Bản văn Mt
5,43-48 (NPD/CGKPV)
Đức Giê-su nói
với các môn đệ: 43 “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu người thân cận và hãy
ghét kẻ thù. 44 Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho
những kẻ ngược đãi anh em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha
anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ
xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất
chính. 46 Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công
chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? 47 Nếu anh em chỉ
chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người
ngoại cũng chẳng làm như thế sao? 48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh
em trên trời là Đấng hoàn thiện.”
Dẫn nhập
Có người tự hỏi:
Làm thế nào có thể “yêu kẻ thù” là người đã gây ra tai hoạ cho mình và cho
người khác? Hơn nữa, yêu thương những người ruột thịt của mình đã là khó, làm
sao có thể “yêu kẻ thù” được? Điều này đúng khi đứng trên bình diện trần thế.
Trong khi đó, lời dạy “yêu kẻ thù” trong Mt 5,44 được đặt trên bình diện lòng
tin. “Yêu kẻ thù” vừa là lời dạy của Đức Giê-su, vừa là cách thể hiện mình là
môn đệ, vừa là điều kiện để trở nên con cái của Cha trên trời, bằng cách hoạ
lại tình thương của Người.
Có thể nói, Đức
Giê-su không thể đòi buộc các môn đệ điều mà họ không có khả năng thực hiện. Ở
đây sự “thực hiện” cần hiểu trong mạch văn. Chẳng hạn, đã là con người thì làm
sao có thể hoàn thiện như Cha trên trời được? Tại sao Đức Giê-su lại nói: “Vậy
anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt
5,48). Câu này muốn nói với các môn đệ điều gì? Điều quan trọng trong câu này
là “TRỞ NÊN HOÀN THIỆN NHƯ…”, chứ không phải là “HOÀN THIỆN NHƯ…” Có thể ý của
mạch văn là Đức Giê-su mở ra một con đường, một hướng đi, một cách sống để các
môn đệ bước đi, tiến về phía Đức Giê-su đã mở ra. Dù biết rằng suốt cả đời mình
vẫn không thực hiện được trọn vẹn lời mời gọi đó, tuy vậy, người môn đệ vẫn
bước đi vì đó là con đường dẫn đến sự sống đích thực.
Bài viết này sẽ
đặt đề tài “yêu kẻ thù” trong bối cảnh Tin Mừng Mát-thêu để tìm hiểu ý nghĩa
giáo huấn của Đức Giê-su qua các mục sau:
1. Luật “yêu
người thân cận và ghét kẻ thù”
2. “Yêu” và
“ghét” trong Tin Mừng Nhất Lãm
3. “Kẻ thù” là ai?
a. “Kẻ thù”
(ekhthros) có thể là người nhà
b. “Kẻ thù”
(ekhthros) là quân thù, quân đối nghịch
c. “Kẻ thù” (ekhthros) là quỷ
4. “Yêu kẻ thù” là yêu ai?
a. Yêu thương kẻ chống lại niềm tin của mình
b. Yêu thương kẻ thù nghịch vì xung đột quyền lợi
5. “Yêu kẻ thù” là yêu như thế nào?
a. “Yêu kẻ thù” là yêu người người thân cận
b. “Yêu kẻ thù” là hoạ lại tình yêu của Cha trên trời
c. “Yêu kẻ thù” là
tin tình yêu sẽ
chiến thắng hận thù
d. “Yêu kẻ thù” là cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình
e. “Yêu kẻ thù” là hành động đức tin
Kết luận
1. Luật “yêu người thân cận và ghét
kẻ thù”
Mt 5,43-48 là một
phần của bài giảng trên núi trong Tin Mừng Mát-thêu, từ chương 5 đến chương 7.
Nội dung Mt 5,43-48 nói lên điểm độc đáo trong giáo huấn của Đức Giê-su liên
quan đến tình yêu. Người nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu người thân
cận và hãy ghét kẻ thù” (5,43). Luật này có nguồn gốc ở đâu?
