Dẫn
nhập
Khi đọc Tin Mừng
thứ tư, độc giả thấy nhân vật Ni-cô-đê-mô xuất hiện ba lần, ở những nơi rất đặc
biệt: Lần thứ nhất ở đầu Tin Mừng (3,1-12), lần thứ hai ở giữa (7,48-52) và lần
thứ ba ở cuối sách Tin Mừng thứ tư (19,39-40). Có thể qua nhân vật Ni-cô-đê-mô,
tác giả muốn gửi gắm đến độc giả một khuôn mẫu về hành trình tìm biết Đức Giê-su.
Nói theo ngôn ngữ Tin Mừng, đó là hành trình “đến với” và “nói với” Đức
Giê-su; hành trình từ “bóng tối” đến “ánh sáng” theo nghĩa đen và nghĩa thần
học của cặp từ này.
Trong ba lần nhân
vật Ni-cô-đê-mô xuất hiện trong sách Tin Mừng, lần đầu tiên được thuật lại chi
tiết hơn cả: Ni-cô-đê-mô đến gặp Đức Giê-su ban đêm và đối thoại với Người
(3,1-12). Trong hai lần xuất hiện tiếp theo, tác giả đều nhắc lại cuộc gặp gỡ
đầu tiên vào ban đêm này. Phần phân tích sau đây sẽ bàn chi tiết hơn về đoạn
văn thứ nhất (3,1-12), còn hai đoạn văn tiếp theo sẽ được trình bày vắn tắt
nhằm diễn tả sự tiến triển của Ni-cô-đê-mô trong hành trình từ “đêm tối” đến
“ánh sáng”.
I.
Xuất
hiện lần thứ nhất:
“Đêm tối bên ngoài” và “tăm tối trong lòng”
Có nhiều đề tài
trong cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và Ni-cô-đê-mô trong Tin Mừng thứ tư
(3,1-12). Phần này chỉ tìm hiểu sơ lược đề tài: “Thấy mà chưa thấy”, “biết mà
chưa biết” và tương phản giữa “ánh sáng” và “bóng tối” để minh hoạ cho hành
trình của nhân vật Ni-cô-đê-mô. Lần xuất hiện đầu tiên của ông sẽ được tìm hiểu
qua 4 mục: (1) Bản văn Ga 2,23–3,12. (2) Một số dấu hiệu văn chương nối kết
2,23-25 với 3,1-12. (3) Đề tài “Thấy mà chưa thấy” và “biết mà chưa biết”. (4)
Tương phản giữa “ánh sáng” và “bóng tối”.
1. Bản văn Ga 2,23–3,12
Trích dẫn Tin Mừng
thứ tư được dịch sát theo bản Hy Lạp: Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA
THƯ, Hy Lạp – Việt.
2,23Trong lúc Người [Đức Giê-su] ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ
đã tin vào danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm. 24Nhưng Đức Giê-su, chính
Người không tin họ, vì Người biết tất cả, 25và
Người không cần có ai làm chứng về con người, vì chính Người biết có gì nơi con
người.
3,1Có một người trong những người Pha-ri-sêu, tên ông ấy là Ni-cô-đê-mô, một
thủ lãnh của những người Do Thái. 2Ông
này đến gặp Người ban đêm và nói với Người: “Thưa Ráp-bi, chúng tôi biết rằng:
Ngài là một vị Thầy đến từ Thiên Chúa, vì không ai có thể làm được những dấu lạ
Ngài làm, nếu Thiên Chúa không ở với người ấy.”
3Đức Giê-su trả lời và nói với ông ấy: “A-men, a-men, Tôi nói cho ông: Nếu
ai không được sinh ra một lần nữa, thì không thể thấy vương quốc Thiên Chúa.”
4Ni-cô-đê-mô nói với Người: “Làm sao một người có thể được sinh ra khi đã
già? Chẳng
lẽ có thể trở vào lòng mẹ của mình lần thứ hai để được sinh ra sao?”
