Tin Mừng Gioan: Không thực sự và thực sự đến với Đức Giê-su, thấy Người, và tin vào Người



 

 

[The article in English]

Gospel of John: False and True Coming to Jesus, Seeing Him, and Believing in Him

 

 

Tác giả: Giuse LÊ MINH THÔNG, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ 
josleminhthong@gmail.com

Ngày 19 tháng 08 năm 2012

 

Nội dung

 

I. Dẫn nhập  

II. Không thực sự đến với, thấy  tin vào Đức Giê-su

1. Không thực sự đến với Đức Giê-su

2. Không thực sự thấy và tin

III. Thực sự “đến với”, “thấy” và “tin vào Đức Giê-su”

1. Thực sự đến với Đức Giê-su

2. Thực sự “thấy” và “tin”

IV. Thực sự tin vào Đức Giê-su dù không thấy Người

V. Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

 

 

I. Dẫn nhập  

 

Trong Tin Mừng Gio-an, người thuật chuyện thường dùng các động từ “đến với”, “thấy” và “tin vào” với đối tượng là Đức Giê-su. Quan sát lối hành văn này sẽ giúp những ai muốn thiết lập tương quan đích thực với Đức Giê-su, đạt được kết quả mong đợi. Các động từ tiếng Hy Lạp là “erkhomai” (đến), “pisteuô” (tin); bốn động từ Hy Lạp trong Tin Mừng Gio-an: “horaô”, “theôreô”, “theaomai” và “blepô” đều có nghĩa là “thấy”. Xét theo bối cảnh văn chương Tin Mừng Gio-an thì không có sự khác biệt lớn về ngữ nghĩa giữa bốn động từ Hy Lạp trên đây.

 

Có hai cách hiểu ngược nhau về đề tài “đến với Đức Giê-su”, “thấy Người” và “tin vào Người” trong Tin Mừng Gio-an. Người ta có thể đến với Đức Giê-su về thể lý, nhưng họ không “thực sự đến với” Đức Giê-su như người thuật chuyện mong muốn. Tương tự như thế, các thính giả trong Tin Mừng Gio-an có thể “thấy” Đức Giê-su về thể lý, ngay cả họ đã tin vào Người, nhưng họ đã không thực sự thấy Đức Giê-su và không thực sự tin vào Người. Có thể xác định những cách thức “đến”, “thấy” và “tin” trái ngược nhau này bằng các tính từ: “không thực sự” (false) hay “thực sự” (true). Người ta có thể “không thực sự” hay “thực sự” đến với Đức Giê-su; “không thực sự” hay “thực sự” thấy Người và “không thực sự” hay “thực sự” tin vào Người.

 

Làm thế nào độc giả có thể phân biệt “thật” hay “không thật” trong tiến trình “đến với”, “thấy” và “tin vào” Đức Giê-su? Bài viết này tập trung quan sát một số đoạn văn trong Tin Mừng Gio-an để hiểu đúng lời mời gọi của Đức Giê-su, liên quan đến ba động từ “đến”, “thấy” và “tin”. Đề tài sẽ được phân tích với ba mục lớn: (I) Không thực sự đến với Đức Giê-su, thấy Người và tin vào Người. (II) Thực sự đến với Đức Giê-su, thấy Người và tin vào Người. (III) Thực sự tin vào Đức Giê-su dù không thấy Người. Các trích dẫn Tin Mừng Gio-an lấy trong Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ, Hy Lạp – Việt. Tiếng Hy Lạp Tin Mừng Gio-an lấy trong NESTLE-ALAND, Novum Testamentum Graece, (NTG), (27th Revised Edition), 1996.

 

II. Không thực sự đến với, thấy  tin vào Đức Giê-su

 

Bài viết “Bánh hằng ngày và bánh hằng sống” đã trình bày đề tài “hiểu lầm” của đám đông về dấu lạ bánh hoá nhiều và hiểu lầm về chính Đức Giê-su trong Ga 6. Chúng ta cũng tìm thấy trong Ga 6 hiện tượng “thực sự” hay “không thực sự” trong hành động “đến với”, “thấy” và “tin vào Đức Giê-su”. Bài viết này sẽ dùng Ga 6 và một số đoạn văn khác trong Tin Mừng Gio-an để phân tích.    

