Tìm hiểu TM Ga: “Ngày” và “đêm” trong tương quan với “ánh sáng” và “bóng tối”

 

 

 

Song song với tương phản: “Ánh sáng” – “bóng tối” như đã trình bày trong bài viết “Ánh sáng và bóng tối trong Tin Mừng Gio-an”, Tin Mừng thứ tư còn dùng cặp từ Hy Lạp tương ứng: “hêmera” (ngày) – “nux” (đêm). Bài viết này sẽ phân tích (1) đề tài “ngày” và “đêm” trong tương quan với “ánh sáng” và “bóng tối”, sau đó (2) trình bày sứ vụ công khai của Đức Giê-su như một ngày làm việc từ sáng sớm đến chiều tối. Cuối cùng sẽ bàn đến (3) tương quan giữa “ánh sáng” và “bóng tối”. Liệu có thể đặt “ánh sáng” và “bóng tối” trên cùng một bình diện hay không?

 

1. “Ngày” và “đêm”

 

Tin Mừng Gio-an dùng 31 lần danh từ Hy Lạp “hêmera” (ngày, ban ngày) và 6 lần danh từ Hy Lạp “nux” (đêm, ban đêm, đêm tối). 31 lần danh từ “hêmera” (ngày, ban ngày) xuất hiện ở các nơi: Ga 1,39; 2,1.12.19.20; 4,40.43; 5,9; 6,39.40.44.54; 7,37; 8,56; 9,4.14; 11,6.9a.9b.17.24.53; 12,1.7.48; 14,20; 16,23.26; 19,31; 20,19.26. Danh từ “nux” (đêm, ban đêm, đêm tối) xuất hiện 6 lần ở các nơi: Ga 3,2; 9,4; 11,10; 13,30; 19,39; 21,3. Có một số nơi trong Tin Mừng, “ban ngày” (ánh sáng) đối lập với “đêm tối” (bóng tối).

 

Ý tưởng “ngày – đêm” song song với “ánh sáng – bóng tối” xuất hiện ở ch. 9 và ch. 11. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 9,4: “Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày (hêmera); đêm (nux) đến thì không ai có thể làm việc được.” Đức Giê-su nói tiếp: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng (phôs) của thế gian” (9,5). Ở Ga 11,9-10, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Ban ngày (hêmera) chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày (hêmera) thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng (phôs) của thế gian này. Nhưng nếu ai đi ban đêm (nux), thì vấp ngã vì không có ánh sáng (phôs) ở nơi mình.”

 

Những trích dẫn trên cho thấy tương phản: “Ngày”  “đêm” ở 9,4-5 và 11,9-10 song song với tương phản: “ánh sáng”  “bóng tối”. Bao lâu Đức Giê-su còn hiện diện trong thế gian thì bấy lâu còn là “ngày”(hêmera), còn có “ánh sáng” (phôs). Lúc Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó là “đêm tối” (nux), là giờ của thế lực “bóng tối” (stokia), thế lực đen tối.

 

Trong bữa ăn cuối cùng của Đức Giê-su với các môn đệ (13,1-32), khi Giu-đa rời bữa ăn để thực hiện ý định nộp Đức Giê-su thì trời tối (nux). Người thuật chuyện kể: “Sau khi nhận lấy miếng bánh, ông ấy đi ra ngay lập tức. Lúc đó, trời đã tối (nux)” (13,30). “Trời tối” theo nghĩa đen, nhưng cũng gợi đến nghĩa biểu tượng. “Trời tối” bên ngoài ám chỉ “sự đen tối” trong lòng Giu-đa, vì ông đang thực hiện công việc của thế lực bóng tối. Sau đó, “Giu-đa dẫn một cơ đội và các thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu, ông đến đó với đuốc, đèn và khí giới” (18,3) để bắt Đức Giê-su. Chi tiết “đèn, đuốc” cho thấy Đức Giê-su bị bắt vào ban đêm. Có thể nói, “việc làm đen tối” được thực hiện trong “đêm tối”. Tóm lại, cặp từ “ngày” (hêmera)  “đêm” (nux) trong Tin Mừng thứ tư vừa mô tả thực tế khách quan về thời gian, vừa mang nghĩa biểu tượng và diễn tả ý nghĩa thần học.