5Đức Giê-su trả lời: “A-men, a-men, Tôi nói cho ông: Nếu ai không được sinh
ra bởi nước và Thần Khí, thì không thể bước vào vương quốc Thiên Chúa. 6Điều gì sinh ra bởi xác
thịt là xác thịt; điều gì sinh ra bởi Thần Khí là thần khí. 7Ông đừng ngạc nhiên vì Tôi
đã nói với ông: ‘Các ông cần phải được sinh ra một lần nữa.’ 8Gió muốn thổi ở đâu, ông
nghe tiếng của nó, nhưng ông không biết nó từ đâu đến và đi đâu.Mọi kẻ được sinh ra bởi Thần Khí thì cũng như vậy.”
9Ni-cô-đê-mô trả lời và nói với Người: “Làm sao những điều ấy có thể xảy ra
được?”
10Đức Giê-su trả lời và nói với ông: “Ông là bậc thầy của Ít-ra-en, mà không
biết những điều ấy sao? 11A-men,
a-men, Tôi nói cho ông: Điều chúng tôi đã biết, chúng tôi nói và điều chúng tôi
đã thấy, chúng tôi làm chứng, và lời chứng của chúng tôi, các ông không đón
nhận. 12Nếu những
chuyện dưới đất Tôi nói với các ông mà các ông không tin, thì nếu Tôi nói với
các ông về những chuyện trên trời làm sao các
ông tin?
2. Nối kết giữa Ga 2,23-25 và 3,1-12
Cuộc đối thoại
giữa Đức Giê-su và Ni-cô-đê-mô liên quan đến vấn đề chính: “sinh ra bởi trên”,
“sinh ra một lần nữa” (3,3.7), “sinh bởi nước và Thần Khí” (3,5). Cuộc đối
thoại kết thúc bằng sự không biết của Ni-cô-đê-mô, khi Đức Giê-su nói: “Ông là
bậc thầy của Ít-ra-en, mà không biết những điều ấy sao?” (3,10) Phần tiếp theo
là diễn từ độc thoại của Đức Giê-su (3,11-21). Người ta thường đọc câu chuyện
Ni-cô-đê-mô từ chương 3 câu 1, tuy nhiên cách đọc này có thể làm lu mờ ý nghĩa
và nét độc đáo của bản văn. Thực ra, có nhiều dấu hiệu văn chương nối kết câu
chuyện (3,1-12) với trình thuật trước đó (2,23–25). Có thể liệt kê 5 chi tiết
sau:
1) Trong bản văn
trích dẫn trên đây, tên gọi “Đức Giê-su” không xuất hiện ở 3,2a. Dịch sát 3,2a
theo bản văn Hy Lạp: “Ông này đến gặp Người ban đêm và nói với Người:...”. Để
biết đại từ “người” là ai, cần đọc về phía trước. Danh xưng “Đức Giê-su”
(Iêsous) xuất hiện trước 3,1-2 là ở 2,24: “Đức Giê-su (Iêsous) không tin họ, vì
Người biết tất cả...” Vậy, nếu như bắt đầu đọc từ 3,1 độc giả sẽ không biết
Ni-cô-đê-mô đến gặp ai và nói chuyện với ai. Chi tiết này đòi buộc nối kết
3,1-12 với 2,23-25. Một số bản dịch thêm tên gọi “Đức Giê-su” vào 3,2, nhưng
danh xưng này không có trong bản văn Hy Lạp. Nối kết 3,1-12 với 2,23-25 làm lộ
ra nhiều đề tài quan trọng của cuộc đối thoại (3,1-12).
2) Lời tuyên bố
của Đức Giê-su: “Sinh ra một lần nữa” (3,3b) là điều kiện để “thấy vương quốc
Thiên Chúa” (3,3c). Để có thể “sinh ra một lần nữa” (3,3b), điều quan trọng là
nhận ra Đức Giê-su là ai và thực sự “thấy các dấu lạ Người đã làm”. Điều này đã
nói đến ở 2,23b. Nên có nối kết giữa 2,23-25 và 3,1-12.
