Trong những Hành trình trước chúng ta đã khám phá liên hệ giữa cầu
nguyện, Chúa Thánh Thần và hành động.
Hành trình này chú trọng đến nhu cầu cầu nguyện của môn đệ qua việc học
hỏi về kinh Lạy Cha.
Đoạn Tin Mừng nói đến kinh Lạy
Cha (Lu-ca 11:1-13) đi theo sau hai trình thuật về người Sa-ma-ri nhân hậu
(10:25tt) và cô Mác-ta với Ma-ri-a (10:38tt).
Lu-ca chủ ý đặt kinh nguyện ở đây như một phần trong cách
sắp xếp cẩn thận để trình bày toàn thể sứ điệp sách Tin Mừng của ngài. Trong Hành trình 7, chúng ta đã khám phá là
cô Mác-ta không thấy rõ được đâu là điều cần thiết nhất (10:42). Chúng ta cũng khám phá được tất cả đoạn Tin
Mừng ấy là để trả lời câu hỏi của nhà thông luật “... vậy tôi phải làm gì để
được sống đời đời?” (10:25). Vậy kết
thúc những câu truyện này với một giáo huấn về cầu nguyện, Lu-ca muốn móc nối
tất cả đoạn Tin Mừng ấy với nhau bằng cách cho thấy cầu nguyện là cốt lõi để được
sống đời đời.
Lu-ca quan tâm tới hai vấn đề
của thời đại ngài: (1) làm sao chống lại
những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài cộng đoàn, và (2) làm sao chống lại những ảnh
hưởng xấu ngay bên trong cộng đoàn. Những
ảnh hưởng từ bên ngoài thường đến từ những nỗ lực cám dỗ của Xa-tan. Trong thời Lu-ca, sợ bị bách hại và đau khổ
đã làm cho một số người từ bỏ đức tin.
Thực vậy, tình trạng trầm trọng hơn chính là tâm hồn bất an trong cộng
đoàn. Lu-ca tuy đặt vấn đề sự sống đời
đời qua miệng nhà thông luật, nhưng có thể ngài đang hỏi cộng đoàn ngài cùng
một câu hỏi đó. Có lẽ cũng như cô
Mác-ta, họ đã quên mất điều duy nhất cần phải làm. Cho nên khi muốn cộng đoàn ngài trả lời câu
hỏi ấy, Lu-ca cũng muốn mọi tín hữu phải trả lời câu hỏi phải làm gì để được
sống đời đời.
Cha Eugene LaVerdiere, học giả
Kinh Thánh nổi tiếng, cho chúng ta một kỹ thuật giản dị giúp học hỏi một đoạn
Kinh Thánh để khám phá ra (những) vấn đề cộng đoàn có thể xảy ra vào thời
ấy. Ngài xin các học viên hãy tìm hiểu đoạn
Kinh Thánh bằng cách trả lời năm câu hỏi căn bản: ai, điều gì, khi nào, ở đâu và tại sao. Trả lời những câu hỏi căn bản này giúp chúng
ta có cái nhìn về những vấn đề của cộng đoàn.
Quan trọng hơn, những câu trả lời giúp chúng ta nhận định được tâm điểm
của sứ điệp và sự phong phú của đoạn Kinh Thánh.
Bạn hãy đọc Lu-ca 11:1-13.
Bạn đọc lại Lu-ca 11:1-2.
Trong khoảng trống dưới đây, bạn hãy trả lời ai, điều gì,
khi nào, ở đâu và tại sao. Khi trả lời
những câu hỏi ấy, bạn hãy chú ý đến ai có vấn đề, vấn đề là gì, tại
sao có vấn đề. Bạn nhớ là có nhiều
câu trả lời khác nhau đấy.
Ai có
vấn đề?
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Vấn đề là gì?
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Khi nào vấn
đề ấy xảy ra? (Thời gian)
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Vấn đề đó xảy ra ở đâu?
(Khung cảnh)
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Tại sao có
vấn đề ấy?
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Chúng ta hãy so sánh những câu
trả lời cho những câu hỏi căn bản.
Ai: một trong
các môn đệ.
Điều gì: Môn
đệ ấy không biết cầu nguyện như thế nào.
