Tìm hiểu Mt 23,1-12:
“Lời nói và việc làm” – “gương sáng và gương mù”
Bản văn Mt 13,1-12 (NPD/CGKPV)
1 Bấy giờ, Đức
Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng:
2 "Các kinh
sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy.
3 Vậy, tất cả
những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có
làm theo, vì họ nói mà không làm.
4 Họ bó những
gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón
tay vào.
5 Họ làm mọi việc
cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những
tua áo thật dài.
6 Họ ưa ngồi cỗ
nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường,
7 ưa được người
ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi".
8 "Phần anh
em, thì đừng để ai gọi mình là "ráp-bi", vì anh em chỉ có một Thầy;
còn tất cả anh em đều là anh em với nhau.
9 Anh em cũng
đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha
trên trời.
10 Anh em cũng
đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức
Ki-tô.
11 Trong anh em,
người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.
12 Ai tôn mình
lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
Tìm hiểu Mt
13,1-12
Nội dung
1. Tóm lược ý chính
đoạn văn Mt 13,1-12
2. “Nói” và “làm”
3. “Gương sáng”
và “gương mù”
4. Kết luận
1. Tóm lược ý
chính đoạn văn Mt 13,1-12
Bài Tin Mừng Mt
13,1-12 gồm hai phần. Phần đầu nói về việc các kinh sư và những người
Pha-ri-sêu “nói” mà không “làm”. Tuy vậy, Đức Giê-su dặn dân chúng và các môn
đệ là đừng “làm theo” những gì “họ làm” nhưng “hãy làm” và “hãy giữ” những gì
“họ dạy” theo luật Mô-sê (13,2-4). Tiếp đến Đức Giê-su làm lộ ra sự thật bên
trong của những gì xem ra tốt đẹp bên ngoài: Đeo hộp kinh lớn, tua áo thật dài,
ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc và trong hội đường. Những điều này tự nó không
xấu. Nhưng khi Đức Giê-su có ý trách họ giả hình, Người đã làm lộ ra sự thật
trong lòng họ, sự thật này không thể thấy bằng mắt.
Phần thứ hai, Đức
Giê-su dựa trên những gì các kinh sư và những người Pha-ri-sêu đã làm để giáo
huấn về cách sống của người môn đệ trong tương quan với quyền bính. Trong ý
hướng thần học và tâm linh, người môn đệ của Đức Giê-su chỉ có một Cha là Thiên
Chúa, chỉ có một Thầy là Đức Giê-su, chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Ki-tô, còn
tất cả là anh em với nhau. Điểm giáo huấn này có ý nghĩa nền tảng cho đời sống
của người tin trong tương quan với Thiên Chúa. Cho dù theo văn hoá khác nhau và
với các chức vụ khác nhau trong xã hội, chúng ta gọi nhau bằng danh xưng nào đi
nữa (gọi người khác là thầy, là cha, là ông…) thì giáo huấn của Đức Giê-su vẫn
luôn có giá trị. Người mời gọi chúng ta thiết lập tương quan sâu xa trong niềm
tin với Thiên Chúa là Cha duy nhất, với Đức Giê-su là vị Thầy, vị lãnh đạo, vị
mục tử duy nhất, và với nhau. Trên nền tảng đức tin và lòng mến, tất cả chúng
ta là anh em với nhau, là con cùng một Cha trên trời.
Kết thúc bài tin
mừng Đức Giê-su dùng hình ảnh đối lập: “người làm lớn” – “người phục vụ”, “kẻ
tôn mình lên” – “kẻ hạ mình xuống”. Đây là kiểu nói đối lập để làm nổi bật tinh
thần sống của người môn đệ. Không nên áp dụng cách ngây thơ theo nghĩa: “Phục
vụ để được làm lớn”, hay “hạ mình để được nâng lên”. Nếu áp dụng như thế, chúng
ta không khác gì các kinh sư và những người Pha-ri-sêu. Tuy phương tiện khác
nhưng mục đích lại giống họ: Thích được làm lớn và thích ngồi chỗ nhất. Có lẽ
nên hiểu là, qua kiểu nói trên, Đức Giê-su muốn các môn đệ sống đúng vị trí của
mình trong tương quan mới mẻ với Thiên Chúa, với Đức Giê-su và với nhau. Trong
đời sống mới, người tin được mời gọi noi gương Đức Giê-su: Phục vụ và hạ mình
đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá vì yêu thương.