3) Đoạn văn
2,23–25 mở đầu bằng lời tóm kết của người thuật chuyện về các dấu lạ: “Trong
lúc Người [Đức Giê-su] ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào
danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm” (2,23). Trong phần đối
thoại, Ni-cô-đê-mô nhắc lại ý tưởng này khi dùng từ “dấu lạ” (to sêmeion) ở số
nhiều: “các dấu lạ” kèm theo động từ “làm” (poieô) ở 3,2. Ni-cô-đê-mô nói với
Đức Giê-su: “Thưa Ráp-bi, chúng tôi biết rằng: Ngài là một vị Thầy đến từ Thiên
Chúa, vì không ai có thể làm được những dấu lạ Ngài làm, nếu Thiên Chúa không ở
với người ấy” (3,2). Danh từ “dấu lạ” (to sêmeion) và động từ “làm” (poieô) nối
kết ý tưởng 2,23-25 với 3,1-12.
4) Danh từ
“anthrôpos” (con người, người) xuất hiện ở 2,24 và 3,1 là dấu hiệu nối kết giữa
phần mở đầu (2,24-25) với phần đối thoại (3,1-12). Người thuật chuyện cho độc
giả biết: “23Nhiều kẻ đã tin vào danh của Người [Đức Giê-su] khi thấy
các dấu lạ mà Người đã làm...24Nhưng Đức Giê-su, chính Người không
tin họ, vì Người biết tất cả,25và Người không cần có ai làm chứng về
con người (anthrôpou), vì chính Người biết có gì nơi con người (anthrôpôi)”
(2,23-25). Ở 2,25, danh từ “anthrôpos” (con người, người) xuất hiện 2 lần. Sang
3,1 danh từ “anthrôpos” lại xuất hiện để nói về Ni-cô-đê-mô: “Có một người
(anthrôpos) trong những người Pha-ri-sêu, tên ông ấy là Ni-cô-đê-mô” (3,1).
Theo mạch văn, Ni-cô-đê-mô là một trong những người (anthrôpos) mà Đức Giê-su
biết những gì có nơi họ, bằng chứng là Đức Giê-su biết là Ni-cô-đê-mô “không
biết” (3,10).
5) Đề tài “biết”
(ginôskô) xuất hiện trong phần trình thuật (2,23-25) là đề tài chính trong cuộc
đối thoại giữa Đức Giê-su và Ni-cô-đê-mô (3,1-12). Ông ấy đến gặp Đức Giê-su và
khẳng định là biết Đức Giê-su, khi nói với Đức Giê-su: “Thưa Ráp-bi, chúng tôi
biết rằng: Ngài là một vị Thầy đến từ Thiên Chúa, vì không ai có thể làm được
những dấu lạ Ngài làm, nếu Thiên Chúa không ở với người ấy” (3,2). Câu này có ý
châm biếm, vì cuối cuộc đối thoại Đức Giê-su cho thấy Ni-cô-đê-mô là người
“không biết”. Đức Giê-su nói: “Ông là bậc thầy của Ít-ra-en, mà không biết
những điều ấy sao?” (3,10) Điều này không làm độc giả ngạc nhiên vì người thuật
chuyện đã cho biết trước đó là Đức Giê-su “biết có gì nơi con người” (2,25b).
Những quan sát về
liên hệ giữa hai đoạn văn 2,23-25 và 3,1-12 cho thấy độc giả nên đọc câu chuyện
từ câu 2,23 chứ không phải từ 3,1. Mạch văn 2,23–3,12 cho biết ý chính của bản
văn là tác giả cho Ni-cô-đê-mô và cho độc giả biết thế nào là “thấy thực sự”
(theôreô [2,23], horaô [3,3]) những dấu lạ Đức Giê-su đã làm, và thế nào là
“biết thực sự” (ginôskô [2,24.25; 3,10]) oida [3,2.8.11]) những lời mặc khải của Đức Giê-su. Xem phân tích bối cảnh và cấu trúc
đoạn văn Ga 2,23–3,36 trong tập sách YÊU và GHÉT, phần II, tr. 20-26.