 

2. Một ngày sứ vụ của Đức Giê-su

 

Những cặp từ đối lập trong Tin Mừng Gio-an: “ánh sáng – bóng tối”, “ngày - đêm” theo nghĩa biểu tượng dẫn đến câu hỏi: “Ánh sáng” chiến thắng hay thất bại trước “bóng tối”? Câu trả lời còn tùy thuộc vào cách đọc biến cố theo quan điểm nào. Tin Mừng trình bày cả hai cách đọc biến cố, dẫn đến hai kết luận trái ngược nhau: (1) “Ánh sáng” đã chiến thắng “bóng tối” (khẳng định của tác giả sách Tin Mừng). (2) “Bóng tối” đã thành công trong việc loại trừ “ánh sáng” (nhìn từ phía những người chống đối). Phân tích hai quan điểm trên giúp độc giả hiểu cách trình bày nghịch lý của sách Tin Mừng.

 

Về quan điểm “ánh sáng” chiến thắng “bóng tối”, người thuật chuyện đã gợi đến điều này ngay từ đầu sách Tin Mừng: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng” (Ga 1,5). Trong lời độc thoại của Đức Giê-su ở 3,13-21, tình yêu của Thiên Chúa dành cho thế gian được Đức Giê-su nói đến trước (3,16-17); sau đó Người mới nói đến thái độ tiêu cực của con người trước ánh sáng: “Yêu mến bóng tối” và “ghét ánh sáng” (3,19-20). Có thể nói, đề tài “ánh sáng là chính Đức Giê-su” đã chiến thắng “thế lực bóng tối là Quỷ, Xa-tan và những kẻ chống đối” được tác giả sách Tin Mừng trình bày cách minh nhiên hay mặc nhiên trong suốt Tin Mừng.

 

Tuy nhiên, trong thực tế lịch sử, quan điểm cho rằng “bóng tối” đã loại trừ được “ánh sáng”; “bóng tối” đã chiến thắng “ánh sáng” không phải là không có cơ sở. Bằng chứng hiển nhiên là Đức Giê-su là ánh sáng, nhưng Người đã chết treo trên thập giá. Tôn trọng sự kiện lịch sử này, tác giả Tin Mừng trình bày sứ vụ của Đức Giê-su như một ngày làm việc. Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ lúc sáng sớm và kết thúc vào lúc chiều tối. (Xem M. GOURGUES, En Esprit et en Vérité, Piste d’exploitation de l’évangile de Jean, (Sciences Bibliques 11), Montréal, Médiaspaul, 2002, p. 29-43).

 

Thực vậy, trong lời tựa Tin Mừng, người thuật chuyện giới thiệu Lời (Logos) là ánh sáng (1,5). Gio-an Tẩy giả không phải là ánh sáng, mà là người làm chứng cho ánh sáng (1,8). Lời (Logos) xuất hiện với kiểu diễn tả: “Ánh sáng đã đến thế gian”. Lời (Logos) là “Ánh sáng” ấy đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa nhân loại (1,14). Như thế, bình minh sứ vụ của Đức Giê-su khởi đầu với ch. 1. Người xuất hiện lần đầu tiên trong sách Tin Mừng ở 1,29, Người quy tụ các môn đệ và khởi đầu hành trình rao giảng.