Sách Lê-vi dạy:
“Yêu người thân cận (plêsion) như chính mình” (Lv 19,18), còn vế thứ hai: “Ghét
kẻ thù” (Mt 5,43b) thì không thấy chỗ nào trong Kinh Thánh nói đến. Khi Đức
Giê-su nối kết “yêu người thân cận” và “ghét kẻ thù” (Mt 5,43), có thể Người
nhắc lại lời dạy truyền khẩu, chứ không được ghi trong Kinh Thánh. Trong tinh
thần Cựu Ước, lời dạy trên có thể hiểu là “Hãy yêu người thân cận (plêsion) còn
kẻ thù thì được miễn.”
Để tìm hiểu ý
nghĩa lời Đức Giê-su dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi
anh em” (Mt 5,44), cần bàn đến cách hiểu cặp từ “yêu” và “ghét” trong Tin Mừng
Nhất Lãm, trước khi tìm hiểu xem “kẻ thù là ai” trong Tin Mừng Mát-thêu.
2. “Yêu” và
“ghét” trong Tin Mừng Nhất Lãm
Trong cách suy nghĩ của người Do Thái, cặp động từ “yêu – ghét” có thể hiểu
theo nghĩa mạnh hay nghĩa giảm nhẹ. Tuỳ theo bối cảnh mạch văn, nghĩa mạnh của
“yêu” là yêu thương, “ghét” là thù ghét. Theo nghĩa mạnh thì “yêu” và “ghét”
đối lập với nhau. Nghĩa giảm nhẹ của cặp động từ “yêu – ghét” được hiểu: “ghét
là yêu ít hơn” và ngược lại, “yêu ít hơn là ghét”. Ví dụ hai câu song song Mt
10,37 và Lc 14,26 sau đây cho thấy nghĩa giảm nhẹ của cặp từ “yêu – ghét” trong
Tin Mừng Nhất Lãm:
Đức Giê-su nói với các môn đệ ở Mt 10,37: “Ai yêu (ho philôn) cha hay mẹ
hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu (ho philôn) con trai, con gái hơn
Thầy, thì không xứng với Thầy.” Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su nói: “Ai đến
với tôi mà không ghét (misei) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống
mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,26). Trong khi Mát-thêu
dùng động từ “thương mến, yêu mến” (phileô) để so sánh “tình yêu gia đình” và
“tình yêu dành cho Đức Giê-su” (yêu thương người thân hơn Đức Giê-su thì không
xứng với Người) thì Lu-ca lại dùng động từ “ghét” (miseô) để so sánh tương quan
giữa “người môn đệ với Đức Giê-su” và “người môn đệ với gia đình mình” (làm môn
đệ thì phải “ghét” người thân).
Song song giữa Mt 10,37 // Lc 14,26 cho phép hiểu động từ “ghét” (miseô) ở
Lc 14,26 theo nghĩa giảm nhẹ. “Ghét” nghĩa là “thương ít hơn”. Tình thương mà
Đức Giê-su so sánh ở đây được hiểu theo nghĩa thần học. Trở thành môn đệ Đức Giê-su
và tin vào Người là lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa ban tặng ở đời này và đời
sau. Vì thế, lựa chọn làm môn đệ Đức Giê-su được đặt lên trên tình cảm gia
đình. Xem phân tích đề tài “yêu – ghét” trong tập sách: Yêu
và ghét trong Tin Mừng Gio-an, phần II, mục: “Yêu (Mt 10,37) - ghét (Lc
14,26)”, tr.
239-243 và mục: “Cách hiểu Sê-mít về ‘yêu – ghét’”, tr.
266-271.
Với hai nghĩa của cặp động từ “yêu – ghét” như trên, có thể hiểu lời Đức
Giê-su ở Mt 5,43: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu người thân cận và hãy
ghét kẻ thù” theo cả hai nghĩa của động từ “ghét”. Theo nghĩa mạnh “ghét” là “thù
ghét” kẻ nghịch với mình đến mức muốn điều không tốt cho họ. Theo nghĩa nhẹ, có
thể hiểu: Yêu thương người thân cận, còn kẻ thù thì không thương. Nghĩa là “Hãy
yêu người thân cận còn kẻ thù thì được miễn” như đã nói ở trên.