3. “Thấy mà chưa thấy” và “biết mà chưa biết”
Ni-cô-đê-mô và dân
chúng nghĩ là “đã thấy các dấu lạ” và “đã biết Đức Giê-su” nhưng thực ra họ
“chưa thấy” và “chưa biết” Đức Giê-su thực sự là ai (2,23–3,12). Kiểu hành văn
có nét châm biếm này nhằm đề cao vai trò mặc khải của Đức Giê-su. Để tránh tình
trạng “tưởng là thấy”, “tưởng là biết” mà thực ra là “chưa thấy”, “chưa biết”,
độc giả cần mở lòng đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su. Đây là điều kiện tiên
quyết để “thực sự thấy và biết” Người.
Ý tưởng “chưa
thấy”, “chưa biết”, gợi đến sự tối tăm của lý trí con người. Sự tối tăm về trí
hiểu biết của Ni-cô-đê-mô nối kết với việc ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm
(3,2). Từ bóng tối ban đêm gợi đến đến lòng trí tối tăm, vì không hiểu ý nghĩa
lời Đức Giê-su nói. Đối diện với mặc khải của Đức Giê-su, Ni-cô-đê-mô như vừa
đang ở trong bóng tối khách quan (ban đêm), vừa ở trong sự tối tăm chủ quan
(hiểu lầm về điều Đức Giê-su nói).
Tuy vậy, điểm tích
cực nơi nhân vật Ni-cô-đê-mô là ông đã “ĐẾN VỚI Đức Giê-su” và đã “NÓI VỚI
Người” (3,2). Trong bối cảnh trên, có thể nói những lời mặc khải của Đức Giê-su
là “ánh sáng”, là “những lời khai sáng” cho Ni-cô-đê-mô và cho độc giả. Đức
Giê-su dẫn Ni-cô-đê-mô, và qua câu chuyện tác giả dẫn đưa độc giả, từ sự tối
tăm trong tâm trí đến ánh sáng của sự hiểu biết. Biết thế nào là “sinh ra bởi
trên” để “thấy Nước Thiên Chúa” (3,2-10).
4. “Ánh sáng” và “bóng tối”
Từ hình ảnh “ban
đêm”, “bóng tối”, “đêm tối” của sự không hiểu biết đến “ánh sáng mặc khải”,
phần cuối diễn từ độc thoại của Đức Giê-su (3,18-21) sử dụng cặp đối lập “ánh
sáng – bóng tối” để xây dựng thần học: “Ánh sáng” là Đức Giê-su và “bóng tối”
là thế lực chống đối, không đón nhận, không tin vào Đức Giê-su. Sau khi khẳng
định tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian (3,16-17), Đức Giê-su tuyên bố
những lời mạnh mẽ ở 3,18-21:
“18Ai
tin vào Người [Đức Giê-su] thì không bị lên án; nhưng kẻ không
tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào
danh Con Một Thiên Chúa.19Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian,
nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa. 20Vì mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh
sáng để các việc của họ khỏi bị chê trách. 21Nhưng
kẻ làm sự thật thì đến với ánh sáng để các việc của
người ấy được bày tỏ ra là đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
Đối lập “ánh sáng
– bóng tối” thể hiện nơi quyết định của con người: “Tin” hay “không tin” vào
Đức Giê-su (3,18-19); “đến với” hay “không đến với” ánh sáng (3,20-21). Những
kẻ lựa chọn đứng về phía bóng tối được Đức Giê-su định nghĩa: “Yêu mến bóng tối
hơn ánh sáng” (3,19); họ “làm sự dữ” nên “không đến với ánh sáng” (3,20). Ngược
lại, những kẻ “làm sự thật thì đến với ánh sáng” (3,21), nghĩa là đến với Đức
Giê-su và tin vào Người.
