡ tinh thần của những người bị lưu
đày. Sứ điệp của ông có thể thu về ba điểm chính :
Trước hết ông nhấn mạnh, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thiên
Chúa không phải chỉ bị ràng buộc ở Yuđa, ở Yêrusalem hay ở trong Ðền Thờ. Ngài
cũng không phải là một vị thần địa phương nào đó với cánh tay uy quyền và bảo
trợ quá ngắn, không thể vượt xa hơn những thành thị và thôn xóm Babilon. Thiên
Chúa của Yuđa đã hiện diện khắp nơi, chính chân lý này đã được nhấn mạnh trong
thị kiến đầu tiên của Êzêkiel. Theo như ông thấy, xa giá của Yavê có những bánh
xe "được đóng như thể là bánh này ở giữa bánh kia. Trong khi đi, chúng kéo
theo bốn phía của chúng ; trong khi đi, chúng không quay qua quay lại . Thần
Khí định đi đâu thì chúng đi đó" (Ez 1, 16 - 17. 20).
Một chân lý rất cần thiết thứ hai, đó là trách nhiệm cá
nhân của con người đối với tội lỗi và nhân đức, Yêrêmia đã nói về điều này rồi
(Yr 31, 29), nhưng Êzêkiel càng nhấn mạnh nó trong một phạm vi rộng lớn hơn
nữa. Trong khi những thế hệ xưa kia đã cấu kết thành đoàn thể xã hội và do đó
có trách nhiệm cộng đồng đối với tội lỗi, thì Êzêkiel nhấn mạnh một mặt khác
cũng không kém xác đáng. Mỗi người sẽ phải chịu trách nhiệm đối với chính mình.
Nếu ai ăn ở đạo đức người ấy sẽ được thưởng ; ai làm điều ác người ấy sẽ bị
phạt. Ai bỏ đàng tội lỗi mà trở lại, thì Thiên Chúa sẽ đón tiếp. Ai bỏ đường
nhân đức để đi theo đường tội ác, thì sẽ mất phần thưởng của những việc lành
trước kia và sẽ bị trừng phạt.
Không nên phóng đại tầm quan trọng của chân lý này. Bởi vì
họ phải trách nhiệm về những tội lỗi của thế hệ trước, thì còn hy vọng gì nữa ?
Phải chăng họ chỉ còn có cách chịu đựng đau khổ một cách tuyệt vọng ? Nhưng mặt
khác, nếu mỗi người chỉ chịu trách nhiệm về những hành vi của mình mà thôi, thì
tương lai sẽ được khác hẳn với quá khứ và hiện tại. Một đời sống đạo đức sẽ làm
cho mỗi người được đẹp lòng Thiên Chúa, và nếu nhiều cá nhân được đẹp lòng
Thiên Chúa, thì chắc chắn toàn thể dân chúng sẽ bắt đầu một kỷ nguyên mới tươi
đẹp hơn.
"Cho nên Ta xét xử các ngươi mỗi người theo đường lối
của nó, hỡi nhà Israel - sấm của Ðức Yavê - Hãy trở lại, hãy hồi đầu bỏ mọi
điều nguy nghịch của các ngươi khiến các ngươi không còn dịp tội. Hãy quăng
khỏi các ngươi mọi điều ngụy nghịch đã phạm đến Ta. Hãy tạo cho mình một tấm
lòng mới, một Thần Khí mới ! Tại sao các ngươi lại muốn chết, hỡi nhà Israel ?
Quả thế, Ta không vui gì với cái chết của kẻ phải chết -sấm của Ðức Yavê- Hãy
hồi đầu và ngươi sẽ sống" (Ez. 18, 30 - 32).
Một điểm thứ ba và đúng là có thần hứng, là lời Êzêkien
hứa sẽ có một cuộc xuất hành mới (lần này ra khỏi Babilon), sẽ có cuộc hồi
hương về đất Yuđa, sẽ có cuộc phục hưng đời sống tôn giáo và quốc gia của Dân
Thiên Chúa. Ở chương 34, Thiên Chúa phán về sự lập giao ước mới với Dân Ngài,
về sự Ngài sẽ lại trở thành Thiên Chúa của chúng một cách hữu hiệu đang khi
chúng sẽ lại trở thành đoàn quân biết vâng phục Ngài. Ngài cũng nói về tôi tớ
Ðavít của Ngài sẽ làm vua cai trị chúng. Ðiểm này giống như lời hứa của Nathan,
nhưng ở đây Ðavít được giới thiệu, không phải như một vị vua chiến thắng hiển
vinh, nhưng như một mục tử. Ðiểm nhấn mạnh đã thay đổi, chắc chắn đó là một
bước rất may mắn trong việc Thiên Chúa chuẩn bị Israel để đón tiếp một vị con
vua Ðavít, Người sẽ là một mục tử hơn là một vị vua chuyên chế.
"Trên chúng, Ta sẽ cho chỗi dậy một mục tử duy nhất,
Ngài sẽ chăn dắt chúng. Ngài sẽ là mục tử của chúng. Ta, Yavê, Ta sẽ là Thiên
Chúa của chúng. Và Ðavít tôi tớ của Ta sẽ là minh chủ ở giữa chúng . Và chúng
sẽ biết : Ta, Yavê, Thiên Chúa của chúng, Ta ở với chúng, và chúng, nhà Israel,
là dân của Ta - sấm của Ðức Yave -" (Ez. 34, 23 - 24, 30).
Chương 36 hé mở một cách toát lược những phúc lành Thiên
Chúa hứa ban cho Dân Ngài đang bị lưu đày. Thiên Chúa sẽ lập lại giao ước, lần
này Ngài thanh tẩy những kẻ theo Ngài, làm cho họ có một tấm lòng và một Thần
Khí mới. Ý tưởng quan trọng này rất giống ý tưởng của Yêrêmia và rất ăn khớp
ngay cả với Tân Ước.
"Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi các dân. Ta sẽ thâu họp
các ngươi từ mọi xứ. Ta sẽ đem các ngươi về lại thửa đất của các ngươi. Và trên
các ngươi, Ta sẽ rảy nước trong sạch. Ta sẽ làm cho các ngươi sạch mọi uế nhơ
và mọi thần dơ dáy của các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm lòng mới. Bên
trong các ngươi, Ta sẽ ban cho một Thần Khí mới, Ta sẽ cất tấm lòng đá khỏi
thịt mình các nguơi. Ta sẽ ban cho các ngươi tấm lòng thịt. Bên trong các
ngươi, Ta sẽ ban xuống Thần Khí của Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo luật
điều của Ta. Và các ngươi sẽ giữ các phán quyết của Ta và sẽ thi hành. Các
ngươi sẽ lập cư trên đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi. Các ngươi sẽ là Dân
của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi" (Ez 36, 24 - 28).