Để “yêu kẻ thù” như Đức Giê-su dạy, cần trả lời câu hỏi: “Kẻ thù là ai?”
Theo nghĩa chữ, “kẻ thù” là kẻ đối nghịch, là kẻ muốn làm hại ta. Tuy nhiên,
quan sát cách dùng từ “kẻ thù” (ekhthros) trong Tin Mừng Mát-thêu sẽ giúp xác
định rõ hơn khuôn mặt của “kẻ thù”.
3. “Kẻ thù” là ai?
Trong đoạn văn Mt 5,43-48, từ “kẻ thù” (ekhthros) xuất hiện 2 lần
(5,43.44). Tiếng Hy Lạp “ekhthros” là tính từ dùng như danh từ. Tính từ “ekhthros” có nghĩa là “ghét”,
“thù nghịch”, nếu dùng như danh từ thì có nghĩa là “người ghét”, “kẻ thù
nghịch”, “kẻ thù”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, tính từ “kẻ thù” (ekhthros) xuất
hiện 7 lần, với ba nghĩa khác nhau.
a. “Kẻ thù” (ekhthros) có thể là người nhà
Đức Giê-su dạy các môn đệ ở Mt 10,34-36: “34 Anh em đừng tưởng Thầy đến đem
bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm
giáo. 35 Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái
với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. 36 Kẻ thù (ekhthroi) của mình chính là người
nhà.” Từ “ekhthros” (kẻ thù) ở đây hiểu là người không tin vào Đức Giê-su,
người chống lại các môn đệ, cho dù đó là người trong gia đình.
Lời Đức Giê-su ở Mt 10,34-36 xem ra nghịch với lời mời gọi sống yêu thương,
vì Người đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo (10,34), Người đến
để gây chia rẽ giữa con trai với cha… (10,35). Cần đặt lời này trong bối cảnh
mạch văn. Trong đoạn văn dài (Mt 10,17-39) Đức Giê-su báo trước những cuộc bách
hại sẽ xảy ra. Người nói với các môn đệ: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ
nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ”
(Mt 10,17).
Trong hoàn cảnh bị bách hại, người môn đệ được mời gọi can đảm làm chứng về
Đức Giê-su. Đây là lúc niềm tin có thể là nguyên nhân gây chia rẽ và xung đột
với người khác, ngay cả xung đột trong gia đình. Đức Giê-su nói: “21 Anh sẽ nộp
em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống
lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. 22 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người
thù ghét (miseô). Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt
10,21-22). Lời Đức Giê-su nói: “Kẻ thù (ekhthroi) của mình chính là người nhà”
(10,36) được đặt trong bối cảnh này. Như thế, theo Tin Mừng Mát-thêu, kẻ thù
(ekhthros) có thể là người trong gia đình, những người quanh ta, trong trường
hợp có sự xung đột về niềm tin.
b. “Kẻ thù” (ekhthros) là quân thù, quân đối nghịch
“Kẻ thù”
(ekhthros) là quân thù, quân đối nghịch trong các cuộc chiến. Đức Giê-su trích
lời vua Đa-vít trong Tv 110,1 ở Mt 22,44: “Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi:
bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù (ekhthrous), Cha sẽ đặt
dưới chân Con.”