 

1. Không thực sự đến với Đức Giê-su

 

Sau dấu lạ bánh hoá nhiều, Đức Giê-su thực hiện ở 6,5-13, người thuật chuyện cho độc giả biết: “Khi thấy dấu lạ Người [Đức Giê-su] làm, người ta [đám đông] nói: ‘Ông này thực sự là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian’” (6,14). Lời kể của người thuật chuyện cho thấy rằng: Dường như đám đông đã nhận ra Đức Giê-su là ai sau khi họ “thấy dấu lạ Đức Giê-su làm”. Nhưng trong câu tiếp theo (6,15), độc giả biết rằng đám đông đã hiểu không đúng ý nghĩa của dấu lạ và họ cũng không biết Đức Giê-su thực sự là ai. Người thuật chuyện nói về sự hiểu biết của Đức Giê-su và ý định của đám đông ở 6,15: “Đức Giê-su biết họ sắp đến và bắt lấy Người để tôn làm vua. Một lần nữa, Người đi lên núi một mình.”

 

Trong câu “Một lần nữa, Người đi lên núi một mình” (6,15b) có động từ Hy Lạp “anakhôreô” (đi), động từ này được hiểu theo nghĩa “lánh đi” (retire), “rút lui” (withdraw), bởi vì dân chúng muốn bắt Người và tôn Người làm vua. Đức Giê-su không chấp nhận điều đó, nên Người rời khỏi đó và đi lên núi một mình. Tính từ “một mình” (alone), gợi đến sự “cô đơn” (loneliness) của Đức Giê-su vì dân chúng đã không hiểu Người. Đồng thời, hình ảnh Đức Giê-su “đi lên núi (oros)” cho phép hiểu theo nghĩa tích cực. Trong Kinh Thánh “núi” biểu tượng nơi Thiên Chúa hiện diện. Vì thế, Đức Giê-su đi lên núi một mình diễn tả sự thân mật trong tương quan giữa Người với Chúa Cha. RudolfSCHNACKENBURG viết: “Sự ‘đơn độc’ của Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an cũng diễn tả sự thân mật riêng tư với Cha của Người (cf. 8,16.29; 16,32)” (SCHNACKENBURG, The Gospel, II, p. 20). Lời kể ở 6,15 trên đây cho thấy cách thức đám đông tìm đến với Đức Giê-su là không đúng, bằng chứng là Đức Giê-su đã từ chối ý định của họ. Thay vì đến với họ, Đức Giê-su đã lánh khỏi họ mà đi lên núi một mình. Như thế, đám đông đến với Đức Giê-su là vì hiểu lầm vai trò và sứ vụ của Đức Giê-su, nói cách khác, họ đã không thực sự đến với Đức Giê-su.

 

Ở đoạn văn 5,39-40, Đức Giê-su đang nói với những người Do Thái. Họ đến với Đức Giê-su và đối thoại với Người nhưng thực ra họ “không đến với Đức Giê-su” theo nghĩa thần học. Đức Giê-su nói với họ: “39 Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì chính các ông nghĩ rằng trong đó có sự sống đời đời. Chính Kinh Thánh là những lời chứng về Tôi. 40 Các ông không muốn đến với Tôi để có sự sống” (5,39-40). Nhóm “những người Do Thái” trong Tin Mừng Gio-an đã lầm khi tìm sự sống đời đời trong Kinh Thánh mà lại  “không đến với Đức Giê-su” để đón nhận sự sống đời đời từ nơi Người. Trong lời nói của Đức Giê-su: “Các ông không muốn đến với Tôi để có sự sống” (5:40), cụm từ “đến với Đức Giê-su” có nghĩa là “đón nhận Người”, “tin vào Người”. Như thế, động từ “đến” trong câu trên có nghĩa thần học. Tương tự như đám đông ở Ga 6, những người Do Thái tìm Đức Giê-su và đến với Người ở Ga 5, nhưng mục đích của họ không phải là “đón nhận” và “tin vào” Người. Ngược lại, họ đến với Đức Giê-su để chất vấn và kết tội Người, vì thế họ chưa thực sự đến với Đức Giê-su theo nghĩa thần học của động từ này.       

 

2. Không thực sự thấy và tin

 

Những phân tích trên đây cho thấy đám đông ở Ga 6 đã thấy dấu lạ Đức Giê-su làm (6:14), nhưng đây không phải là thấy thực sự. Đức Giê-su xác định điều này khi Người nói với đám đông ở 6,36: “Các ông đã thấy (heôrakate) [Tôi] mà các ông không tin.” Nếu như “thấy Đức Giê-su” không dẫn đến lựa chọn “tin vào Người” thì đó không phải là thấy thực sự.

 

Người thuật chuyện tóm kết hoạt động của Đức Giê-su khi Người ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua ở 2,23-24. Có sự nối kết giữa “thấy các dấu lạ” với “tin vào Đức Giê-su” trong câu 2,23. Người thuật chuyện kể: “Trong lúc Người [Đức Giê-su] ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm” (2,23). Tuy nhiên “Đức Giê-su, chính Người không tin họ” (2,24a).

