Dẫn nhập
Sách “Tin Mừng
Mác-cô” còn được gọi là “Tin Mừng thứ hai”, vì sách này ở vị trí thứ hai trong
bốn sách Tin Mừng (Mt – Mc – Lc – Ga) và vì nội dung sách Tin Mừng này không
nói rõ Mác-cô là tác giả (xem phân tích trong nội dung bài viết). Cũng trong
chiều hướng này, sách “Tin Mừng Gio-an” được gọi là “Tin Mừng thứ tư”, vì nội
dung sách Tin Mừng Gio-an không nói rõ là Gio-an là tác giả, xem bài viết: Ai là tác giả
sách Tin Mừng Gio-an?
Bài viết này tìm
hiểu một số vấn đề liên quan đến lịch sử hình thành sách Tin Mừng thứ hai (Tin
Mừng Mác-cô). Những câu hỏi đặt ra: Tin Mừng thứ hai do ai viết (tác giả thực
sự), viết cho ai (độc giả thực sự), viết ở đâu (nơi biên soạn), viết lúc nào (niên biểu) và dựa vào tài liệu nào để viết
sách Tin Mừng (tài liệu nguồn)? Kết quả nghiên cứu liên quan đến những câu hỏi
này phần lớn dựa vào truyền thống và dựa trên các giả thuyết. Có nhiều lập
trường và quan điểm khác nhau sẽ được trình bày sơ lược sau đây.
Cần phân biệt
khái niệm “tác giả thực sự” và “độc giả thực sự” với “tác giả tiềm ẩn” và “độc
giả tiềm ẩn”, xem giải thích trong tập sách: Phân tích thuật chuyện và cấu trúc
áp dụng vào Tin Mừng thứ tư. Những phác hoạ lịch sử biên soạn
Tin Mừng thứ hai, giúp hiểu biết phần nào bối cảnh lịch sử hình thành sách Tin
Mừng. Tuy nhiên, đây là những vấn đề phức tạp, càng đi sâu vào chi tiết, càng nhiều
tranh luận, bởi vì có nhiều giả thuyết khác nhau. Vì thế, không nên đi sâu vào
những cuộc tranh luận, điều quan trọng là tìm hiểu khái quát những vấn đề trên,
sau đó tập trung tìm hiểu nội dung mặc khải trong sách Tin Mừng thứ hai. Nghĩa
là đọc chính bản văn Tin Mừng Mác-cô và tìm hiểu xem câu chuyện nói gì và nói
như thế nào để lĩnh hội thông điệp mà bản văn Tin Mừng muốn chuyển tải đến
người đọc qua mọi thời đại.
Ngày nay, các
tranh luận về vấn đề “tác giả thực sự” không còn quan trọng nữa. Bởi lẽ cho dù
ai viết sách Tin Mừng thứ hai đi nữa thì cũng không làm thay đổi nội dung mặc
khải trong sách Tin Mừng này. Giá trị mặc khải của sách Tin Mừng thứ hai (Tin
Mừng Mác-cô) đã được Hội Thánh xác nhận bằng cách nhận vào Quy Điển các sách
Tân Ước. Những phân tích sau đây phác hoạ phần nào môi trường xuất hiện sách
Tin Mừng thứ hai, đồng thời cho thấy sự phức tạp của các vấn đề liên quan đến
lịch sử.
I. Tác giả sách
Tin Mừng thứ hai
Ai là tác giả
sách Tin Mừng thứ hai? Có thể trả lời câu hỏi này bằng cách dựa vào truyền
thống hay dựa vào chính bản văn Tin Mừng. Nói chung có ba cách trả lời: 1.
Gio-an Mác-cô. 2. Mác-cô nhưng không phải là Gio-an Mác-cô. 3. Tác giả theo
sách Tin Mừng.
1. Gio-an Mác-cô
Trong Tân Ước,
nhân vật Gio-an Mác-cô được nói đến trong Công vụ Tông Đồ (Cv 12,12.25;
15,37.39). Mẹ của Gio-an Mác-cô có một ngôi nhà ở Giê-ru-sa-lem (Cv 12,12).