“Kẻ thù” hay
“địch thù” (ekhthros) trong câu này hiểu là những dân “thù nghịch” với dân
Ít-ra-en. Từ “quân thù”, “thù nghịch” trong các cuộc chiến không hẳn là “thù
ghét”, vấn đề là tranh chấp quyền lợi. Khi vua Đa-vít mở mang bờ cõi, đem quân
đi đánh các dân lân cận, thì các dân ấy là “kẻ thù” của Ít-ra-en. Kẻ thù ở đây
hiểu là kẻ đối nghịch với mình, kẻ không về phe mình. Như thế, bên này là “kẻ
thù” của bên kia và ngược lại.
c. “Kẻ thù” (ekhthros) là quỷ
Trong dụ ngôn cỏ lùng (Mt 13,36-43), Đức Giê-su kể: “Nước Trời ví như
chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. 25 Khi mọi người đang ngủ,
thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất…” (Mt
13,24-25). Khi về nhà, các môn đệ xin Đức Giê-su giải thích dụ ngôn cỏ lùng.
Người nói với họ: “37 Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. 38 Ruộng là thế gian.
Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. 39 Kẻ thù
(ekhthros) đã gieo cỏ lùng là ma quỷ (diabolos)” (Mt 13,37-39a). Như thế, trong
dụ ngôn cỏ lùng, hình ảnh “kẻ thù” (ekhthros) được dùng để chỉ “quỷ”
(diabolos).
Tóm lại, Tin Mừng Mát-thêu dùng từ “kẻ thù” (ekhthros) với 3 nghĩa: 1) Kẻ
thù có thể là người nhà, khi họ không tin vào Đức Giê-su và chống lại các môn
đệ của Người. 2) Kẻ thù là những kẻ đối nghịch trong chiến tranh, không nhất
thiết là “thù ghét” và hai phe là “kẻ thù” của nhau. 3) “Kẻ thù” là “quỷ”
(diabolos).
4. “Yêu kẻ thù” là yêu ai?
Tin Mừng Mát-thêu dùng từ “kẻ thù” (ekhthros) để chỉ ba đối tượng như trên.
Tuy nhiên, theo mạch văn, lời dạy của Đức Giê-su: “Hãy yêu kẻ thù” chỉ áp dụng
cho con người. Nên “yêu kẻ thù” không có nghĩa là “yêu quỷ”. Vậy, “yêu kẻ thù”
là yêu loại “kẻ thù” thứ nhất (có thể là người trong nhà) và loại “kẻ thù” thứ
hai (địch thù).
a) Yêu thương những kẻ chống lại niềm tin
của mình
Theo nghĩa thứ nhất, kẻ thù có thể là người nhà hay người chung quanh ta,
họ xung đột với ta về lòng tin. Họ có thể ghét ta, khi ta tin vào Đức Giê-su.
Đối với những người này, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ không thù ghét họ,
mà vẫn dành tình thương cho họ. Biết đâu, vì một lý do nào đó, họ đã hiểu sai,
hiểu lầm về giáo huấn của Đức Giê-su.
b) Yêu thương những kẻ
thù nghịch vì xung đột quyền lợi
Theo nghĩa thứ hai, kẻ thù có thể là những kẻ đối nghịch với ta về quyền
lợi, đây là nguyên nhân các cuộc chiến tranh (hiểu theo nghĩa đen và nghĩa
bóng) và xung đột. Trong hoàn cảnh này, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ không
“ghét họ”, vì làm như thế là góp phần tạo ra “kẻ thù”. Người môn đệ có quyền tự
vệ chính đáng và đấu tranh cho sự công bằng, nhưng bằng con đường “yêu thương”.
Đây là cách ứng xử của Đức Giê-su trong sứ vụ công khai của Người. Người thẳng
thắn phê phán sự giả hình. Người không thoả hiệp với tội lỗi, nhưng yêu thương
tội nhân. Người đến để kêu gọi những người tội lỗi từ bỏ con đường tội lỗi để
được sống. Nhờ tình thương, sự tôn trọng và thẳng thắn đối thoại, người môn đệ
có thể làm cho con người hoán cải để cư xử với nhau bằng tình thương và sống
với nhau như là con cái của Cha trên trời.