 

Ngày làm việc của Đức Giê-su đến lúc giữa trưa trong ch. 8–9. Trong khi tranh luận với giới lãnh đạo Do-thái, Đức Giê-su tuyên bố: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắn chắn sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống” (8,12). Sang ch. 9, Đức Giê-su không nói với những kẻ chống đối, nhưng nói với các môn đệ: “4Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày; đêm đến thì không ai có thể làm việc được. 5Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian” (9,4-5). Hai lần Đức Giê-su khẳng định Người là ánh sáng cho thế gian. Lần thứ nhất Người nói với những kẻ chống đối (8,12), lần thứ hai Người nói với các môn đệ (9,5). Về phía độc giả, đề tài “Đức Giê-su là ánh sáng cho thế gian” (8,12; 9,5) được nhấn mạnh vào giữa sứ vụ công khai của Người. Như thế, ch. 8–9 là “đỉnh cao” sứ vụ của Đức Giê-su, như là vào lúc “giữa trưa”, vào “giữa thời gian thi hành sứ vụ”, nghĩa là “ở giữa sách các dấu lạ (Ga 1–12)”.

     

Sứ vụ của Đức Giê-su ngả về chiều ở ch. 12. Khi ánh sáng sắp tắt, Đức Giê-su mời gọi đám đông: “Khi các người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (12,36). Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su là đêm tối, ánh sáng không còn nữa khi Người trút hơi thở cuối cùng trên thập giá. Đó là sự kiện lịch sử bên ngoài, nhưng sách Tin Mừng không dừng lại ở đó. Người thuật chuyện đề nghị cách hiểu biến cố theo quan điểm của Đức Giê-su: “ánh sáng” đã chiến thắng “bóng tối”. Sự chiến thắng này không dựa vào sự kiện lịch sử, nhưng dựa trên mặc khải.

 

3. Không đón nhận “ánh sáng” là ở trong “bóng tối”

 

Theo cách trình bày của Tin Mừng Gio-an, hai thế lực “ánh sáng” và “bóng tối” không ở trên cùng một bình diện. Theo Tin Mừng thứ tư, bóng tối hiện diện là do con người từ chối đón nhận ánh sáng. G. Stemberger viết: “Với sự tự do Thiên Chúa đã ban cho con người, bóng tối nẩy sinh khi con người nói không với ánh sáng của Thiên Chúa. Vì thế, bóng tối là sự hư vô mà người ta ưa chuộng hơn sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bóng tối không phải là một cái gì có sự bền vững tự nó, nhưng bóng tối là sự phủ định [ánh sáng]” (G. STEMBERGER,La symbolique du bien et du mal selon saint Jean, (Parole de Dieu), Paris, Le Seuil, 1970, p. 46).

 

Về thực chất, không có sự đối lập ngang hàng giữa “ánh sáng” và “bóng tối”. “Bóng tối” ám chỉ sự từ chối đón nhận “ánh sáng”. “Bóng tối” ở đây ám chỉ thế lực chống đối và thù ghét. Tin Mừng đã trung thành thuật lại biến cố thập giá, nhưng trên bình diện thần học, qua biến cố Thương Khó, Đức Giê-su về với Cha của Người, Người được Cha tôn vinh. Điều này minh chứng “ánh sáng” đã chiến thắng “bóng tối”. Sự chiến thắng này mang tính quyết định, một lần cho tất cả. Khi Đức Giê-su được tôn vinh trên thập giá, “ánh sáng” đã hoàn toàn chiến thắng và thế lực “bóng tối” đã hoàn toàn bị đánh bại.

 

Đức Giê-su nhiều lần báo trước sự chiến thắng của ánh sáng và sự thất bại của bóng tối. Khi giờ của Người đã đến, Người nói với đám đông: “Bây giờ là lúc xét xử thế gian này. Bây giờ thủ lãnh thế gian này sẽ bị tống ra ngoài” (12,31). Ở 14,30, Đức Giê-su cho biết thủ lãnh thế gian này không có quyền gì trên Người, đến 16,11 thì: “Thủ lãnh của thế gian này đã bị xét xử”. Cuối ch. 16, Đức Giê-su tuyên bố: “Trong thế gian, anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm, Chính Thầy đã thắng thế gian” (16,33). Như thế, Đức Giê-su là ánh sáng, đã hoàn toàn chiến thắng trong vụ kiện giữa “ánh sáng” và “bóng tối”. Nhưng sự chiến thắng của Đức Giê-su được trình bày cách nghịch lý. Đức Giê-su chiến thắng chính trong lúc Người chịu chết trên thập giá.