Gio-an Mác-cô đã đồng hành với Ba-na-ba và Phao-lô trong chuyến hành trình
truyền giáo thứ nhất (Cv 12,25; 13,5.13). Sau đó Gio-an Mác-cô chia tay Phao-lô
và đi truyền giáo với Ba-na-ba (15,37.39). Tân Ước còn nói tới nhân vật Mác-cô
là người giúp đỡ Phê-rô (1Pr 5,13); Mác-cô cộng sự viên của Phao-lô (2Tm 4,11;
Plm 1,24) và Mác-cô em họ của Ba-na-ba (Col 4,10).
“Gio-an Mác-cô”
và “Mác-cô” trong Tân Ước là một, là hai hay là nhiều nhân vật khác nhau? Tình
trạng bản văn không nói rõ. Một số tác giả cho rằng, những lần tên gọi Mác-cô
xuất hiện trong Tân Ước có thể là nhiều nhân vật khác nhau cùng mang tên
Mác-cô, vì thời ấy tên gọi Mác-cô khá phổ biến trong đế quốc Rô Ma.
Theo truyền
thống, Mác-cô, môn đệ và thông ngôn của Phê-rô, thường được đồng hoá với Gio-an
Mác-cô trong sách Công vụ Tông Đồ. Pa-pi-át (năm 100–150), giám mục Hierapolis,
cho biết tác giả sách Tin Mừng thứ hai là Mác-cô. Những gì Pa-pi-át viết được
sử gia EUSÈBEde Césarée kể lại như sau:
“Đây là những gì
Kỳ mục đã nói: ‘Mác-cô, người phiên dịch cho Phê-rô, đã ghi chép một cách chính
xác [trạng từ: akrisbôs], cho dù không có thứ tự, tất cả những điều ông ấy nhớ
về những điều Chúa đã nói hoặc đã làm. Bởi vì ông ấy đã không nghe Chúa nói,
cũng chẳng đi theo Người, nhưng sau này, như tôi đã nói, ông ấy đi theo Phê-rô.
Ông này giảng dạy theo nhu cầu, chứ không tổng hợp toàn bộ những lời của Chúa.
Như thế, Mác-cô đã không sai lầm khi ghi lại vài điều ông ấy đã nhớ. Quả thế,
ông ấy chỉ có một ý định duy nhất là không bỏ qua những gì đã nghe và không lừa
dối ai qua những gì ông ấy thuật lại” (EUSÈBE de Césarée, Histoire ecclésiastique, livre III, 39,15, [Sources Chrétiennes
31], [Texte grec, traduction et annotation par G. Bardy], Paris, Le Cerf, 1952,
p. 157).
Đọc kỹ trích dẫn
trên đây sẽ thấy có những chi tiết không ăn khớp với nhau. Một đàng khẳng định
sự chính xác những gì được ghi chép lại: “Ghi chép một cách chính xác”, “không
bỏ qua những gì đã nghe”. Một đàng cho thấy tính tương đối: ghi chép “không có thứ
tự”, “ghi lại vài điều ông ấy đã nhớ”. Dù vậy, trích dẫn trên đã nói lên được
điều cốt lõi của sách Tin Mừng: “Không lừa dối ai qua những gì ông ấy thuật
lại”.