Khi nào: “Có
một lần...” (11:1). Điều này được hiểu
là ngày nào đó hoặc mỗi ngày.
Ở đâu: “...ở
nơi kia” (11:1). Được hiểu là ở bất cứ
nơi nào.
Tại sao: Các
môn đệ muốn làm những môn đệ đích thực giống như các môn đệ ông Gio-an.
Sử dụng những câu trả lời cho
năm câu hỏi trên, bạn hãy viết xuống một câu tóm tắt lại vấn đề của cộng đoàn.
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Để tóm tắt, các môn đệ muốn
trở thành những người cầu nguyện để được làm môn đệ đích thực của Chúa.
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Một kỹ thuật khác được sử dụng
để khám phá vấn đề, đó là kê ra một chuỗi những biến cố kế tiếp nhau trong đoạn
Kinh Thánh.
Bạn hãy đọc lại Lu-ca 11:1-2. Kể ra dưới đây những biến cố liên tiếp nhau.
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Đọc lại đoạn Lu-ca 11:1-2, tôi
đã khám phá những biến cố liên tiếp sau đây.
Bạn hãy viết xuống những ý
tưởng hoặc suy tư bạn có được sau khi dùng hai kỹ thuật trên, tức là hỏi những
câu hỏi căn bản và kê ra những biến cố liên tiếp. Trong khi suy nghĩ, bạn hãy tiếp tục hỏi câu
hỏi này: Tất cả những điều này có ý
nghĩa gì? (Thí dụ: Có lần Đức Giê-su cầu nguyện ở một nơi kia
nghĩa là gì?)
Sau đây là những ý tưởng và
suy tư tôi có được sau khi suy nghĩ.
Người môn đệ muốn tìm một giải đáp cho vấn đề của ông nên
xin Chúa dạy ông cầu nguyện. Ông ta chỉ
đi tìm câu trả lời sau khi quan sát Chúa cầu nguyện. Từ đấy, người môn đệ nhìn Chúa cầu nguyện với
lòng tôn kính, cho nên ông chỉ đặt câu hỏi sau khi Chúa đã cầu nguyện
xong. Cá nhân được mô tả là một môn đệ
đã thay mặt cho toàn thể các môn đệ.
Ngay đến câu trả lời Đức Giê-su nói với người ấy cũng được viết là: “Ngài nói với ‘họ’...” (11:2). Là môn đệ, chúng ta nhớ đến Lu-ca đã nhấn
mạnh rằng Chúa Giê-su là một người cầu nguyện.
Bạn gặp điều này trong những đoạn:
5:16; 6:12; 9:19; 10:21-22.
Trả lời những câu hỏi về thời gian (khi nào) và nơi chốn (ở
đâu) cho thấy cầu nguyện là chính yếu trong mọi lúc và có thể làm tại bất cứ
nơi nào. Nói một cách đơn giản, cầu
nguyện là cầu nguyện hằng ngày. Ngay
trước khi dạy cho các môn đệ những lời cầu nguyện, Chúa đã dạy họ cầu
nguyện như thế nào rồi. Là thầy
dạy tuyệt vời, Chúa dạy bằng cách làm gương.
Các môn đệ xưng hô với Ngài là “Chúa”, điều này khó giải
thích. Ở đây không phải Đức Giê-su là
người được nói đến, vì nếu như vậy thì đó phải là nhân vật lịch sử đang sống
trong một thời gian và không gian riêng biệt.
Bạn hãy nhớ những trình thuật Tin Mừng không phải là những nét tiểu sử
về cuộc đời Đức Giê-su. Nhưng Tin Mừng
là một trình thuật đức tin vào Đức Ki-tô, được đem chia sẻ với các tín hữu để
mọi người nhận biết Đức Giê-su là Chúa.
Thời gian, nơi chốn, khung cảnh và những lời lẽ có tầm quan trọng hơn cả
những dữ kiện lịch sử, cho nên cần phải cứu xét theo ý nghĩa mặc khải về Thiên
Chúa qua Chúa Phục sinh. Do đó, danh
hiệu Chúa được sử dụng ở đây cho Đấng Cứu Thế Phục sinh, Đấng không còn
lệ thuộc thời gian với không gian và đã chiến thắng tội lỗi cùng sự chết. Vậy Đấng đang dạy cầu nguyện ở đây chính là
Chúa, Chúa Phục sinh.