Ở chương 37, người ta gặp thấy Êzêkien khẳng định cách cảm
động nhất về đề tài "Cuộc xuất hành mới", đó là thị kiến nổi danh về
những khúc xương khô được hồi sinh. Dụ ngôn trong đó rất là rõ ràng : Yuđa
trong cảnh lưu đày chẳng khác nào một cánh đồng đầy xương khô. Nhưng Thiên Chúa
sẽ làm cho chúng được hồi sinh, bằng cách chắp nối xương này với xương kia, làm
cho chúng đầy tủy và thịt, đoạn thổi sinh khí vào cho chúng.
Chắc chắn là thính giả của Êzêkien rất hồi hộp ; và niềm
hy vọng chẳng khác gì một đóm lửa giờ đây được cháy bừng lên nhờ những lời của
Thiên Chúa phán qua miệng tiên tri.
"Con người hỡi, các xương ấy tức là nhà Israel tất
cả, này chúng nói : xương chúng tôi đã khô. Hy vọng tiêu ma. Chúng tôi đã bị
chặt phăng mất ! Cho nên ngươi hãy tuyên sấm và nói với chúng : Ðức Yavê phán
thế này, Ngày Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngươi ! Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi mồ,
hỡi Dân Ta ! Ta sẽ dẫn các ngươi về lại thửa đất của Israel. Và các ngươi sẽ
biết Ta là Yavê, khi Ta mở cửa mồ cho các ngươi và đem các ngươi lên khỏi mồ,
hỡi Dân Ta ! Ta sẽ ban Thần Khí của Ta xuống trong các ngươi. Và các ngươi sẽ
được sống. Ta sẽ cho các ngươi an cư nơi thửa đất của các ngươi. Và các ngươi
sẽ biết chính Ta, Yavê, Ta đã nói và sẽ thi hành -sấm của Yavê-" (Ez. 37,
11 - 14).
Việc rao giảng của Êzêkien là một thành công, tiếng nói
của ông là tiếng nói của dân chúng trong những ngày đen tối khi họ gần như mất
hết hy vọng. Ông có thể được mệnh danh là Yuse của cuộc lưu đày ở Babilon. Bởi
vì trong sự quan phòng của Thiên Chúa, ông là người bị dẫn lưu đày trước những
đồng bào của ông, để ông bảo toàn số sót của Yuđa trong niềm tin cậy. Ông sẽ
không còn sống để thấy cuộc xuất hành khỏi Babilon, cũng như Yuse đã không được
chứng kiến cuộc hồi hương từ dất Aicập. Tuy nhiên công trình của mỗi vị rất là
cần thiết cho cả hai cuộc hồi hương.
ISAYA ÐỆ
NHỊ (Ðọc các chương 40, 1- 20 (giải thoát) ; 42, 1 - 7 ; 49, 1 - 6 ; 50, 4 - 9
; 52, 13 - 5, 12 (bài ca về người tôi tớ) ; 42, 10 - 43, 21 (cuộc xuất hành mới
; 49, 8 -50, 3 (Sion được phục hưng).
"Isaya Ðệ Nhị" có nghĩa là một vị tiên tri vô
danh nào đó, tác giả những chương cuối cùng (từ chương 40 đến chương 66) của
quyển sách Isaya hiện đang lưu hành, hoặc ít nhất cũng là tác giả những chương
từ 40 - 55. Ông đã viết trong thời kỳ lưu đày, khoảng 550 trước TCGS và cùng
với Êzêkiel là một trong hai trụ cột vững chắc để nâng đỡ nước Yuđa bị nghiêng
ngửa trong những năm yếu đuối. Tác phẩm của ông được gọi là "sách yên
ủi", thật là một nhan đề thích hợp, vì chứa đựng những lời tuyệt hảo cho
tương lai của Yuđa và của các dân nước. Vị tiên tri này cũng noi theo bước của
Êzêkiel, ra công giúp đỡ cho niềm hy vọng của dân chúng luôn luôn được nâng
cao. Một đoạn ngắn chứng minh điều này rất rõ rệt là chương 54, 4 - 8. Ðó là
một đoạn rất lý thú vì nó phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách
Hôsê, đó là Yuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương
người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày
trở về quê nhà.
"Vì ngươi cũng như thân gái
bỏ rơi,
lòng dạ bời bời khi Người gọi
ngươi.
Nhưng nào ai nỡ rẫy từ người vợ
cưới lúc thanh xuân, Yavê Thiên Chúa của ngươi đã phán.
Ta sẽ bỏ ngươi trong chốc lát,
nhưng Ta sẽ thâu họp ngươi lại bởi lòng thương xót bao la.
Nghĩa nộ như lụt dâng trào,
Ta đã ngoãnh mặt khỏi ngươi một
chốc,
Nhưng Ta lại đoái thương ngươi
bởi tình nhân nghĩa muôn đời -
Yavê Ðấng chuộc ngươi đã
phán".
Những công trình chính mà Isaya Ðệ Nhị đã đóng góp vào
lịch sử cứu độ được gặp thấy trong bốn "Bài ca Người Tôi Tớ". Những
bài ca này trong Is 42, 1 - 7 ; 49, 1 - 6 ; 50, 4 - 9 và 52, 13 - 53, 12 liên
kết Dothái giáo với Kitô giáo, mà Kitô giáo sẽ là sự sung mãn và sự hoàn hảo
của Dothái giáo. Hai bài ca thứ nhất nới rộng phạm vi ơn cứu độ bằng cách giới
thiệu Israel như là "Ánh sáng cho các dân nước", là dụng cụ để chuyển
ơn cứu độ sang các dân ngoại. Các vị tiên tri trước kia cũng đã trình bày chân
lý này, nhưng không rõ rệt như Isaya Ðệ Nhị. Có lẽ vì được sống bình yên giữa
những người Babilon ngoại giáo, cho nên vị thiên tài thần hứng này đã nhận thấy
rõ giá trị căn bản của tất cả mọi người. Ðược tạo dựng giống hình ảnh Thiên
Chúa, mọi người phải được ăn khớp bằng cách nào đó vào chương trình cứu độ.
"Này Lời của Thiên Chúa,
Ðức Yavê,
Ðấng đã tạo, đã căng màn trời,
Ðấng dàn ra cõi đất cùng thổ
sản.
Ta đã nắn ra ngươi và đặt ngươi
làm giao ước của dân, làm ánh sáng của nước" (Is 42, 5 - 8).
"Người đã phán với tôi:
Ngươi là tôi tớ của Ta, Israel, hỡi ngươi, Ta muốn được rạng vinh.
Quá ít, việc ngươi làm tôi tớ
của Ta,
Ðể phục hưng các chi tộc Yacob,
Ðể đem về lại chồi lộc cho
Israel.
Nên Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng
các dân tộc,
Ðể ơn cứu độ của Ta thấu mút
cùng trái đất" (Is 49, 3 - 6).