Đây là kiểu hành
văn vào thế kỷ III-IV, độc giả ngày nay không thể đòi hỏi sự chính xác theo
khoa học của thế kỷ XXI. Vì thế, không thể chỉ dựa vào trích dẫn trên đây để
khẳng định cách khoa học: Mác-cô là tác giả sách Tin Mừng thứ hai. Những giả
thuyết dưới đây cho thấy sự phức tạp của vấn đề tác giả sách Tin Mừng này. Xem
C. FOCANT,L’évangile selon Marc, (CB.NT
2),
2. Mác-cô (không phải là Gio-an Mác-cô)
Ngày nay, một số tác
giả phủ nhận việc đồng hoá các nhân vật: “Mác-cô tác giả Tin Mừng thứ hai” với
các nhân vật “Mác-cô” hay “Gio-an Mác-cô”, được nhắc đến trong các sách Tân
Ước. Lập trường này cho rằng tác giả Tin Mừng thứ hai là một Ki-tô hữu tên là
Mác-cô, không được sách Tân Ước nói tới. Bởi vì tên gọi Mác-cô khá phổ biến
trong đế quốc Rô-ma thời đó và không có bằng chứng thuyết phục trong các sách
Tân Ước để khẳng định “Mác-cô, thông ngôn của Phê-rô” hay “Gio-an Mác-cô” đã
biên soạn sách Tin Mừng thứ hai.
3. Tác giả dựa vào sách Tin Mừng
Nội dung sách Tin
Mừng thứ hai không cho biết tên tác giả. Tuy vậy, dựa vào bản văn Tin Mừng thứ
hai, có thể nói rằng tác giả là một người có văn hoá Hy Lạp. Tác giả đã dùng
những truyền thống có trước (truyền thống truyền khẩu và dựa bản văn đã có) để
viết sách Tin Mừng. Theo nội dung Tin Mừng, tác giả là người sống trong môi
trường văn hoá La Tinh. Bằng chứng là Tin Mừng thứ hai viết bằng tiếng Hy Lạp
nhưng lại sử dụng nhiều từ gốc La Tinh. Nhiều từ La Tinh được chuyển tự sang
tiếng Hy Lạp, hay từ gốc Hy Lạp được giải thích bằng tiếng La Tinh.
Theo tình trạng
văn chương Tin Mừng thứ hai hiện nay, không có lý do để nghĩ là có nhiều tác
giả biên soạn Tin Mừng này. Một số tác giả cho rằng có thể Tin Mừng thứ hai đã
trải qua nhiều lần soạn thảo khác nhau. Điều này giải thích sự khác nhau trong
Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Lu-ca, khi cả hai Tin Mừng này dùng Tin Mừng
Mác-cô làm tài liệu biên soạn. Tuy nhiên, quá trình biên soạn và sự ảnh hưởng
giữa các sách Tin Mừng là một đề tài rất phức tạp. Vấn đề này sẽ được trình bày
trong mục: Nguồn tài liệu biên soạn các sách Tin Mừng.
II. Nơi biên soạn
Tin Mừng thứ hai
Có nhiều giả
thuyết về nơi biên soạn Tin Mừng thứ hai. Các tài liệu những thế kỷ đầu Công
Nguyên cũng không thống nhất. Có thể nêu lên bốn giả thuyết về nơi biên soạn
sách Tin Mừng thứ hai như sau:
1. Rô Ma. Theo
Clément d’Alexandrie và Origène (EUSÈBE de Césarée, Histoire ecclésiastique, VI, 14,6; VI, 25,5), Tin Mừng thứ
hai được biên soạn ở Rô Ma, nơi các Ki-tô hữu bị bách hại dưới thời hoàng đế
Nê-rô.
2. Ai Cập. Theo
Jean Chrysostome, Tin Mừng Mác-cô biên soạn ở Ai Cập (EUSÈBE de
Césarée, Histoire
ecclésiastique, II, 16,1).
3. Theo nội dung
sách Tin Mừng thứ hai, Đức Giê-su tập trung hoạt động rao giảng của Người ở
Ga-li-lê và vùng phụ cận, vì thế có tác giả cho rằng Tin Mừng Mác-cô được viết
ở phía nam Sy-ri.
4. Hay ở phía Bắc
cao nguyên Ga-li-lê.
Giả thuyết được
nhiều người chấp nhận là ở Rô Ma, vì trong Tin Mừng thứ hai có nhiều từ La Tinh
được Hy Lạp hoá (5,9.15; 6,27; 6,37; 12,15; 14,5; 12,42.14; 15,16.39.44.45).
Đây là dấu hiệu văn chương cho thấy Tin Mừng được biên soạn trong môi trường
văn hoá La Tinh và Hy Lạp.