Trả lời tại sao phải cầu nguyện cho thấy là vì người
môn đệ ước muốn là một môn đệ đích thực.
Nếu Chúa cầu nguyện thì các môn đệ Người cũng phải cầu nguyện. Tuy nhiên, việc cầu nguyện này khác với việc
cầu nguyện của ông Gio-an Tẩy giả vì ông Gio-an không phải là Chúa. Trong một chiều kích sâu xa hơn, lý do tại
sao phải cầu nguyện sẽ tiếp tục được Lu-ca trình bày vì ngài luôn liên kết
cầu nguyện với việc Chúa Thánh Thần đến.
Chúa Thánh Thần sẽ hiện đến đang lúc môn đệ cầu nguyện và chuẩn bị môn
đệ thi hành sứ vụ.
Bạn hãy đọc Lu-ca 11:3-4.
Những lời lẽ trong kinh Lạy Cha có thể chia làm hai phần
chính: ý thức Thiên Chúa là Cha và những
điều xin khi cầu nguyện.
Phần thứ nhất không phải Đức Giê-su là người đầu tiên đã
dạy. Chính người Ít-ra-en đã nhận biết
Thiên Chúa là Cha rồi.
Bạn hãy đọc Huấn ca 23:1-4.
Mặc dù không phải Đức Giê-su đã dạy, nhưng việc gọi Thiên
Chúa là Cha lại nói lên một quan hệ sâu đậm giữa Chúa Cha với Đức Giê-su. Lu-ca đã nhắc đến quan hệ này trong những
đoạn trước đây. Chúng ta cần phải lấy
những đoạn này làm căn bản để hiểu được mối quan hệ giữa Đức Giê-su và Chúa
Cha.
Bạn hãy đọc Lu-ca 3:21-22.
Trong đoạn này, Chúa Cha gọi Đức Giê-su là Con yêu dấu của
Người. Chính Con yêu dấu của Người giờ
đây được đầy tràn Thần Khí và làm đẹp lòng Người.
Chúng ta phải suy tư về ý
nghĩa của từ cha để hoàn tất việc học hỏi về Thiên Chúa là Cha. Suy tư này không thể chú trọng đến ý nghĩa là
người cha theo huyết nhục, nhưng là một từ không bao hàm quan hệ với riêng cá
nhân nào. Điều này gọi là sự biến đổi
ý thức (transformation of consciousness), tức là thay đổi cái nhìn. Thay vì nhìn người cha để xác định
người cha là gì thì sự biến đổi ý thức lại đòi phải nhìn theo cái nhìn của
người cha. Nói khác đi, một người làm
cha thì có nghĩa là gì?
Sử dụng lối biến đổi ý thức, bạn hãy kể ra ba tới năm đặc
tính của việc làm cha.
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
...........................................................................................................
Tôi đã kê ra dưới đây những
đặc tính về việc làm cha:
Bạn hãy đọc Lu-ca 11:11.
Lu-ca đã cho chúng ta một sự biến đổi ý thức khi nói đến
một điểm từ cái nhìn của người cha. Theo
một ý nghĩa nào đó, Lu-ca đặt câu hỏi:
Là một người cha, tôi phải đáp ứng những nhu cầu của con cái tôi như thế
nào? Và câu trả lời của ngài: Người cha đáp ứng bằng cách làm một người sẽ
cho con cái những gì chúng xin.
Khi gọi Thiên Chúa là Cha, Chúa Giê-su đã hiểu sự biến đổi
ý thức này. Ngài mời gọi các môn đệ hãy
gọi Thiên Chúa là Cha, vì như thế sẽ kết hiệp người môn đệ với Thiên Chúa và
Đức Ki-tô. Qua sự kết hiệp này, người
môn đệ ý thức được rằng mọi người đều có Thiên Chúa là Cha; cho nên mọi người là anh chị em với nhau.