Bài ca thứ ba : 50, 4 - 9 nói về sự thù nghịch và sự bách
hại nhằm vào Người Tôi Tớ này của Yavê. Ngài bị đánh vào lưng, bị bứt râu, bị
nhổ vào mặt. Hình ảnh này chuẩn bị cho chúng ta một bài học thần hứng, có chừng
mực, ở bài ca thứ tư, trình bày linh động về chân lý sâu xa của sự chịu đau khổ
để đền tội (52, 13 - 53, 12). Người Tôi Tớ trước đây là biểu tượng của Israel,
bây giờ thể hiện nơi một người. Con người này, mặc dù chính mình là vô tội,
cũng phải gánh lấy tội lỗi của loài người. Vì loài người mà Người thí mạng sống
và chữa bàu cho nhiều người bằng cách hành động như thế, để họ đáng được tha
thứ các tội lỗi. Rồi Ngài lấy lại mạng sống và sống một cách hiển vinh. Trong
tâm trí của người Kitô hữu, thì bản văn này, được viết hơn 500 năm trước khi Ðức
Kitô đến, thật chẳng khác gì một lời giảng giải của các tông đồ về ý nghĩa sự
chết và sự phục sinh của Ðức Kitô. Và chắc chắn đó cũng là điều Thiên Chúa cố ý
nói lên trong đoạn này. Chính Ðức Kitô và Israel mới, chính Ngài là Israel sẽ
trở thành ánh sáng cho các dân nước và sự cứu độ cho các dân ngoại. Ngài đem
lại ơn cứu độ cho nhiều người bằng cách thí mạng sống mình để đền tội cho tất
cả.
"Này, Tôi Tớ của Ta sẽ
thành đạt, Ngài sẽ được bạt cử, nhắc cao và tuyệt vời tôn dương .
Trái lại, chính các bệnh tật của
chúng tôi, Ngài đã mang ;
chính các đau khổ của chúng tôi,
Ngài đã vác.
Còn chúng tôi, chúng tôi lại kể
Ngài như kẻ bị trời đánh,
Bị Thiên Chúa trừng phạt và đày
đọa.
Nhưng Ngài đã bị đâm vì những sự
ngỗ nghịch của chúng tôi và vì tội và của chúng tôi,
Ngài đã bị nghiền tán,
Ðã giáng xuống Ngài hình phạt
Ðổi lấy an bình cho chúng tôi,
Và nhờ những vết hằn Ngài chịu,
chúng tôi có phương được lành.
Chúng tôi hết thảy đã xiêu lạc
Như chiên cừu mỗi người quay mỗi
ngả,
Nhưng Yavê lại để Ngài phải lụy
vì tội vạ hết thảy chúng tôi.
Bị tra tấn, Ngài đã chịu đựng và
không mở miệng,
Như cừu bị dẫn đến lò sát sinh,
Như chiên mẹ ngậm câm không hề
mở miệng.
Bị bắt giam và lên án, Ngài đã
bị đem đi.
Nào ai màng nghĩ đến vận mạng
của Ngài ?
Ngài đã bị chặt phăng khỏi đất
người sống,
Chính vì sự ngỗ nghịch của Dân
Ngài,
Ngài đã bị sát phạt.
Huyệt Ngài, người ta đặt giữa
bọn ác ôn,
Và nấm mộ Ngài nơi dân trọc phú,
Dẫu rằng Ngài không làm điều
hung ác,
Và gian dối không ở nơi miệng
Ngài.
Vì Ngài đã hiến mình làm hy sinh
tạ tội,
Nên Ngài sẽ được thấy dòng giống
sẽ thọ trường niên
Và ý định của Yavê nhờ Ngài mà
nên trọn.
Chính vì kiếp lao đao mạng Ngài,
Ngài sẽ thấy sự sáng và no đầy
giác ngộ.
Người công chính,
Tôi Tớ Ta sẽ giải án tuyên công
nhiều người,
Và chính Ngài sẽ vác lấy tội vạ
của chúng.
Cho nên,
Ta sẽ ban nhiều người làm phần
của Ngài,
Ngài sẽ phân chia vô số chiến
quả,
Chính vì Ngài đã thí mạng
Không màng cái chết,
Và đã bị liệt hàng những kẻ ngỗ
nghịch,
Là đã mang lấy tội lỗi nhiều
người,
Và đứng ra bầu chữa cho những kẻ
ngỗ nghịch" "Is 52, 13 ; 53, 4 - 12).
Thật vậy, Thiên Chúa thường vẽ những đường thẳng với những
đường cong. Sự hủy diệt Yêrusalem và Ðền Thờ, sự mất Khám, sự lưu đày của dân
Yuđa - những biến cố này trông có vẻ tai ác hoàn toàn đối với những kẻ lưu đày
đã từng trải qua. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn ngủi ở Babilon, sự thánh
thiện bên trong, trái nghịch với sự chỉ chuộng hình thức bên ngoài, đã hồi
sinh, và sống cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết giữa Dân Thiên Chúa, Êzêkiel và
Isaya Ðệ Nhị đã đóng góp nhiều vào việc làm cho những xương khô của Israel chỗi
dậy mặc lấy sự sống mới.
HỒI HƯƠNG - DO THÁI GIÁO.
EZRA
(Ðọc chương 1 (sắc chỉ của Kyrô) ; chương 3 (Tái thiết Ðền Thờ) ; các chương 5
- 6 (Ðến Thờ thứ nhì) và chương 7 (Ezra đi về Yêrusalem).
NÊHÊMIA
(Ðọc các chương 1 - 6 (Nêhêmia và các tường thành) và các chương 8 - 9 (Nghi lễ
trọng thể).
"Các đế quốc thăng trầm như sóng cả, tan biến và
không còn thấy nữa". Ðế quốc Assyri cũng tan biến như thế. Nó là một đế
quốc hùng cường kinh khủng ở miền đông, nó đã chiếm trị vương quốc miến bắc
Israel. Ðã đến giờ, đế quốc Babilon từng là một cừu địch khủng khiếp dưới thời
Nabukôđônosor cũng phải gặp một số phận như thế. Ông vua này chết năm 560 trước
TCGS, và chừng 20 năm sau, Babilon bị sụp đổ trước thế lực phối hợp của quân
Batư và Mêđê, Kyrô đại đế. Vua Batư và Mêđê, người sáng lập đế quốc Mêđê hùng
cường, đã vào Babilon năm 539. Chỉ một năm sau, ông hạ chỉ cho phép những người
lưu đày được hồi hương. Quả thật ông là một vua đại lượng, biết tôn trọng những
phong tục và những thần của các nước ông đã chinh phục, Isaya Ðệ Nhị nói đến
Kyrô một cách kính cẩn đặc biệt, gọi ông như là mục tử của Thiên Chúa (44, 28)
và là kẻ được xức dầu của Thiên Chúa (45, 1).