 

Kết luận

 

Sách Tin Mừng trình bày mặc khải thần học bằng cách thuật lại những biến cố lịch sử khách quan và cho biết ý nghĩa của những biến cố đó. Vì thế, cần đọc biến cố trên cả hai bình diện: Lịch sử và mặc khải. Trên bình diện lịch sử, thế lực bóng tối đã thành công: loại trừ ánh sáng ra khỏi thế gian, Đức Giê-su đã chết trên thập giá. Trên bình diện mặc khải, giờ chết của Đức Giê-su cũng là lúc Người được tôn vinh, lúc Người về với Cha, lúc Người thực sự chiến thắng thế gian, chiến thắng thế lực bóng tối. Chính vì hai bình diện này tồn tại song song, nên vụ kiện trong Tin Mừng thứ tư vẫn tiếp diễn nơi cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I và sẽ kéo dài mãi trong lịch sử nhân loại.

 

Đức Giê-su là ánh sáng đến trong thế gian, sự xuất hiện của Người đặt nhân loại trước một vụ kiện lớn giữa “ánh sáng” và “bóng tối”. Mỗi người, ở mọi nơi, mọi thời, cần lựa chọn đứng về phía nào trong vụ kiện này: “Đến với ánh sáng” (3,21) hay “yêu mến bóng tối” (3,19); thuộc về Thiên Chúa (8,47) hay thuộc về quỷ (8,44). Như thế, đề tài “ánh sáng” và “bóng tối”, “ngày” và “đêm” là hai cột trụ xây dựng thần học Tin Mừng thứ tư. Qua đề tài này, tình yêu và ý định cứu độ của Thiên Chúa được khẳng định, đồng thời tùy theo cách đáp trả của con người: đón nhận hay khước từ ánh sáng mà con người có sự sống hay bị hư mất.

 

Với những hình ảnh mang tính khái quát: “ánh sáng”, “bóng tối”,“ngày” và “đêm”, những đề tài này liên quan đến tất cả mọi người. Mục đích của sách Tin Mừng là lời mời gọi tin vào Đức Giê-su. Tác giả kết luận sách Tin Mừng: “Những điều đã được ghi chép là để anh em tin rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và nhờ tin, anh em có sự sống trong danh của Người” (20,31). Vì thế, toàn bộ sách Tin Mừng là lời mời gọi, lời đề nghị hãy “đến với ánh sáng” (3,21), “tin vào ánh sáng” (12,36) và “bước đi trong ánh sáng” (8,12; 11,10) để có sự sống đích thực.

 

Sách Tin Mừng mời gọi độc giả tôn trọng lịch sử: Đấng ban sự sống đã chết trên thập giá. Qua đó đọc ra được ý nghĩa của biến cố để tuyên xưng niềm tin như Tô-ma trước Đức Giê-su Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (20,28). Tuyên xưng Đức Giê-su đã chết trên thập giá, đã Phục Sinh, là “Chúa” (kurios) và là “Thiên Chúa” (theos) là bằng chứng hùng hồn về sự chiến thắng của “ánh sáng ban ngày” trên “bóng tối ban đêm” theo thần học Tin Mừng Gio-an. Xemphân tích các đề tài “ngày và đêm”, “ý nghĩa đối lập ánh sáng – bóng tối” trong tập sách YÊU và GHÉT trong Tin Mừng Gio-an, phần II, tr. 57-67.

 

 

Ngày 22 tháng 04 năm 2012

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/04/tim-hieu-tm-ga-ngay-va-em-trong-tuong.html

Email: josleminhthong@gmail.com

 


Mục Lục Kinh Thánh