 

Người thuật chuyện dùng 2 lần động từ “tin” (pisteuô) ở 2,23-24 với sự tương phản mạnh mẽ. Động từ “tin” (pisteuô) xuất hiện lần thứ nhất ở 2,23, cho biết nhiều người đã tin vào Đức Giê-su khi thấy những dấu lạ Người làm (2,23). Động từ “tin” (pisteuô) xuất hiện lần thứ hai ở 2,24, nói rằng chính Đức Giê-su đã không tin vào niềm tin của họ (2,24). Như thế lòng tin của nhiều người trong trường hợp này chưa phải là “tin thực sự”.

 

Trước phần tóm kết của người thuật chuyện ở 2,23-24, các môn đệ đã tin vào Đức Giê-su sau khi thấy Đức Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên ở Ca-na (2,1-10). Sau khi hoá nước lã thành rượu ngon, người thuật chuyện kết luận: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na, miền Ga-li-lê, Người đã tỏ vinh quang của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào Người” (2,11). Đây là trường hợp lòng tin đích thực nhờ thấy dấu lạ. Còn ở 2,23 nhiều người cũng tin nhờ thấy dấu lạ nhưng lòng tin ấy chưa thoả đáng, cần được nuôi dưỡng và phát triển để đạt tới lòng tin đích thực.

 

Ở 8,31, lòng tin của những người Do Thái hoàn toàn không phải là lòng tin đích thực. Thật vậy, trong đoạn văn 8,21-30, Đức Giê-su tranh luận với “những người Do Thái” (8,22) về sứ vụ của Người và về tương quan giữa Người với Chúa Cha. Ở 8,27, người thuật chuyện cho biết: “Họ không biết là Người [Đức Giê-su] nói với họ về Cha” (8,27). Trong hai câu tiếp theo (8,28-29), Đức Giê-su tiếp tục mặc khải về sứ vụ của Người và về Chúa Cha. Cuối cùng người thuật chuyện kết đoạn văn cách lạ lùng như sau: “Khi Người nói những điều ấy, nhiều người đã tin vào Người” (8,30). Kế đến, người thuật chuyện mở đầu đoạn văn mới (8,31-59) ở 8,31-32: “31 Vậy, Đức Giê-su nói với những người Do Thái đã tin Người: ‘Nếu các ông ở lại trong lời của Tôi các ông thực sự là môn đệ của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông.’” Tiếp nối lời này là phần tranh luận ngày càng gay gắt giữa Đức Giê-su và những người Do Thái cho đến hết chương 8 (8,59). Câu hỏi đặt ra là lòng tin của những người Do Thái ở 8,31 có phải là lòng tin thực sự vào Đức Giê-su hay không?

 

Điều đáng chú ý ở 8,30 là cách dùng động từ “tin vào” trong tiếng Hy Lạp: “episteuô eis”, theo sau là đại từ ở đối cách (accusative); trong khi ở 8,31, kiểu nói “tin vào” trong tiếng Hy Lạp là “episteuô”, theo sau là đại từ ở tặng cách (dative). Thông thường cách diễn tả “episteuô eis + đối cách” (tin vào [ai]) diễn tả lòng tin đích thực theo Tin Mừng Gio-an. Tuy nhiên, không nên áp dụng nghĩa này cách máy móc. Chẳng hạn ở 2,23 cũng xuất hiện cách dùng “episteuô eis + đối cách” (tin vào [ai]) nhưng đó chưa phải là lòng tin đích thực. Cách dùng khác của động từ “tin” (pisteuô) là “episteuô en + tặng cách” hay “episteuô + tặng cách”. Nói chung cách dùng này diễn tả lòng tin còn khiếm khuyết, chưa trọn vẹn. Tuy nhiên, cần chú ý đến bối cảnh văn chương của đoạn văn để xác định nghĩa của các cách dùng trên.

 

Bối cảnh văn chương của hai đoạn văn 8:21-30 và 8:31-59 cho phép kết luận rằng: Lòng tin của những người Do Thái ở 8,31 không phải là lòng tin đích thực vào Đức Giê-su. Họ đã không thực sự tin, bởi vì họ không đón nhận lời giáo huấn của Đức Giê-su, họ đã phản ứng chống lại Người càng lúc càng dữ dội. Sự kết án qua lại trong cuộc tranh luận giữa Đức Giê-su và những người Do Thái rất nặng nề. Đức Giê-su nói với những người Do Thái: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông” (8,44a). Đáp lại, những người Do Thái kết tội Đức Giê-su: “Ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám” (8,48). Trầm trọng hơn, những người Do Thái đang tìm cách giết Đức Giê-su (8,37) và cuối đoạn văn họ đã ném đá Người. Trình thuật mở đầu bằng lòng tin của những người Do Thái (8,31) nhưng lại kết thúc như sau: “Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su ẩn mình và đi ra khỏi Đền Thờ” (8,59).