Năm 537 trước TCGS, một năm sau khi sắc chỉ hồi hương được
ký, người Dothái bắt đầu trở về lại Yuđa, nhưng không phải tất cả đều trở lại.
Nhiều người đã có nhà cửa đầy đủ tiện nghi tại Babilon và đã làm ăn phát đạt,
nhất định ở lại đó hơn là liều lỉnh đón nhận cuộc sống gian truân của kẻ hồi
hương. Mặc dù thế, những người này cũng bỏ ra nhiều tiền của để giúp các kẻ hồi
hương. Nhóm Dothái đầu tiên lên đường hồi hương dưới sự lãnh đạo của thượng tế
Yôsua, và của hai người hoàng tộc còn sống sót là Sassabasar (có lẽ là con trai
của vua Yoakin) và Zôrôbabel. Hai ông này là những người đầu tiên lên cai trị
nước Yuđa được phục hồi. Không một người nào trong hai người thuộc hoàng tộc
này sẽ được làm vua. Họ là những viên chức được vua Batư bổ nhiệm và hoàn toàn
thuộc quyền vua Batư.
Hồi hương chẳng bao lâu thì Dothái bắt đầu nghi ngờ không
biết hành động như thế có phải là khôn ngoan chăng. Họ phải bước vào một đống
ngổn ngang khó nhọc. Trước hết là vấn đề nhà cửa. Nhà cửa cần phải được xây
cất, được tái thiết hoặc mua lại. Nhiều người can đảm dựng lều lên để ở. Phải
tranh giành lại những miếng đất thuộc tài sản của cha ông để lại, mà những
người Dothái và những người ngoại kiều đã chiếm đoạt nhân lúc vắng chủ. Ða số
những người Dothái từ Babilon trở về đều hãy còn trẻ ; do đó, họ là những người
trước kia chưa bao giờ thấy Yuđa. Họ bị vỡ mộng trước cái cảnh trái ngược giữa
những thành phố phồn thịnh ở Babilon họ vừa rời bỏ, và những cảnh điêu tàn ở
Yuđa. Các vấn đề khó khăn của đời sống được thấy rõ ràng ngay lập tức. Yuđa,
quê hương họ hằng ước mong chỉ là một xứ nghèo nàn, điêu tàn, nhỏ bé, vỏn vẹn
chỉ độ 20 dặm chiều dài và 25 dặm chiều ngang. Nghèo nàn, tàn phá sau boa nhiêu
năm trời !
Một trong những việc phải làm trước hết là phải tái thiết
Ðền Thờ ngay trên chỗ cũ ở Yêrusalem. Một Ðền Thờ mới được đề nghị và bắt đầu
chuẩn bị khởi công. Chẳng bao lâu sự hăng say dần tan biến hết. 17 năm sau khi
những người lưu đày hồi hương, Ðền Thờ vẫn chưa có, nhưng chính vào năm đó, 520
trước TCGS, hai vị tiên tri, Haggai và Zacarya (Ðọc Haggai các chương 1 - 2 ;
Zacarya các chương 1 - 8) đã thành công trong việc làm cho dân chúng lấy lại
niềm phấn khởi đã mất.
"Bấy giờ Zơrubabel, con của Shơaltiel và Yôsua, con
của Yôxađaq, đại tư tế và tất cả số sót của dân đã vâng nghe tiếng của Yavê,
Thiên Chúa của họ, và lời lẽ của tiên tri Haggai, bởi Yavê Thiên Chúa đã phái
ông đến với họ.
Yavê thức tỉnh khí phách Zơrubabel, con của Shơaltiel,
khâm sai xứ Yuđa, khí phách của Yôsua, con của Yôxađaq, đại tư tế và khí phách
của tất cả số sót của dân. Vậy họ đã đến tra tay vào việc trong nhà của Yavê
các cơ binh" (theo bản tiếng Anh thì : Haggai 2, 12 - 14 ; theo Lm. Thuấn
thì Haggai 1, 12 - 14).
Năm năm sau đó, Ðền Thờ đã hoàn thành. Nó được xây cất
theo họa đồ Ðền Thờ của Salômon và có lẽ cũng y một kích thước. Lễ tế lại bắt
đầu như ở thời kỳ trước lưu đày, các tư tế và lêvít đảm nhận trách nhiệm phụng
vụ của họ và Ðền Thờ thứ hai (cũng gọi là đền thờ của Zơrubabel) đã trở nên
trung tâm đời sống của người Dothái. Không có Khám Giao Ước, nhưng Thiên Chúa
chắc chắn vẫn công nhận Ðền Thờ này như là Nhà của Ngài ở trần thế, và những lễ
tế ở đó sẽ làm cho Ngài vui mắt bao lâu chúng còn là những dấu hiệu thực sự
biểu lộ lòng thành kính bên trong.
Từ năm 515 (năm đền thờ của Zơrubabel được hoàn thành) đến
năm 445 trước TCGS, ít có tin tức gì đáng kể về Yuđa. Người ta biết rằng những
người Samari ở phía bắc, là những người do sự trộn lẫn giữa người Israel và
những người ngoại kiều đã lập cư ở miền bắc sau khi Israel bị huỷ diệt năm 722
trước TCGS, đã lên tiếng khiếu nại với Xerxes là vua Batư lúc bấy giờ, về việc
xây lại tường thành Yêrusalem. Và họ đã thắng cuộc, tường thành không được xây
lại.
Tuy vậy năm 445, có một người tên là Nêhêmia đến
Yêrusalem. Ông vốn là một người Dothái, đã được lên địa vị cao trọng trong giới
chính trị ở Batư, và ông đã làm quan chước tửu của vua Artaxerxes. Ông đã có
sẵn dự định rõ rệt trong óc và ông đã xin được phép vua Batư. Dự định của ông
là xây lại tường thành Yêrusalem, và ông đã thực hiện trong một thời gian kỷ
lục. Trong vòng không đầy hai tháng sau khi ông đến, các tường thành đã được
xây dựng xong. Sự hoàn thành nhanh chóng đó lại càng đáng khâm phục khi chúng
ta đọc thấy rằng những người thợ của Nêhêmia đồng thời cũng phải làm chiến sĩ
sẵn sàng bảo vệ thành và công cuộc xây cất tường thành chống lại những cuộc tấn
công bất ngờ của người Samari và người Ammon. Họ đã làm việc cách rất nhanh
chóng, một tay khuân gạch, một tay cầm gươm.