Qua những ý tưởng
trên của bài Tin Mừng xin chia sẻ hai ý tưởng: 1) “Nói” và “làm”, 2) “Gương
sáng” và “gương mù”.
2. “Nói” và “làm”
Chúng ta thường
nghe nói: “Nói” phải đi đôi với “làm”. Chỉ những ai làm theo những gì mình nói,
lúc đó chúng ta mới nghe theo lời dạy bảo của Người ấy. Lý tưởng là như thế,
nhưng trong Mt 13,2-3, Đức Giê-su đi xa hơn một bước. Người phân biệt giữa
“nói” và “làm”. Không cần chờ đến “nói” và “làm” ăn khớp với nhau mới nghe theo
sự chỉ dạy của người khác. Sự phân biệt giữa “nói” và “làm” đòi hỏi sự sáng
suốt và biết cách lượng giá để không đồng hoá “lời nói” với “việc làm”. Cũng
không vội kết luận rằng: Người nói sống chưa tốt (trường hợp các kinh sư và
những người Pha-ri-sêu), thì tất cả những gì họ nói và giảng dạy đều không có
giá trị, không đáng để được lắng nghe và thực hành. Ngược lại, Đức Giê-su mời
gọi dân chúng, các môn đệ và độc giả biết phân biệt giữa “lời nói đúng” và “lời
nói sai”, phân biệt giữa “việc làm đúng” và “việc làm sai”.
Theo giáo huấn
của Đức Giê-su: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà
giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc
họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3). Đây là
trường hợp “nói đúng” - “làm sai”. “Nói đúng” nên vẫn phải lắng nghe và tuân
giữ. Đức Giê-su nhấn mạnh bằng hai động từ “làm” (poieô) và “giữ” (têreô), còn
động từ “nghe” (akouô) không nói đến. Bởi vì, có thể “nghe” mà không “làm” và
không “giữ”. Nhưng nếu đã “làm” và “giữ” thì chắc chắn là có nghe và hiểu để
biết phải làm gì và giữ điều gì. Ngược lại, Đức Giê-su cũng muốn mọi người nhận
ra việc “làm sai” để “không làm” (poieô) theo những điều sai ấy.
Như thế, Đức
Giê-su dạy dân chúng, các môn đệ và độc giả hai điều: (1) “Làm” và “giữ” những
gì người khác “nói đúng”, (2) “Không làm”, “không noi theo” những gì người khác
“làm sai”. Ở cấp độ cao hơn, Đức Giê-su mời gọi thính giả nhận ra sự thật phía
sau lời nói và hành động để xác định: “nói đúng” hay “nói sai”, “làm đúng” hay
“làm sai” để từ đó có cách ứng xử thích hợp.
Trong thực tế,
không hề đơn giản để biết được điều này. Có thể xảy ra trường hợp “nói đúng”
hay “làm đúng” mà dư luận lại lầm tưởng là “nói sai” hay “làm sai”. Các kinh sư
và những người Pha-ri-sêu “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật
dài” (Mt 13,5) có thể được dân chúng đánh giá là đạo đức và yêu mến Lời Chúa.
Ngược lại, việc Đức Giê-su ăn uống với những người thu thuế và những kẻ tội
lỗi” (Mt 9,10) lại bị những người Pha-ri-sêu cho là “làm sai”, “làm điều chướng”.
Nhiều lúc chúng
ta vẫn chờ đến lúc “lời nói” và “việc làm” của người giảng dạy phải ăn khớp với
nhau thì mới nghe. Nhưng xét cho cùng, giữa “nói” và “làm” luôn có một khoảng
cách. Trường hợp các kinh sư và những người Pha-ri-sêu là “nói” và “làm” không
ăn khớp nhau. Nhưng cũng có trường hợp “biết đúng”, “nói đúng” và “ước ao làm
đúng” nhưng vì con người yếu đuối nên vẫn chưa làm được, nghĩa là “việc làm”
vẫn chưa ăn khớp với “lời nói”. Nếu chờ đến lúc “lời nói” và “việc làm” hoàn
toàn ăn khớp với nhau mới “nghe theo” thì e rằng chờ cả đời cũng chưa học hỏi
được gì, chỉ vì không thể xoá bỏ khoảng cách giữa “lời nói” và “việc làm”, giữa
“ước mơ” và “hiện thực”, giữa “lý thuyết” và “thực hành”.