Thần học đoạn văn
2,23–3,21 được xây dựng bởi động từ “đến” (erkhomai). Đức Giê-su là ánh sáng
(8,12; 9,5) và Ánh sáng đã đến thế gian (3,18). Như thế, dù Ni-cô-đê-mô đến với
Đức Giê-su ban đêm, thì ông ấy cũng đã đến với “ánh sáng”. Khi con người từ
chối ánh sáng, nghĩa là không tin vào Đức Giê-su, sẽ trở thành người bị kết án
như Đức Giê-su đã nói: “Ai tin vào Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không
tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào
danh Con Một Thiên Chúa” (3,18).
Tóm lại, bối cảnh
đoạn văn 2,23–3,12 đặt song song sự kiện nhiều người “tin” vào Đức Giê-su
(2,23) và Ni-cô-đê-mô “biết” Đức Giê-su đến từ Thiên Chúa (3,2) nhờ “thấy các
dấu lạ Đức Giê-su làm” (2,23; 3,2). Tuy nhiên, hành động “tin” và “biết” này
chưa trọn vẹn. Bản văn 2,23–3,12 nhấn mạnh vai trò mặc khải của Đức Giê-su.
Chính Đức Giê-su biết có gì nơi con người (2,25), chính Người biết là Ni-cô-đê-mô
“không biết” (3,10). Qua đó, Đức Giê-su được trình bày như là Đấng biết mọi sự,
Đấng mặc khải, Đấng từ trời xuống (3,13). Qua câu chuyện, đám đông (2,23),
Ni-cô-đê-mô và độc giả được mời gọi mở lòng ra, lắng nghe và đón nhận lời mặc
khải của Đức Giê-su, để nhờ đó được sinh ra bởi trên, sinh ra một lần nữa, sinh
ra bởi nước và Thần Khí (3,3-7). Nhờ “thực sự thấy dấu lạ” và “hiểu biết lời
mặc khải của Đức Giê-su”, con người có thể “đến với Người” và “tin vào Người”,
nghĩa là “đến với ánh sáng” và “tin vào ánh sáng” để có sự sống đời đời
(3,16-21).
Lần thứ nhất
Ni-cô-đê-mô xuất hiện trong Tin Mừng đã khởi đầu một hành trình, hành trình đến
với Đức Giê-su và đối thoại với Người. Bóng tối bên ngoài, gợi đến bóng tối
trong lòng Ni-cô-đê-mô về sự hiểu biết. Ni-cô-đê-mô đã được Đức Giê-su soi
sáng, nhưng cuối cuộc đối thoại (3,12), tác giả không cho biết phản ứng của
Ni-cô-đê-mô như thế nào. Có lẽ ông ấy cần thời gian để suy nghĩ. Đúng thế, sau
5 chương của sách Tin Mừng (từ chương 3 đến chương 7) Ni-cô-đê-mô lại xuất hiện
và bày tỏ lập trường ở 7,48-52.
II.
Xuất hiện lần thứ hai (7,48-52)
Ni-cô-đê-mô xuất
hiện lần thứ hai ở giữa sách Tin Mừng (7,48-52). Lần này độc giả thấy lập
trường rõ ràng của Ni-cô-đê-mô trước sự hiện diện của những kẻ chống đối Đức Giê-su.
Trong Tin Mừng thứ tư, xung đột giữa Đức Giê-su và giới lãnh đạo Do Thái đã xảy
ra từ chương 2 (2,13-22), họ đã chất vấn Đức Giê-su khi Người thanh tẩy Đền thờ
Giê-ru-sa-lem (2,18). Đến chương 5, sau khi Đức Giê-su chữa lành người bệnh tại
hồ nước Bết-da-tha (5,1-9) thì đã xảy ra tranh luận giữa những người Do Thái và
Đức Giê-su. Cuối cùng, họ đã quyết định giết Đức Giê-su. Người thuật chuyện tóm
kết ở 5,18: “Những người Do Thái lại càng tìm Người để giết, vì Người không chỉ
phá ngày sa-bát, nhưng còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, tự cho mình ngang
hàng với Thiên Chúa.”