Nêhêmia có mặt ở Yêrusalem một thời gian thì Azra vị tư tế
ký lục, cũng đến đó. Ông này cũng đóng góp vào sự phục hồi Yuđa về mặt thiêng
liêng. Ðiều này được mô tả rõ ràng trong sách Nêhêmia chương 8 và 9. Chương 8
thuật lại việc Ezra tập họp, những người Yuđa gần Cổng Nước, về phía đông nam
Ðền Thờ. Một cách chầm chậm và rõ ràng, ông đã đọc cho họ nghe về bản luật Môsê
cũng gọi là bộ Ngũ Kinh, tức là năm quyển đầu của Thánh Kinh. Khi đọc ông
thường dừng lại ở nhiều đoạn, để các Lêvít đủ thì giờ giải thích cho dân chúng
ý nghĩa những đoạn đã nghe. Trong suốt thời gian nghe đọc và nghe giải thích
như thế, dân chúng thường hô lớn "Amen" để tuyên thệ ý muốn tuân giữ
luật Thiên Chúa như thể là luật của quốc gia. Chương 9 mô tả một cuộc cuộc họp
long trọng khác xảy ra sau đó chỉ vài tuần. Trong dịp này, Ezra hướng dẫn dân
chúng cử hành lễ nghi nhắc lại lời giao ước cách trọng thể. Ông kể lại việc
Thiên Chúa đã dựng nên thế giới, đã kêu gọi Abraham làm Tổ Phụ Dân Ngài, đã cứu
Israel khỏi làm nô lệ ở Aicập, và đã làm cho nó trở thành một gia đình tôn giáo
của Ngài trên núi Sinai, đã dẫn đưa nó vào Phalệtinh, và ở đó Ngài đã ban cho
nó miền đất đã hứa nhiều thế kỷ trước với Abraham. Ezra cũng nói đến sự Israel
thất tín thường xuyên với Thiên Chúa, đã phạm tội nhiều trong sa mạc cũng như ở
Phalệtinh. Cuối cùng, những thính giả của Ezra đều công khai thú tội và khẳng
định lại ý muốn của họ tự nguyện bước vào giao ước mới với Thiên Chúa.
Những cảnh được mô tả trong hai chương này có ý nghiã thật
sâu xa đối với Yuđa thời kỳ sau lưu đày và làm khuôn khổ cho Dothái giáo. Tôn
giáo này tồn tại mãi cho đến khi cả Ðền Thờ lẫn quốc gia đều bị người Rôma hủy
diệt năm 70 sau TCGS. Linh mục Lagrange đã giải thích sự kiện này như sau :
"Dothái giáo là một nhà nước được thiết lập bằng sự
phối hợp chặt chẽ giữa chủng tộc và tôn giáo, giữa pháp luật đạo và đời để trở
thành một pháp luật mà thôi, dưới một quyền bính nằm trong tay vị thượng
tế".
Ðó là hình thức nhà nước Dothái thời kỳ sau lưu đày. Trong
đó vua được thay thế bằng vị thượng tế được xức dầu như các vua thời kỳ trước
lưu đày. Luật pháp của nhà vua được thay thế bằng giới luật của Môsê ; sự quan
trọng của Khám được thay thế bằng sự quan trọng của Sách Thánh chứa đựng Lời
của Thiên Chúa. Sự hoạt động cao thượng nhất là nghiên cứu giới luật. Do đó,
chính trong thời kỳ này, một mặt có những tư tế chỗi dậy gây ảnh hưởng và được
địa vị, mặt khác các ký lục cũng đua nhau nổi lên. Sự thờ phượng và giới luật,
các tư tế và các ký lục. Ðền Thờ đã khôi phục lại địa vị cao quý linh thiêng
của nó thì các giảng đường, nơi mà giới luật được giảng dạy, cũng được thiên hạ
kính trọng không kém. Thật ra, Yuđa cũng có một vị cai trị nước, về phương diện
chính trị, được nhà cầm quyền Batư bổ nhiệm, nhưng người lãnh đạo thật sự là vị
thượng tế. Trải qua nhiều năm, càng lâu ông càng trở thành con người được tôn
trọng nhất. Y phục của ông đã trở nên giống như y phục các vua dòng dõi Ðavít
ngày xưa, và chính ông cũng trở thành vị thủ lãnh quốc gia và là người đại diện
quốc gia trước mặt Thiên Chúa.
Một vị tiên tri cuối cùng trong những năm đầu tiên của
Dothái giáo là một vi vô danh mà chúng ta mệnh danh là Malaki (Ðọc Malaki các
chương 1 - 3). Malaki có nghĩa là "Thần sứ của Ta" và do câu mở đầu
chương 3 mà ra : "Này Ta sai Thần Sứ của Ta, kẻ sẽ vén đường bạt lối trước
nhan Ta" (Ma 3, 1). Ông gần như đồng thời với Nêhêmia và Ezra, ông vạch
cho chúng ta thấy rõ bên trong sự vô luân của thời đó. Những sự bất công xã hội
lại nổi lên vấn đề làm nguy hại cho sức khoẻ thiêng liêng của Dân Chúa, cơn
bệnh khác là sự ly dị mà Thiên Chúa rất ghét (Ma 2, 16). Ngài cũng ghét sự phục
dịch thiếu hứng thú của các tư tế và những lễ tế tầm thường của dân chúng.
Malaki rất quan trọng trong lịch sử cứu độ chính nhờ ở hai
đề tài độc đáo của ông. Trước nhất, ông nói về hai người tiền hô của Chúa, tức
là sứ giả của Thiên Chúa được phái để đi trước Chúa vào Ðền Thờ. Sau đó ông
đồng hóa sứ giả này với Êlya, người sẽ xuất hiện trước ngày của Yavê.
"Này Ta sai Thần Sứ của Ta, kẻ vén đường bạt lối
trước Nhan Ta. Và thình lình Ta sẽ đến nơi Ðền Thờ của Người, vị chúa tể mà các
ngươi đòi hỏi." (3, 1).
"Này Ta sẽ sai đến cho các ngươi tiên tri Êlia trước
khi ngày của Yavê đến, ngày lớn lao và đáng sợ. Nó sẽ quay lòng cha ông về với
con cháu và lòng con cháu về với cha ông, kẻo Ta đến mà đánh phạt xứ bằng án
hiến phù tru di" (3, 23 - 24).
Ðộc giả Kitô hữu sẽ biết rằng chính Yoan Tẩy Giả là kẻ làm
cho ứng nghiệm lời tiên tri này, theo ý nghĩa thiêng liêng nói về vị tiền hô
trong tương lai. Trong Tân Ước, khuôn mặt của ông được vẻ nổi bật trên bối cảnh
của Êlia. Yoan Tayẩ Giả cũng ăn mặc giống như Êlia và ông thi hành phận sự
chẳng khác nào Êlia, đã sống với cả quyền phép và tinh thần.