Giáo huấn của Đức
Giê-su sâu xa và mang tính thực tiễn. Điều quan trọng là lượng giá để biết điều
gì tốt, điều gì không tốt, đều gì đúng và điều gì sai. Phân biệt lời nào là
“lời nói đúng”, lời nào là “lời nói sai”, phân biệt giữa “việc làm đúng” và
“việc làm sai”. Khả năng biện phân này giúp chúng ta có thể học hỏi được rất
nhiều điều mà không vội đánh giá hay xét đoán người khác. “Đúng” hay “sai” cũng
có thể học hỏi. “Nói đúng”, “làm đúng” thì học để theo, “nói sai”, “làm sai”
thì học để tránh. Tuy nhiên, việc xác định “đúng”, “sai” trong cuộc sống là
điều phức tạp và tế nhị, cần uyển chuyển, sáng suốt và luôn luôn nhận định lại
theo từng thời điểm. Bởi vì mọi thực lại luôn chuyển biến theo thời gian.
Bài Tin Mừng Mt
23,1-12 có nhiều điều để học hỏi: “học để theo” và “học để tránh”: Học hỏi để
cố gắng làm cho “lời nói” đi đôi với “việc làm” bao nhiêu có thể được; học để
tránh sự khoe khoang và ham hố quyền cao chức trọng; học để biết sống với nhau
như là anh em, phục vụ và nâng đỡ nhau. Học để bước vào tương quan với Thiên
Chúa là Cha, học để bước vào tương quan với Đức Giê-su là vị Thầy duy nhất có
khả năng đem lại sự sống đời đời cho người tin.
Bản văn mời gọi
độc giả học để “biết cách nghe”, “biết cách nhìn”, “biết nhận định” về sự phức
tạp của cái gọi là “gương sáng” (làm đúng) và “gương mù” (làm sai).
3. “Gương sáng”
và “gương mù”
Thường thì có hai
loại gương: “Gương sáng” và “gương mù”, “gương xấu”. Theo nghĩa thông thường
“gương sáng” chỉ những việc tốt đẹp để mọi người thấy mà noi theo. Còn “gương
mù” là những việc thiên hạ thấy nhưng là những điều không tốt và trở thành
gương xấu cho người khác.
Đoạn Tin Mừng Mt
13,1-12 cho thấy vấn đề không đơn giản như vậy. Có những tấm gương bên ngoài
xem ra là “gương sáng” nhưng thực sự lại là “gương mù”. Những điều các kinh sư
và những người Pha-ri-sêu làm có thể được nhiều người coi là “gương sáng”. Họ
đang làm những việc đáng quý, đáng trọng và dân chúng nghĩ là nên làm theo: Đeo
hộp kinh, mang tua áo. Họ được người thời đó kính trọng và ngưỡng mộ, nên họ có
chỗ danh dự trong đám tiệc và hàng ghế đầu trong hội đường (Mt 13,6).
Những điều mà
thiên hạ cho là quý trọng ấy thì Đức Giê-su đã làm lộ ra sự thật trong lòng họ.
Thực chất ẩn dấu bên trong bằng một hình thức tốt đẹp bên ngoài. Sự không ăn
khớp giữa “ý hướng bên trong” và “việc làm bên ngoài” đã làm cho những công
việc “tốt đẹp” ấy trở thành giả hình. Vì họ làm là cốt để cho thiên hạ thấy, để
mình được thiên hạ kính trọng (Mt 13,5). Họ thực hành việc đạo đức để tìm hư
danh chứ không vì lòng yêu mến và tôn kính Thiên Chúa. Như thế, những việc họ
làm thực sự là những tấm gương mù. Gương mù bởi sự “trống rỗng” bên trong đối
với Thiên Chúa nhưng lại “đầy dẫy” tham vọng hư danh.
Trình thuật Tin
Mừng cho thấy: Để phân biệt đâu là gương sáng đâu là gương mù là điều không đơn
giản. Chỉ Đức Giê-su, Đấng biết mọi sự, mới có thể làm lộ ra sự thật bên trong
của những hành động xem ra tốt đẹp bên ngoài. Qua đó Người dặn dò đám đông, các
môn đệ và độc giả cần thận trọng trong việc nhận định hành động nào là “gương
sáng”, việc làm nào là “gương mù”.