Tranh luận ngày
càng gay gắt được tiếp nối trong chương 7. Sau khi các thượng tế và những người
Pha-ri-sêu sai thuộc hạ đi bắt Đức Giê-su (7,32) nhưng không thành công, thì
Ni-cô-đê-mô xuất hiện và gián tiếp bênh vực Đức Giê-su: Người thuật chuyện kể ở
7,50-52: “50Ni-cô-đê-mô, người trước đây đã đến gặp Người, là một
người trong nhóm họ, nói với họ: ‘51Lề
Luật của chúng ta không kết án người nào, nếu trước đó không nghe người ấy và
biết người ấy làm gì phải không?52Họ trả lời và nói với ông: ‘Không
phải chính ông cũng là người Ga-li-lê sao? Hãy nghiên cứu và thấy rằng: Không
một ngôn sứ nào xuất hiện từ Ga-li-lê’.” Việc những người Pha-ri-sêu khiển
trách Ni-cô-đê-mô, vừa cho thấy họ không đồng tình với Ni-cô-đê-mô, vừa cho
thấy Ni-cô-đê-mô đã nhận ra phần nào Đức Giê-su là ai, nhờ cuộc trao đổi trong
lần gặp gỡ thứ nhất (3,1-12).
Ni-cô-đê-mô chưa
công khai bênh vực Đức Giê-su nhưng phản ứng của ông cho thấy ông đã có thiện
cảm với Người. Ở 3,2, người thuật chuyện giới thiệu: “Ni-cô-đê-mô là một thủ
lãnh của những người Do Thái” (3,1), nên ông thuộc giới lãnh đạo
Do Thái. Có thể nói rằng: Trong Tin Mừng thứ tư, có một số nhân vật quyền thế
trong giới lãnh đạo Do Thái có thiện cảm với Đức Giê-su và tin vào Người. Thực vậy,
cuối sứ vụ công khai của Đức Giê-su, tác giả Tin Mừng nhận định ở 12,42-43: “42Ngay
cả trong giới lãnh đạo nhiều người đã tin vào Người [Đức Giê-su]. Nhưng vì
những người Pha-ri-sêu, họ không tuyên xưng để không trở thành những kẻ bị khai
trừ khỏi hội đường. 43Vì
họ yêu mến vinh quang của con người hơn vinh quang của Thiên Chúa.” Có thể nói
Ni-cô-đê-mô là một trong những người thuộc giới lãnh đạo Do Thái đã tin vào Đức
Giê-su (12,42) nhưng vì sợ nên chưa dám tuyên xưng Đức Giê-su cách công khai.
Điều này đã thay đổi vào cuối sách Tin Mừng, khi Ni-cô-đê-mô xuất hiện
lần thứ ba.
III.
Xuất hiện lần thứ ba (19,39-40)
Lần thứ ba,
Ni-cô-đê-mô xuất hiện trong Tin Mừng vào lúc rất đặc biệt: An táng Đức Giê-su.
Sau khi Phi-la-tô cho phép ông Giu-se A-ri-ma-thê hạ xác Đức Giê-su xuống khỏi
thập giá, người thuật chuyện kể: “39Ni-cô-đê-mô cũng đến mang theo
mộc dược trộn với trầm hương khoảng một trăm cân [32,70 kg] – trước đây ông đến gặp Người ban đêm –.40Vậy
các ông nhận lấy thi hài Đức Giê-su quấn bằng băng vải tẩm thuốc thơm, theo như
tục lệ an táng của người Do Thái” (19,39-40).
Trong lần xuất
hiện thứ ba, Ni-cô-đê-mô không nói lời nào cả, nhưng hành động của ông ẩn chứa
nhiều ý nghĩa. Trong lúc tất cả các môn đệ khác không hiện diện vào lúc an táng
Thầy của họ thì có hai người lo việc an táng Đức Giê-su. Người thứ nhất là
Giu-se A-ri-ma-thê, ông là “một môn đệ của Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo vì sợ
những người Do Thái” (19,38) và người thứ hai là Ni-cô-đê-mô, nhân vật có “biệt
hiệu”: “Người đến gặp Đức Giê-su ban đêm” (3,2; 7,50; 19,39).