Ðiểm đóng góp đặc biệt thứ hai của Malaki, có lẽ được
nhiều người biết hơn. Nó ăn khớp với văn bản tổng quát của lời hứa thứ ba với
Abraham : Phúc lành sẽ được ban cho các dân các nước nhờ gia đình của vị Tổ Phụ
này. Các tiên tri trước kia cũng đã khai triển điểm này bằng cách nới rộng phạm
vi ơn cứu độ đến các dân ngoại (Một vài văn bản đã được trích dẫn rồi. Chẳng
hạn : Mica 4, 1 - 2 và Isaya 2, 2 - 3. cũng nên xem lại ánh sáng các nước các
dân, đề tài của Isaya Ðệ Nhị đã được mô tả ở phần trước). Malaki giải thích
thấu đáo hơn. Trái với những thú vật đui mù, bệnh tật, tồi tàn, thường được
dùng làm hiến vật thời đó, cá dân ngoại sẽ có ngày dâng lên Thiên Chúa một hy
lễ thường xuyên đẹp lòng Ngài. Một hy lễ thường xuyên, một hy lễ phổ bác, một
hy lễ được gặp thấy từ đông sang tây, từ phía mặt trời mọc đến phía mặt trời
lặn ! Và thật vậy, khi Giao Ước Mới cuối cùng được bảo chứng, Giao Ước đó sẽ
sát nhập các dân ngoại vào Thân Thể Ðức Kitô như là con cháu thiêng liêng của
Abraham ; Giao Ước đó được thiết lập bằng máu của một hy lễ thiêng liêng mới,
hằng ngày được dâng lên khắp cùng mặt đất.
"Ai trong các ngươi đóng cửa lại, để các ngươi đừng
nhen lửa tế đàn của Ta một cách vô lối ? Nơi các ngươi Ta không chút nào vui
thỏa, Yavê các cơ binh đã phán. Và lễ lạc tự tay các ngươi, Ta không chiếu
nhận. Phải, từ phương mặt trời mọc đến phương mặt trời lặn. Danh Ta lớn thật
nơi các quốc gia và khắp mọi nơi, hy sinh được huân yên dâng tiến Danh Ta làm
một với lễ vật tinh sạch. Quả thế, Danh Ta lớn thật nơi các quốc gia. Yavê các
cơ binh đã phán" (Ma 1, 10 - 11).
NGƯỜI HYLẠP VÀ NGƯỜI LAMÃ.
Thánh Kinh không nói gì về lịch sử dân Dothái từ thời kỳ
Ezra và Nêhêmia cho đến khi anh em Macabê nổi dậy năm 166 - 165 trước TCGS. Tuy
nhiên khoảng thời gian độ 250 năm này, là một thời kỳ hoạt động chính trị rất
náo nhiệt ở các nước chung quanh Yuđa. Ðó là thời kỳ đế quốc Batư suy yếu và bị
sụp đổ trước lực lượng hùng cường của Hylạp.
Năm 336 trước TCGS, Alexanđrô đại đế, con của Philíp
Macêđôn, lên kế vị cha của ông đã bị ám sát. Vị vua trẻ tuổi này mới hai mươi,
là môn đệ của Aristôt bất hủ, và thấm nhuần lối triết lý của cuộc sống hằng
trăm năm trước thời đại của ông. Lý thuyết của ông là "Tất cả mọi người
phải trở thành một dân mà thôi". Ông là người đầu tiên của thế giới đại
đồng này và được giao phó trọng trách đạt cho kỳ được mục tiêu này, ngay cả
bằng vũ lực. Trong thời gian làm vua ngắn ngủi của ông, độ 13 năm (336 - 324
trước TCGS), ông đã gần như đạt được mục đích.
Năm 334 ông vượt Hellespont với ba mươi lăm ngàn quân, và
năm sau ông đã đánh bại quân Batư dưới quyền Ðariô. Nhằm mục đích tấn công tỉnh
Aicập giàu có của đế quốc Batư, ông đem quân vào Yêrusalem ở phía nam và sau đó
sẽ xuống Aicập. Ở đó ông được dân chúng hoan nghênh như là vị giải phóng. Trong
những năm 332 - 331, ông đã xây cất thành Alexanđria rất đồ sộ nguy nga, thành
chẳng bao lâu đã trở nên một trung tâm vân hóa của thế giới. Cuộc chiến thắng
Ðariô một lần nữa, năm 331 đã đẩy đế quốc Batư vào chỗ cáo chung không có gì là
vẻ vang. Alexanđrô và đoàn quân của ông lại tiếp tục tiến về phía đông. Năm 326
ông giao chiến với một vua Ấnđộ ngay tại biên giới của nước này. Lúc đó đoàn
quân của ông không chịu đi xa hơn nữa. Họ đã đi được khoảng 11 ngàn dặm trong
thời gian tám năm rưỡi. Năm 324 trước TCGS (có người nói năm 323), ông chết ở
Babilon sau một cơn bệnh ngắn ngủi chỉ mới ngoài ba mươi tuổi.
Một điều trông có vẻ thật là trái ngược, cái mộng thế giới
đại đồng của Alezanđrô đã tình cờ được thực hiện một cách thành công bằng sức
mạnh của lời cầu nguyện và Thánh Linh chứ không phải bằng gươm giáo và chiến
bào. Trong 50 năm đầu tiên, sau khi Ðức Kitô chịu chết, Kitô giáo đã lan tràn
khắp các miền Alexanđrô đã chinh phục. Trong Kitô giáo không còn phân biệt
Dothái với dân ngoại, người nô lệ với người tự do, nhưng tất cả đều trở nên một
trong Ðức Kitô. Trên bình diện tự nhiên, sự lan tràn nhanh chóng của Giáo Hội
Ðức Kitô là do một phần đáng kể ở công trình của Alexanđrô, những cuộc chinh
phục của ông đã làm cho tiếng Hylạp được phổ biến trong khắp thế giới văn minh
lúc bấy giờ. Nhờ ngôn ngữ này và sự phổ quát của nó mà những diễn giả đầu tiên
của Ðức Kitô, đặc biệt là thánh Phaolô, đã có thể loan báo một cách hữu hiệu
Tin Mừng của sự cứu độ thế giới.
Khi Alexanđrô chết, đế quốc của ông bị các tướng lãnh phân
chia. Cassanđra thì được Macêđôni, Lysimacô được Thracê, Plôtêmê được Aicập và
Sôlôcô được Babilon. Chỉ có hai ông sau này là quan trọng đối với lịch sử của
chúng ta. Tướng Plôtêmê và những kẻ kế vị ông (dòng họ Plôtêmê) đã dựng nên một
nước Aicập theo văn minh Hylạp. Chẳng bao lâu sau khi Alexanđrô chết, Phalệtinh
bị tranh giành đất đai, nhưng dòng họ Plôtêmê đã thắng lợi năm 301 trước TCGS
và nắm quyền kiểm soát Phalệtinh mãi cho đến năm 198 trước TCGS. Theo những tài
liệu hiếm có hiện có, thì Phalệtinh được cai trị theo một pháp luật rất hiền
hòa. Dòng họ Plôtêmê và người Dothái sống thân thiện với nhau. Chúng ta biết
rằng trong suốt thời kỳ này, người Dothái chiếm một tỷ lệ lớn trong dân số ở
Alezanđria và họ được nhiều đặc ân. Chính trong thành phố này, một bản dịch Cựu
Ước (quen gọi là bản Bảy Mươi) từ tiếng Hippri sang tiếng Hylạp, đã được bắt
đầu năm 250 trước TCGS. Công cuộc dịch thuật này kéo dài gần 200 năm và bản Bảy
Mươi đã nhanh chóng trở thành Thánh Kinh của người Kitô hữu trong những ngày
đầu của Giáo Hội.