Ngay sau lời xưng hô Thiên
Chúa là Cha là lời “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển...” (11:2). Mặc dù danh Thiên Chúa đã là thánh (được vinh
hiển) nhưng vẫn chưa được vinh hiển. Cựu
Ước cho biết danh Thiên Chúa là “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xuất Hành 3:14). Tuy nhiên, các tác giả Kinh Thánh Cựu Ước vì
kính sợ Thiên Chúa nên đã không sử dụng danh Thiên Chúa và bắt đầu xưng hô về
Thiên Chúa bằng danh hiệu, tức là Đức Chúa.
Họ ý thức rằng thực sự biết Thiên Chúa qua danh thánh của Người là điều
vượt quá khả năng loài người. Tất cả
những gì họ biết, đó là Thiên Chúa là Đấng tột cùng thánh thiện và danh Người
là thánh.
Phần thứ hai của kinh Lạy Cha
gồm có bốn lời cầu xin. Lời cầu thứ nhất
là để Triều Đại Thiên Chúa mau đến. Đây
chính là sứ mệnh của Đức Ki-tô: giúp cho
Nước Trời được thể hiện, tức là đem đến sự hiện diện cứu rỗi của Thiên Chúa. Lu-ca cho thấy Đức Giê-su đã loan báo điều
này khi Ngài bảo “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy
tai nghe: người mù được thấy, kẻ què
được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo
được nghe tin mừng” (Lu-ca 7:22). Khi
dạy các môn đệ xin điều này khi cầu nguyện, Đức Giê-su dạy họ phải làm những
thừa tác viên để xây dựng Triều Đại Thiên Chúa.
Lời cầu thứ hai, xin được
“ngày nào có lương thực ngày ấy”, là về một bữa ăn. Bánh là thứ chủ yếu cho việc nuôi sống. Người môn đệ được dạy hãy xin sự trợ giúp
hằng ngày, tức là mọi sự cần thiết cho cả thể xác lẫn tinh thần, để hô tiếp tục
làm công việc của Chúa Cha. Lời cầu thứ
nhất đã cho chúng ta biết công việc của Chúa Cha là về Triều Đại của Người.
Trong các Hành trình trước,
chúng ta đã khám phá ông Phê-rô đáp trả lời gọi của Đức Ki-tô bằng cách thú
nhận mình tội lỗi. Vậy nhu cầu được tha
thứ là nhu cầu số một của mọi người môn đệ.
Cũng như Chúa Cha tha thứ cho người môn đệ để đáp lại lời cầu của họ,
thì chính người môn đệ cũng phải rập theo hành động ấy mà tha thứ cho người
khác.
Lời cầu sau hết là ý thức rằng
cuộc hành trình đến với Thiên Chúa là hành trình tiến đến sự thật. Giống như Đức Ki-tô đã bị cám dỗ tránh khỏi
sự thật thì người môn đệ cũng bị cám dỗ như vậy. Lời cầu cuối cùng này xin Thiên Chúa giúp
chúng ta chống lại sự dữ.
Bạn hãy đọc Lu-ca 11:5-13.
Lu-ca kết thúc bài học cầu nguyện với lời truyền dạy phải
kiên trì. Lòng kiên trì này sẽ “... cho
người ấy (chúng ta) tất cả những gì anh (chúng ta) cần” (11:8). Cho không phải là cho những gì chúng ta nghĩ
là cần, nhưng những gì chúng ta thực sự cần để hướng dẫn cuộc sống Ki-tô trong
hành trình đến với Thiên Chúa. Việc cho
này được thực hiện qua Chúa Thánh Thần (11:13b). Ở đây Lu-ca lập lại chủ đề cầu nguyện dẫn đến
việc Thánh Thần đến giúp chúng ta thi hành sứ vụ.
Học hỏi như trên, chúng ta có thể kết luận rằng cầu nguyện
trong kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện để được làm môn đệ. Là môn đệ, qua Thánh Thần chúng ta cầu xin
Chúa Cha giúp chúng ta hằng ngày sống lời gọi của đời sống i-tô hữu.
Trong Hành trình 8, bạn đã
khám phá những điều sau đây:
LaVerdiere, Eugene. When We Pray: Meditations on the Lord’s Prayer.
Notre Dame,
Ind.: Ave Maria Press, 1983.
Merton, Thomas. Our Father: Perfect Prayer, Audiocassette.
Kansas City,
Mo.: Credence Cassettes, 1989.