Phân tích vắn tắt trên đây cho thấy Tin Mừng Mát-thêu cho phép xác định ai
là “kẻ thù” (ekhthros). Đức Giê-su mời gọi các môn đệ dùng tình thương để cư xử
với những kẻ nghịch với mình, dù đó là “kẻ thù” vì xung đột niềm tin hay “kẻ
thù” vì xung đột quyền lợi. Khi đã xác định đối tượng “kẻ thù” để yêu thương,
phần tiếp theo sẽ tìm hiểu cách thức yêu thương “kẻ thù”.
5. “Yêu kẻ thù” là yêu như thế nào?
Mỗi người có thể tìm ra cách thức riêng để sống điều Đức Giê-su dạy cho phù
hợp với khả năng và cá tính của mình. Ở đây xin trình bày một vài ý tưởng để
làm cho lời mời gọi “yêu kẻ thù” không phải là quá khó. Những định nghĩa về
“yêu kẻ thù” có thể giúp sống lời dạy của Đức Giê-su. Có thể nói “yêu kẻ thù”
là yêu thương người thân cận; là hoạ lại tình yêu của Cha trên trời; là xác tín tình yêu sẽ chiến thắng hận thù; là
cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình; và trên hết, “yêu kẻ thù” là hành động đức
tin.
a. “Yêu kẻ thù” là “yêu người người thân
cận”
Bài viết “Ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh” đã cho thấy chiều kích mở rộng của điều răn “yêu thương người thân cận” trong
Tân Ước. Theo truyền thống Cựu Ước, “yêu thương người thân cận” là yêu thương
những người thuộc về dân Ít-ra-en, dân ngoại không phải là người thân cận của
Ít-ra-en. Nhưng trong viễn cảnh giao ước mới, lời dạy của Đức Giê-su: “Hãy yêu
kẻ thù” có thể hiểu trong sự mở rộng định nghĩa “người thân cận” (plêsion) của
Cựu Ước. Thực vậy, Ki-tô giáo lấy lại “điều răn yêu thương người thân cận” trong
Cựu Ước và mở rộng khái niệm “người thân cận” ra đến toàn thể nhân loại. Đối với người môn đệ Đức Giê-su, yêu thương
người thân cận là yêu thương tất cả mọi người, không phân biệt màu da, chủng
tộc, tuổi tác, tôn giáo, kể cả kẻ thù và kẻ ngược đãi mình.
Giáo huấn của Đức Giê-su về “yêu kẻ thù” nằm trong viễn cảnh này. Vì kẻ thù
là con người, nên họ cũng là “người thân cận” theo định nghĩa của Đức Giê-su
(xem cách trả lời của Đức Giê-su về câu hỏi “Ai là người thân cận của tôi?”
trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc
10,30-35) ở mục II của bài viết: Ba
điều răn yêu thương trong Kinh Thánh).
b. “Yêu kẻ thù” là hoạ lại tình yêu của Cha
trên trời
“Yêu kẻ thù” ở Mt 5,44 là tình yêu theo khuôn mẫu tình yêu của Cha trên
trời, vì “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người
tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (5,45). Vì
thế, “yêu kẻ thù” không phải là chạy theo kẻ thù để nói “tôi yêu anh yêu chị”
mà là tôn trọng họ và tương quan với họ bằng lòng thương xót của Cha trên trời.
Đức Giê-su mời gọi các môn đệ đối xử với kẻ thù, kẻ làm hại mình, bằng tấm lòng
của Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa đối xử với những kẻ thù nghịch với
Người thế nào, thì các môn đệ cũng được mời gọi đối xử với “kẻ thù” của mình
như thế. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, Người không muốn người tội lỗi phải chết, phải hư
mất. Người nói qua ngôn sứ Ê-dê-ki-en như sau: “Quả thật, Ta không vui thích gì
về cái chết của kẻ phải chết. Vậy hãy trở lại và hãy sống” (Ed 18,32).
c. “Yêu kẻ thù” là tin tình yêu sẽ chiến
thắng hận thù
Vì yêu thương con người mà Thiên Chúa muốn con người được sống. Khi dạy các
môn đệ: “Hãy yêu kẻ thù”, Đức Giê-su muốn đề cao nguyên lý: Chỉ có yêu thương
và tha thứ mới giải thoát con người khỏi hận thù, chỉ có yêu thương mới đem lại
sự sống cho con người.