Chính ách hiền hòa của Plôtêmê áp dụng cho Phalệtinh đã
chấm dứt đột ngột năm 198 trước TCGS, khi Antiokiô III, thuộc dòng dõi Sêlêucit
đã đánh bại đạo quân Aicập. Nhờ đó ông này nắm quyền kiểm soát cả miền nam Syri
lẫn Phalệtinh. Con trai của ông là Antokiô IV, một con người đê tiện, đã lên
nối ngôi năm 175 trước TCGS. Ông này không hề có chút liêm sĩ, ông tự mệnh danh
là "Thêô Êpiphanê" - "Thiên Chúa hiện thân". Nước Yuđa nhỏ
bé như một hòn đảo đối kháng tí hon chống lại nền văn hóa Hylạp đang lan tràn ở
chung quanh nó đã làm cho Antiôkiô giận dữ. Ông nhất định Hylạp hóa người
Dothái, hủy diệt Dothái giáo và giới luật Môsê. Lễ tế bị cấm đoán, sự cắt bì
cũng vậy. Dân chúng bị bắt phải ăn thịt heo. Năm 169, Ðền Thờ bị trộm cắp,
tường thành Yêrusalem bị phá hủy và nhiều công dân bị giết hại. Hai năm sau,
một sự phạm thượng tột mức đã xảy ra. Bàn thờ của vị thần Hylạp : Zeus (vị thần
Roma : Jupiter ; vị thần Syri : Baal) đã được đặt lên trên bàn thờ hy lễ của
người Dothái ở trong Ðền Thờ, và chính Ðền Thờ cũng bị hóa thành nơi phụng thờ
thần Hylạp. Ðó là tội phá hoại, một sự phá hoại đáng nhờm tởm, được nói tới
trong sách Ðaniel. 8, 3. Tôn giáo Môsê chưa bao giờ bị tấn công kịch liệt và
trực tiếp như thế. Tất cả những điều này làm cho chúng ta dễ hiểu tại sao chủ
nghĩa rất lý tưởng của một thế giới đại đồng mà các tiên tri đã rao giảng bị
xếp lại, và được thay thế bằng chủ nghĩa bài tha đầy vẻ hung hăng. Bởi vì chủ
nghĩa bài tha này được coi như là cần thiết để giữ lấy sự sống còn cho Yuđa và
cho tôn giáo của nó. Yuđa quay về với chính mình, tăng cường tự vệ và củng cố
những tường lũy tôn giáo của mình.
Quyển sách huyền diệu của tiên tri Ðaniel phải được đọc
trên bối cảnh của sự bách hại và đối kháng này. Sách ấy được soạn khoảng năm
165 trước TCGS, có lẽ giữa thời kỳ bị bách hại. Về phương diện lịch sử cứu độ,
nó chứa đựng một đề tài rất quan trọng : "Con người" (chương 7). Ðáng
lưu ý nhất là những câu sau đây :
"Tôi mãi nhìn các thị kiến ban đêm, thì này : với mây
trời, như thể một Con Người đi đến. Ngài tiến lại Ðấng cao niên, và người ta
cho Ngài xích lại trước Nhan Người. Ngài được ban tặng quyền bính, vinh dự,
vương triều. Tất cả các dân các nước, các tiếng nói phải làm tôi Người. Quyền
bính của Người sẽ không bị hủy" (13 - 14).
"Nhưng chư thánh của Ðấng Tối Cao sẽ lãnh lấy nước.
Họ sẽ chiếm hữu nước ấy mãi, cứ mãi và luôn mãi" (câu 18).
"Nước với quyền bính và sự lớn lao của mọi nước khắp
dưới bầu trời sẽ được ban cho chư thánh của Ðấng Tối Cao. Nước của Người, nước
bền mãi, và mọi quyền bính sẽ làm tôi và vâng phục Người" (câu 27).
Ngay cả lúc tình cờ đọc qua những câu này, chúng ta cũng
không khỏi nhớ lại lời tiên tri Nathan nói về vương quốc vĩnh cửu và phổ bác sẽ
được ban cho vị vua dòng dõi Ðavít, và xuyên qua ông, ban cho cả Dân Thiên
Chúa. Trong thị kiến của Ðaniel, vua và dân chúng được phối hợp lại thành một
hình ảnh mà thôi, bởi vì vua là đại diện của dân chúng, và dân chúng chỉ có
được vương quốc là nhờ bản thân của vua. Cùng một lúc đó, tước hiệu "con
người" được dùng để chỉ sự phối hợp "vua - dân" này, nó nhấn
mạnh nhân tính của vị vua được tuyển chọn của Thiên Chúa. Như thế, Ðaniel đã
tìm cách đúc kết thành một chữ những đặc điểm thiên sai của vị vua dòng dõi
Ðavít và Người Tôi Tớ của Yavê, một mặt làm nổi bật sự cao sang, mặt khác nhấn
mạnh sự thấp hèn của nhân loại. Chính Chúa Giêsu cũng đã dừng lại tước hiệu
"Con Người" này để chỉ về mình ; đó là một tước hiệu ý nghĩa thật
phong phú và rất huyền diệu khi mới nghe lần đầu. Làm như thế, Chúa Giêsu tự
giới thiệu mình là một vị vua dòng dõi Ðavít, đại diện cho những người thánh
của Ðấng Tối Cao, đến để thiết lập một vương quốc vĩnh cửu và phổ bác bằng
những sự đau khổ của nhân tính mình..
Năm 166 - 165 trước TCGS, một năm sau khi Ðền Thờ bị
Antôkiô xúc phạm, một cuộc dấy loạn công khai đã bùng nổ trong dân Dothái.
Người lãnh đạo là Mattathya, một tư tế thuộc hàng con cái Yôyarib, một hàng tư
tế không tiếng tăm gì. Chương 2 sách Macabê I mô tả lúc bắt đầu cuộc dấy loạn
này, được Mattathya tập trung chung quanh thành Môđin cách Yêrusalem chừng 25
dặm về phía tây bắc. Các con trai của Mattathya đều trở thành tướng lãnh. Người
con trai thứ ba của ông tên là Yuđa, là vị tướng lãnh ngay từ lúc khởi đầu. Ông
này còn được gọi là "Macabê", nghĩa là "cái búa", và danh hiệu
này được chúng ta dùng để chỉ gia đình những nhà ái quốc tôn giáo này. Triều
đại họ lập nên cũng còn gọi là "Hasmônê", có lẽ theo tên một vị tổ
tiên nào đó tên là Hasmon.