III. Độc giả sách
Tin Mừng thứ hai
Vấn đề độc giả
sách Tin Mừng Mác-cô tuỳ thuộc vào giả thuyết về các nơi biên soạn nêu trên.
Bản văn Tin Mừng cho thấy, sách Tin Mừng Mác-cô ít trích dẫn Cựu Ước và không
hàm ẩn nhiều đến tư tưởng Cựu Ước. Tin Mừng Mác-cô chú ý cắt nghĩa tập quán Do
Thái (7,3-4; 14,12; 15,42), phiên dịch từ A-ram (3,17; 5,41; 7,11; 10,46;
14,36; 15,22.34) và nhấn mạnh việc loan báo Tin Mừng cho dân ngoại (7,27-29;
10,12; 11,17; 13,10).
Những dấu hiệu
trên cho phép đưa ra giả thuyết: Tin Mừng Mác-cô viết cho độc giả không phải
gốc Do Thái, sống ngoài Pa-lét-tin. Có thể cộng đoàn Mác-cô là dân ngoại, nhưng
không loại trừ khả năng Tin Mừng cũng dành cho các độc giả Do Thái kiều. Theo
dữ liệu trong Tin Mừng, cũng có thể phỏng đoán Tin Mừng thứ hai được viết cho
các Ki-tô hữu nói chung chứ không hẳn dành cho một cộng đoàn nào cụ thể. Có thể
cộng đoàn Mác-cô đang chịu bách hại và đã có những người chối bỏ niềm tin (xem
C. FOCANT, L’évangile selon
Marc,(CB.NT 2),
IV. Niên biểu
sách Tin Mừng Mác-cô
Tin Mừng thứ hai
có những ám chỉ cuộc bách hại thời Nê-rô (54-68) và Đền Thờ bị phá huỷ (Mc
13,2) nhưng không rõ nét như trong Mt 22,7 và Lc 21,20. Tin Mừng Mát-thêu và
Tin Mừng Lu-ca nói đến biến cố Đền Thờ và thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy bằng
lửa năm 70. Một số tác giả dựa vào lời Đức Giê-su nói với môn đệ ở Mc 13,2:
“Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên
tảng đá nào mà không bị phá đổ” để cho rằng Tin Mừng Mác-cô biên soạn sau năm
70.
Hiện nay, các đề
nghị về năm biên soạn Tin Mừng Mác-cô như sau: (1) Trước 50, (2) 64–69, (3)
67–69, (4) Sau 70. Các dữ liệu trong Tin Mừng Mác-cô không cho phép xác định
chắc chắn, có thể chọn niên biểu được nhiều người chấp nhận: Tin Mừng Mác-cô
được biên soạn trong khoảng năm 68–73 (xem R. E. BROWN, Que sait-on du Nouveau Testament?, Paris, Bayard, 2000, p.
169).
V. Nguồn tài liệu
để biên soạn các sách Tin Mừng
Có nhiều giả
thuyết về tài liệu nguồn để biên soạn Tin Mừng Mác-cô cũng như các sách Tin
Mừng khác. Các giả thuyết này hình thành theo thời gian và ngày càng phức tạp.
Đơn giản nhất là giả thuyết “hai nguồn văn”, nhưng mô hình này quá sơ lược
không thể giải thích hết những vấn đề các sách Tin Mừng đặt ra. Với thời gian,
những giả thuyết phức tạp hơn dần dần xuất hiện.
1. Giả thuyết “hai
nguồn văn”
Giả thuyết “hai
nguồn văn” (xem W. HARRINGTON, Nouvelle
Introduction à la Bible, (Traduit
de l’Anglais [1965] par Jacques Winandy), Paris, Le Seuil, 1971, p. 676) cho
rằng: Khởi đầu có “Tin Mừng Mác-cô” và “tài liệu nguồn”, ký hiệu Q (viết tắt từ
“Quelle”, tiếng Đức, có nghĩa là “nguồn”). Giả thuyết này giải thích rằng: Tin
Mừng Mt và Lc dựa vào Tin Mừng Mác-cô và tài liệu Q để biên soạn. Những đoạn
văn Mt và Lc giống nhau mà không có trong Mc thì được lấy trong tài liệu Q.