Chính Đức Giê-su đã thực hiện điều đó trên thập giá bằng cách cầu nguyện
cho những kẻ đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc
họ làm” (Lc 23,34). Lời cầu nguyện này là khuôn mẫu của “yêu kẻ thù”. Đến lượt
phó tế Tê-pha-nô, vị tử đạo tiên khởi của Hội Thánh, thánh nhân đã cầu nguyện
cho những kẻ ném đá mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60). Thái
độ thẳng thắng và đầy lòng thương xót của Tê-pha-nô đối với những kẻ làm hại mình,
như đã thuật lại trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 6–7),
là “yêu kẻ thù” theo lời Đức Giê-su dạy.
d. “Yêu kẻ thù” là “cầu nguyện cho kẻ ngược
đãi mình”
Trong bối cảnh cộng đoàn các môn đệ bị bách hại, lời mời gọi của Đức
Giê-su: “Yêu kẻ thù” và “cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (5,44) vừa nối
kết chặt chẽ với nhau, vừa soi sáng cho nhau. Có thể nói, “yêu kẻ thù” là “cầu
nguyện cho những kẻ ngược đãi mình” và ngược lại, “cầu nguyện cho những kẻ
ngược đãi mình” là “yêu kẻ thù”.
Cụm từ “yêu kẻ thù” nối kết với “cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi” cho
thấy lời dạy của Đức Giê-su đặt trong bối cảnh cộng đoàn đang bị ngược đãi, bị
thù ghét. Cho dù sự ngược đãi đó đến từ trong gia đình hay từ bên ngoài, Đức
Giê-su mời gọi các môn đệ hãy quảng đại yêu thương để hoạ lại lòng thương xót
của Cha trên trời.
e. “Yêu kẻ thù” là hành động đức tin
Theo suy nghĩ bình thường, “yêu kẻ thù” là ngược với tình cảm tự nhiên của
con người. Đức Giê-su mời gọi môn đệ của Người đi xa hơn lòng mến thông thường
của “những người thu thuế” (5,46) và “những người ngoại” (5,47) để trở
nên con cái của Đấng yêu thương mọi người không loại trừ ai (5,45) và để trở
nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện (5,48).
Đức Giê-su so sánh người môn đệ với “người thu thế”, và “người ngoại”.
“Người thu thuế” ở đây là người tội lỗi vào thời đó, họ là những người chưa tin
vào Đức Giê-su. Còn “người ngoại” ám chỉ dân ngoại. So sánh như trên cho thấy
cách yêu thương của người môn đệ Đức Giê-su là lời mời gọi thuộc lãnh vực đức
tin. Cách yêu thương này trở thành dấu chỉ để phân biệt môn đệ
Đức Giê-su với những người chưa tin.
Lời dạy “hãy yêu
kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” luôn là lời chất vấn người
môn đệ trong cuộc sống hằng ngày. Có thể nói, “yêu kẻ thù” là một hành động đức
tin, là sống lòng tin. Vì lời mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha trên trời vượt
ra ngoài khả năng và sức lực con người, người môn đệ chỉ có thể sống điều đó
nhờ niềm tin.
Khi mà con người
không thể đạt được sự hoàn thiện như Cha trên trời thì lời mời gọi của Đức
Giê-su: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn
thiện” trở thành mục đích và lý tưởng của người môn đệ. Suốt cả cuộc đời người
môn đệ sẽ hướng về đó, sẽ đi theo hướng đó, nghĩa là đi theo con đường mà Đức
Giê-su đã vạch ra, dù biết rằng mình không bao giờ thực hiện được sự hoàn thiện
này cách trọn vẹn.