Những câu chuyện về chiến công của anh em Macabê được gặp
thấy trong hai quyển sách nhan đề Macabê. Ðó là những câu chuyện chiến tranh
rất lý thú và rất linh động chẳng kém gì những câu chuyện thời nay (đọc Macabê
các chương 1 - 16). Gần như là đã sống lại thời kỳ các thẩm phán của Israel xưa
kia (những vị lãnh đạo quân sự trong những ngày trước khi có vua). Cuộc nổi dậy
đã thành công ngay tức khắc. Tháng 12 năm 165 trước TCGS, Yuđa chiếm được Ðền
Thờ, tổ chức lễ Hannukah, cũng gọi là lễ Ánh Sáng, để nhắc lại ngày tẩy uế và
dâng hiến Ðền Thờ một cách trọng thể.
Tuy nhiên sự dấy loạn của dòng họ Macabê không phải là một
sự thành công hoàn toàn về phương diện tôn giáo. Chẳng bao lâu những người kế
vị Yuđa đã tỏ ra quá thế tục, quá chính trị, chẳng khác nào các vương công
trong thế giới Hylạp chung quanh nước Yuđa. Không đầy 60 năm sau cái chết của
Yuđa Macabê năm 161, người kế vị thứ tư của ông, Aristôbôlô I (104 - 103) tự
xưng là vua. Tệ hơn nữa, dòng họ Hasmôn tự xưng mình là thượng tế, vì thế đã
làm mất lòng nhiều vị tư tế đã được chính thức thiết lập ở Yêrusalem.
Sự phản kháng mạnh mẽ nhất, chống lại sự phản bội của dòng
họ Hasmôn đối với giới luật và tinh thần của Dothái giáo, phát xuất từ những
người Dothái khắc khe, họ tự mệnh danh là "Hasidim" - nghĩa là kẻ đạo
đức. Từ ngữ này không phải được dùng để chỉ một giáo phái rõ rệt nào cả, nhưng
đúng hơn là để chỉ những người Dothái đạo đức nhất thuộc mọi tầng lớp xã hội.
Nhiều người trong số những người Hasidim này vẫn ở lại Yêrusalem, để mắt theo
dõi phê phán những hành động của dòng họ Hasmôn. Những người Biệt Phái phát
xuất từ nhóm Hasidim đó ; những người Hasidim khác, gồm cả tư tế và thường dân,
hoàn toàn phủ nhận quyền lãnh đạo tôn giáo và chính trị của triều đại Macabê,
và họ rút lui vào sa mạc để sống một cuộc sống thiêng liêng hơn, một số người
trong nhóm này đã tạo thành cộng đoàn Qumram nổi tiếng ngày nay ở phía tây bắc
Biển Chết. Chính các phần tử của cộng đoàn này, trước sức tấn công của quân đội
Rôma năm 68 (sau TCGS), đã dấu những thủ bản Cựu Ước và những tác phẩm của đoàn
thể họ vào những ghềnh đá gần đó. Và những tài liệu này đã nằm mãi cho đến năm
1947, khi một cậu bé mục tử Ảrập đã tình cờ khám phá được chúng và đưa chúng ra
trước học giả và ký giả thế giới. Những tài liệu vô giá này quen được gọi là
những cuộn giấy ở Biển Chết.
Người thứ năm lên kế vị Yuđa là Alexanđrô Yannê (103 - 70
trước TCGS), là một nhân vật quan trọng cuối cùng của dòng họ Hasmôn. Vợ ông
tên là Alexanđra nối tiếp ông để cai trị độ chín năm. Sau khi bà chết năm 67
trước TCGS, ngai vua và quyền thượng tế bị tranh giành giữa hai người con trai
của bà : Hyrcanô và Aristôbôlô.
Chính vào lúc ấy, đế quốc Rôma bước lên sâu khấu. Thế lực
quốc tế của nó đã phát triển nhanh chóng trong những thế kỷ trước đây. Carthagô
đã bị chinh phục năm 202 trước TCGS, Philíp thứ 5 xứ Macêđôn đã đầu hàng năm
197, và Antiôkiô thứ 3 đầu hàng năm 191, miền Cận Ðông bị bỏ ngõ.
Năm 67 trước TCGS, khi hai người thuộc dòng họ Hasmôn
tranh nhau quyền kế vị, người Rôma được mời đến để giảng hòa. Pompê lúc bấy giờ
đang lên tuyệt đỉnh vinh quang trong sự nghiệp chính trị và quân sự đóng quân
ngoài thành Yêrusalem. Ông được Hyrcanô rất hoan nghinh. Nhưng Aristôbôlô và
những người Sađđucê, bên kia là Hyrcanô và những người Biệt Phái phối hợp với
Rôma và (một điềm cho thấy đại họa sắp xảy ra) quân lực Iđumê của một người tên
là Antipater. Sự chênh lệch quá rõ ràng ! Năm 63 trước TCGS, lực lượng của
Pompê tiến vào Yêrusalem và vào khu vực Ðền Thờ. Chính Pompê cũng vào nơi Cực
Thánh. Nhưng ngạc nhiên biết bao ! Ông thấy trống rỗng !
Quân lực Rôma rời khỏi Yêrusalem, nhưng họ bắt nó phải làm
chư hầu của họ. Hyrcanô được đặt làm thượng tế, nhưng không phải là vua.
Antipater, một người bán-Dothái (người Iđumê đã bị một nhà lãnh đạo Hasmôn bắt
buộc theo Dothái giáo và chịu cắt bì, độ 75 năm trước đó), đã chiếm một địa vị
rất thế lực. Dưới triều đại Yuliô Xêza (kẻ đã chiến thắng Pompê), Antipater
được cử làm tổng trấn của xứ Dothái, thuộc quyền Rôma, con của ông là Hêrôđê
đại đế, lên làm vua xứ này từ năm 37 đến năm 4 trước TCGS. Ông cất chức thượng
tế Antigônô Mattathya, người cuối cùng thuộc dòng họ Hasmôn. Và từ đó, chức vụ
tư tế tùy thuộc vào chính quyền dân sự.
Ðộ vài năm trước khi Hêrôđê chết. Yêsu người thành
Nagiarét, con của Maria đã ra đời. Với Ngài, lịch sử chuẩn bị cứu độ của dân
Dothái được chấm dứt, và bắt đầu lịch sử hoàn tất ơn cứu độ của Ðức Kitô.