Tuy vậy, mô hình
này không giải thích được những đoạn văn chỉ có trong Tin Mừng Mt hay chỉ có
trong Lc mà thôi. Để lý giải điều này một giả thuyết phức tạp hơn xuất hiện:
2. Giả thuyết Mt và Lc có các nguồn riêng
Từ giả thuyết
“hai nguồn văn” là Mc và Q, mô hình này thêm vào “tài liệu riêng của Mt” và
“tài liệu riêng của Lc”. Ngoài việc Mt và Lc dựa vào tài liệu chung (Mc và Q)
để biên soạn, Mt và Lc còn có những tài liệu riêng. Lý thuyết này giải thích
hiện tượng: có những chi tiết riêng của Mt và của Lc mà không có trong Tin Mừng
Mc và tài liệu Q.
3. Giả thuyết “ba nguồn văn”
Giả thuyết “ba
nguồn văn” (xem W. HARRINGTON, Nouvelle
Introduction à la Bible, (Traduit
de l’Anglais [1965] par Jacques Winandy), Paris, Le Seuil, 1971, p. 677) phức
tạp hơn và chú trọng đến quá trình hình thành các bản văn A-ram và bản dịch Hy
Lạp được dùng để biên soạn các sách Tin Mừng Mt và Lc. Lý thuyết “ba nguồn văn”
không dùng “tài liệu Q” mà chia thành ba nhóm tài liệu: “Các bản dịch Hy Lạp”,
“Tin Mừng Mác-cô” và “các nguồn văn khác”. Tài liệu thứ ba này (các nguồn văn
khác) chỉ được Lu-ca sử dụng.
Giả thuyết “ba nguồn văn” chưa tính đến truyền thống truyền khẩu
và chưa trả lời được câu hỏi: Tin Mừng Mác-cô dựa vào tài liệu nào để biên
soạn? Giả thuyết “nhiều nguồn văn” sẽ trả lời phần nào câu hỏi này.
4. Giả thuyết “nhiều nguồn văn”
Giả thuyết “nhiều
nguồn văn” (xem W. HARRINGTON, Nouvelle
Introduction à la Bible, (Traduit
de l’Anglais [1965] par Jacques Winandy), Paris, Le Seuil, 1971, p. 680) cho
thấy sự phức tạp của việc hình thành các sách Tin Mừng Nhất Lãm (Mc – Mt – Lc).
Theo giả thuyết này, Tin Mừng Mác-cô được biên soạn dựa trên “truyền thống
truyền khẩu (A-ram, Hy Lạp), giáo huấn của Phê-rô” và “các bản dịch Mt A-ram
sang tiếng Hy Lạp”.
Những giả thuyết
trên phác hoạ khái quát tài liệu nguồn của Tin Mừng Nhất Lãm (Mc – Mt – Lc).
Tuy nhiên, càng đi vào chi tiết càng có nhiều điểm tranh luận. Chẳng hạn, tranh
luận về sự hiện hữu và nội dung của “tài liệu Q”, “các nguồn văn khác”, “nguồn
chung” và “Mt A-ram” v.v...
Nói chung, giả thuyết “nhiều nguồn văn” khá
thuyết phục, nhưng chưa nói đến quá trình hình thành sách Tin Mừng Gio-an. Các
tác giả P. Benoît và M.-É. Boismard đề
nghị giả thuyết về các giai đoạn hình thành cả bốn sách Tin Mừng sau đây (xem
phân tích chi tiết về vấn đề tác giả và quá trình hình thành Tin Mừng Gio-an
trong tập sách: Người môn đệ Đức Giê-su yêu
mến trong Tin Mừng thứ tư là ai?).
5. Giả thuyết của P. BENOIT và M.-É. BOISMARD
Hai tác giả P.