Xem ra Giu-se
A-ri-ma-thê là người có uy thế, vì ông đã đến gặp Phi-la-tô và xin lấy xác Đức
Giê-su để an táng trong mộ. Như thế, trong lúc các môn đệ đang sợ hãi vì Đức
Giê-su bị giết chết trên thập giá, thì một nhân vật có uy thế và một nhân vật
thuộc giới lãnh đạo Do Thái, đã lo việc an táng Đức Giê-su. Hành động của
Ni-cô-đê-mô đã bày tỏ cách công khai lựa chọn của ông đứng về phía Đức Giê-su.
Tuy bản văn không nói rõ Ni-cô-đê-mô là môn đệ Đức Giê-su, nhưng hành động lo
việc an táng Đức Giê-su cho thấy ông ứng xử như là người môn đệ.
Tương phản giữa sự
vắng mặt của “các môn đệ chính danh” (được nói đến trong Tin Mừng) và sự hiện
diện của “các môn đệ vô danh” (đi theo Đức Giê-su cách kín đáo) trong biến cố
an táng Đức Giê-su, là một trong những nét đặc thù của Tin Mừng thứ tư. Tương
phản này làm cho “hành trình trở thành môn đệ Đức Giê-su” là đề tài độc đáo của
sách Tin Mừng. Mọi người đều có thể trở thành môn đệ Đức Giê-su, kể cả giới
lãnh đạo Do Thái.
Kết
luận
Tìm hiểu ba lần
xuất hiện của nhân vật Ni-cô-đê-mô (ở đầu, ở giữa và ở cuối sách Tin Mừng thứ
tư) trên đây đã phác hoạ phần nào hành trình trở thành môn đệ Đức Giê-su. Có
thể nói, hành trình của Ni-cô-đê-mô là hành trình từ “ban đêm” đến “ban ngày”,
từ “bóng tối” đến “ánh sáng”, từ “đến với Đức Giê-su vào ban đêm” đến “bày tỏ
công khai đứng về phía Người vào ban ngày”. Như thế, nhân vật Ni-cô-đê-mô là
khuôn mẫu cho hành trình trở thành môn đệ Đức Giê-su nhờ biết cách “thấy dấu
lạ” và biết cách “nghe lời mặc khải”.
Các dấu lạ và
những lời mặc khải của Đức Giê-su không chỉ dành riêng cho nhân vật Ni-cô-đê-mô
mà còn dành cho độc giả qua mọi thời đại. Nhận định của Ni-cô-đê-mô trong lần
gặp gỡ đầu tiên: Tưởng mình biết Đức Giê-su nhưng thực ra chưa biết (3,2) cũng
có thể là nhận định của độc giả. Hơn nữa, khi Ni-cô-đê-mô nói với Đức Giê-su: “Thưa
Ráp-bi, chúng tôi biết rằng:..” (3,2) là ông nói đại diện cho một số người
trong giới lãnh đạo Do Thái có thiện cảm với Đức Giê-su. Qua đó, đại từ số
nhiều “chúng tôi” cũng bao hàm tất cả các độc giả mọi thời đại, có thiện cảm
với Đức Giê-su, muốn “đến với” và “nói với” Người.
Hành trình của Ni-cô-đê-mô trong Tin Mừng thứ tư là
lời mời gọi độc giả bước vào hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống. Bước đầu
của cuộc tìm kiếm có thể còn chưa nhận biết rõ và ẩn chứa sự e dè nên có lẽ
“phải đến gặp Đức Giê-su ban đêm“; nhưng một khi dám “đến với” và “nói với” Đức
Giê-su đã là bước khởi đầu quan trọng. Chính Đức Giê-su là ánh sáng, lời mặc
khải của Người sẽ soi sáng cho độc giả nhận biết con đường dẫn đến sự sống đích
thực, vì chính Người “là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6)./.
Ngày 15 tháng 01
năm 2012
Giu-se
Lê Minh Thông, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/01/tim-hieu-tm-ga-ni-co-e-mo-hanh-trinh-tu.html
email: josleminhthong@gmail.com