Trong thực tế,
vấn đề phân biệt như trên là rất tế nhị. Có những hành động được xem là gương
mù trước mắt thiên hạ, nhưng thực sự lại là gương sáng. Trở lại câu chuyện Đức
Giê-su ăn uống với người tội lỗi (Mt 9,10), hành động này nhìn từ phía những
người Pha-ri-sêu là gương mù, gương xấu. Vì theo đánh giá của họ, một bậc thầy
mà ăn uống với người tội lỗi là không thể nhấp nhận. Bức xúc trước việc chướng
tai gai mắt đó, họ đã hỏi các môn đệ của Đức Giê-su: “Sao Thầy các anh lại ăn
uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” (9,11)
Ngược lại, đối
với các môn đệ và người tin, việc Đức Giê-su ăn uống với những người thu thuế
và tội lỗi lại là một “gương sáng”. “Gương sáng” không phải ở trong việc ăn
uống với người tội lỗi nhưng là hệ tại ở lòng thương xót của Đức Giê-su đối với
họ. Nếu như “người khoẻ không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (9,12),
thì việc đến với người tội lỗi là sứ mạng của Đức Giê-su và cũng là sứ mạng của
các môn đệ và của người tin qua mọi thời đại. Như thế, điều làm cho một hành
động trở thành “gương sáng” thực sự là “gương sáng” không phải là những cái bên
ngoài có thể thấy được, mà là động lực và ý hướng bên trong không thấy được
bằng mắt. Như thế, có trường hợp một “tấm gương” có thể đối với người này là
“sáng”, nhưng đối với người khác lại là “mù”. Việc Đức Giê-su đến với người tội
lỗi là “gương sáng” cho các môn đệ nhưng lại là “gương mù” đối với những người
Pha-ri-sêu.
Hơn nữa, trước
một hành động người ta có thể chỉ lượng giá theo khía cạnh tiêu cực của nó. Đức
Giê-su đã ở trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan. Người nói: “Ông Gio-an đến,
không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: ‘Ông ấy bị quỷ ám.’ Con Người đến, cũng
ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân
thu thuế và phường tội lỗi’” (Mt 11,18-19a). Rồi Đức Giê-su kết luận: “Nhưng
Đức Khôn Ngoan đã được nhìn nhận là đúng qua hành động” (Mt 11,19b). Vì thế,
cần xác tín ơn gọi và công việc của mình, dùng trí khôn Chúa ban và dựa trên
giáo huấn của Đức Giê-su để có thể lượng giá đúng theo sự thật.
4. Kết luận
Sự thống nhất
giữa “lời nói” và “việc làm” là điều mọi người đều mong ước và người có lương
tri sẽ cố gắng suốt cả đời để thực hiện điều đó. Điểm độc đáo trong bài Tin
Mừng là Đức Giê-su mời gọi dân chúng, các môn đệ và độc giả phân biệt giữa
“nói” và “làm”. Điều quan trọng là lượng giá những động lực sâu xa của việc làm
và của lời nói theo giáo huấn của Đức Giê-su. Nhờ tìm hiểu và học hỏi Tin Mừng,
chúng ta có thể phần nào phân biệt được đúng hay sai trong lời nói và trong việc
làm theo tinh thần của Tin Mừng để học hỏi. “Nói đúng” hay “làm đúng” thì học
để làm theo và tuân giữ, “nói sai” hay “làm sai” thì học để tránh.
Trong cuộc sống
thường ngày, phân biệt đâu là “gương sáng”, đâu là “gương mù” là rất khó. Điều
quan trọng là động lực bên trong của hành động có phù hợp với Tin Mừng hay
không. Đời sống xã hội và cộng đoàn cần có những tấm gương sáng, nhưng không
phải “làm gương” chỉ là để “làm gương”, chỉ để trở thành “những tấm gương” mà
tác dụng của nó có thể là “gương sáng” đối với người này nhưng lại là “gương
mù” đối với kẻ khác.
Có lẽ không nên
quá đề cao việc “làm gương”, vì tự nó dị nghĩa, mà tập trung vào điều quan
trọng và sâu xa hơn. Đó là “làm chứng” cho Tin Mừng, “làm chứng” về tình yêu và
lòng thương xót của Thiên Chúa với sự xác tín bên trong và cách thể hiện riêng
của mình, đồng thời tôn trọng sự xác tín bên trong và cách thể hiện ra bên
ngoài của người khác./.
Ngày 22 tháng 03
năm 2011
Giu-se Lê Minh
Thông, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
- email: josleminhthong@gmail.com