Benoît và M.-É. Boismard (P.
BENOIT; M.-É. BOISMARD, Synopse
des Quatre Évangiles, t. II,
Paris, Le Cerf, 1972) đưa ra giả thuyết về bốn tài liệu nguồn được dùng để biên
soạn các sách Tin Mừng: Q, A, B, C. Theo hai tác giả này, trước khi hình thành
các sách Tin Mừng như hiện nay, đã có những tài liệu trung gian:
Mt – inter (bản
văn Mt trung gian)
Mc – inter (bản
văn Mc trung gian)
Proto-Lc inter
(bản văn Lc trung gian)
Ga 1–20 (Tin Mừng
nguyên thuỷ với kết luận thứ nhất ở Ga 20,30-31).
Các “tài liệu
nguồn”, những “bản văn trung gian” và “bốn sách Tin Mừng hiện nay”, tương tác
với nhau theo sơ đồ trên. Việc giả thuyết này xếp Tin Mừng Mác-cô ngang hàng
với Tin Mừng Mt và Lc, nghĩa là
xuất hiện cùng giai đoạn với hai Tin Mừng này, đã gây nhiều tranh cãi. Bởi vì có
những dấu hiệu văn chương cho thấy Tin Mừng Mác-cô xuất hiện trước Tin Mừng Mt
và Lc. Niên biểu các sách Tin Mừng xuất hiện theo thời gian được đa số tác giả
chấp nhận hiện nay:
- Tin Mừng Mác-cô: khoảng năm
68 – 73.
- Tin Mừng Mát-thêu: khoảng năm 80 – 90.
- Tin Mừng Lu-ca:
khoảng năm 85 – 90.
- Tin Mừng Gio-an: khoảng năm
90 – 95.
Kết luận
Có thể tóm kết
vấn đề tác giả, nơi biên soạn, độc
giả, niên biểu và tài liệu nguồn
biên soạn Tin Mừng thứ hai (Tin Mừng Mác-cô) như sau:
1. Tác giả:
Theo truyền
thống, tác giả là Mác-cô, thông ngôn của Phê-rô.
Theo nội dung
sách Tin Mừng thứ hai, tác giả không được nêu tên, đó là người sử dụng tiếng Hy
Lạp sống trong môi trường văn hoá La Tinh.
2. Nơi biên soạn:
Bản văn không cho
biết rõ nơi biên soạn, nhưng đa số tác giả cho rằng Rô Ma là nơi phù hợp hơn cả.
3. Độc giả:
Theo nội dung
sách Tin Mừng độc giả là các Ki-tô hữu dân ngoại, nhưng không loại trừ các
Ki-tô hữu gốc Do Thái.
4. Niên biểu:
Tin Mừng Mác-cô
biên soạn trong khoảng năm 68–73.
5. Tài liệu nguồn:
Có thể dựa vào
giả thuyết “nhiều nguồn văn” để thấy sự phức tạp trong việc hình thành các sách
Tin Mừng.
Những nét khái
quát về tác giả, nơi biên soạn, độc
giả, niên biểu và quá trình hình
thành Tin Mừng Mác-cô trên đây giúp độc giả đặt Tin Mừng Mác-cô trong bối cảnh
lịch sử, đồng thời nhận ra phần nào sự phức tạp của vấn đề. Thiết nghĩ, không
nên đi vào những tranh luận chi tiết, điều trong tầm tay có thể làm là đọc và
phân tích chính bản văn để tìm hiểu thông điệp sách Tin Mừng dành cho độc giả.
Trong hành trình đi tìm ý nghĩa của bản văn, độc giả sẽ thưởng thức được
những nét hay, nét đẹp, nét độc đáo của văn chương và thần học sách Tin Mừng
Mác-cô./.
Ngày 19 tháng 02 năm 2012.
Giu-se Lê Minh
Thông, O.P.
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/02/tac-gia-noi-bien-soan-oc-gia-nien-bieu.html
Email:
josleminhthong@gmail.com