Hướng đi đã có,
con đường đã sẵn, vấn đề là có dám lên đường, dám yêu thương, dám cậy trông và
phó thác vào Cha trên trời hay không. Vấn đề là có dám tin rằng tình yêu sẽ
chiến thắng hận thù hay không, cho dù có lúc sự dữ xem ra thắng thế, bóng tối
lấn lướt ánh sáng, như lúc Đức Giê-su bị bắt và bị chết treo trên thập giá.
Nhưng câu chuyện không kết thúc ở đó.
Kết luận
Phần trên đã tìm
hiểu lời dạy của Đức Giê-su: “Hãy yêu kẻ thù” trong Mt 5,44 bằng cách phân tích
cặp từ “yêu - ghét”. Trong cách suy nghĩ của người Do Thái (văn hoá Sê-mít), cặp
động từ này được hiểu theo nghĩa mạnh và nghĩa giảm nhẹ. Kế đến là tìm hiểu
cách dùng từ “kẻ thù” (ekhthros) trong Tin Mừng Mát-thêu, để từ đó trả lời hai
câu hỏi: “Yêu kẻ thù” là yêu ai? Và “yêu kẻ thù” là yêu như thế nào? Đây là một
đề tài phức tạp vì liên quan đến tình cảm yêu và ghét của con người. Tuy nhiên,
điều chắc chắn là Đức Giê-su mời gọi các môn đệ cư xử theo lòng thương xót của
Cha trên trời. Người môn đệ đã được Cha yêu thương, hãy sống tình thương đó và
làm nó lan toả đến mọi người.
“Yêu kẻ thù” luôn
luôn là một thách đố của người môn đệ Đức Giê-su. Thiết nghĩ, để có thể bắt đầu
“thực hiện” (LÀM) lời dạy “yêu kẻ thù”, người môn đệ có thể “KHÔNG LÀM” một số
điều:
-
Không nuôi hận thù trong lòng mình.
-
Không để sự thù ghét hướng dẫn hành động của mình.
-
Không lên án “kẻ thù” hay “kẻ ngược đãi mình” vì biết đâu chính mình là nguyên
nhân sâu xa của sự thù ghét.
-
Không tìm cách trả thù, vì khi trả được mối thù này, chính mình lại tạo ra
mối thù khác.
Không làm bốn
điều trên đây là đã bước đầu sống lời Đức Giê-su dạy: “Yêu kẻ thù”. Khi “yêu
thương kẻ thù” là dám tin tình yêu sẽ chiến thắng sự thù ghét. Trong thực tế
cuộc sống, lòng mến và sự tha thứ là giải pháp tốt nhất để giải quyết hận thù
và tranh chấp. Hơn nữa, lời Đức Giê-su dạy “yêu kẻ thù” không đặt trên bình
diện trần thế mà đặt trên bình diện thần học và tâm linh: “Yêu kẻ thù” là một
hành động biểu lộ đức tin. “Yêu kẻ thù” là cách xử sự của người môn đệ, là cách
sống của con cái Cha trên trời. Chính Đức Giê-su đã chiến thắng sự thù ghét
bằng tình yêu và Người mời gọi các môn đệ bước theo Người và sống như Người đã
sống.
Dù khó khăn đến
đâu đi nữa, lời dạy “yêu kẻ thù” của Đức Giê-su vẫn là đỉnh cao khát vọng của
nhân loại: Mọi người biết sống yêu thương nhau và giải quyết các xung đột bằng
con đường tôn trọng lẫn nhau, đối thoại với nhau để tìm ra những giải pháp tốt
nhất cho đôi bên. Cách giải quyết này dựa trên khuôn mẫu tình yêu của Cha trên
trời dành cho “kẻ xấu cũng như người tốt”, “người công chính cũng như kẻ bất
chính”. Đây không phải là thứ tình yêu dung túng sự dữ, mà là tình yêu nhằm mục
đích đem lại sự sống và ơn cứu độ cho nhân loại./.
Ngày 17 tháng 06 năm 2011.
Giu-se Lê Minh Thông, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/06/tim-hieu-tm-mt-543-48-hay-yeu-ke-thu.html
Email: josleminhthong@gmail.com