 

Thái độ không đón nhận Đức Giê-su và thù nghịch với Người trong đoạn văn 8,31-59 không thể dung hoà với lòng tin đích thực vào Đức Giê-su. Ngay từ đầu đoạn văn Đức Giê-su mời gọi những người Do Thái: “31b Nếu các ông ở lại trong lời của Tôi các ông thực sự là môn đệ của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông” (8,31b-32). Những người Do Thái trong đoạn văn không “thực sự là môn đệ của Đức Giê-su” vì họ đã không “ở lại trong lời của Người”, nghĩa là họ đã không lắng nghe và đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su. Nói cách khác, lòng tin của những người Do Thái ở 8,31 không phải là lòng tin đích thực.

 

III. Thực sự “đến với”, “thấy” và “tin vào Đức Giê-su”

 

1. Thực sự đến với Đức Giê-su

 

Trong bài viết: “Bánh hằng ngày và bánh hằng sống”, chúng tôi đã trình bày sự song song giữa hai đoạn văn 6,25-34 và 4,9-15, về đề tài “sự hiểu lầm của thính giả” (xem bảng song song giữa hai đoạn văn trong bài viết trên). Sau lời xin của đám đông ở 6,34: “Thưa Ngài, hãy cho chúng tôi bánh ấy luôn mãi”, Đức Giê-su mặc khải Người là “bánh sự sống” (6,35). Ý tưởng “thực sự đến với Đức Giê-su” và “thực sự tin vào Người” trong câu 6,35, song song và nối kết hiển nhiên với 7,37-38:

 

[6,35] Đức Giê-su nói với họ [đám đông]: “Chính Tôi là bánh sự sống, người đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ.”

 

[7,37-38] 37 Vào ngày cuối cùng, ngày long trọng nhất của dịp lễ, Đức Giê-su đứng lên và lớn tiếng nói: “Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống. 38 Người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: ‘Từ lòng người ấy sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống.’”

 

Ở 6,35, bất cứ ai đến với Đức Giê-su thì không hề đói, và bất cứ ai tin vào Đức Giê-su sẽ chẳng khát bao giờ. Đức Giê-su mời gọi mọi người “đến với” và “tin vào” Người để không bao giờ phải đói và khát nữa. Đây là “đến thực sự” và “tin thực sự” vào Đức Giê-su, bởi vì cách thức “đến” và “tin” này đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời. Trong lời mặc khải của Đức Giê-su ở 6,35, hai ý tưởng “không hề đói” và “chẳng khát bao giờ” song song và tương ứng với “đến với Đức Giê-su” và “tin vào Người”. Cách hành văn này xác định nghĩa của các động từ “đến” và “tin”: Thực sự “đến với Đức Giê-su” bao hàm hành động “tin vào Người” và ngược lại, thực sự “tin vào Đức Giê-su” hàm ẩn hành động lựa chọn thực sự “đến với Người” (xem phân tích về“Bánh làm thoả mãn mọi đói khát của con người” trong bài viết “Bánh hằng ngày và bánh hằng sống”).

 

Sự năng động và liên kết chặt chẽ giữa “đến với” và “tin vào Đức Giê-su” xuất hiện trở lại ở 7,37-38. Vào ngày cuối cùng, ngày long trọng nhất của Lễ Lều, Đức Giê-su mời gọi mọi người “đến với” và “tin vào Người” qua hình ảnh “khát nước” và “uống nước”. Đoạn văn 7,37-38 mô tả tiến trình “thực sự đến với Đức Giê-su” và hành động “thực sự tin vào Người”, bởi vì bất cứ ai uống nước sự sống Đức Giê-su ban tặng sẽ làm cho lòng người ấy “tuôn chảy những dòng nước sự sống”  (7,38). Có hai cách ngắt câu ở 7,37-38. Trong trường hợp này, chấm câu khác nhau dẫn đến sự khác nhau quan trọng về ý nghĩa câu văn.  

 

(1) Về cách ngắt câu thứ nhất, bản văn Hy Lạp NESTLE-ALAND,Novum Testamentum Graece, 27th Edition, chọn cách ngắt câu như sau: “Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống. Người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: ‘Từ lòng người ấy sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống’” (7,37-38). Dấu chấm đặt cuối câu: “Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống”, tách rời câu này với câu tiếp theo: “Người tin vào Tôi...”.  Trong trường hợp này, lời Kinh Thánh “Từ lòng người ấy sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống” (7,38) là nói về “Người tin vào Đức Giê-su”. Cụm từ “Từ lòng người ấy” trong lời Kinh Thánh là “từ lòng người tin vào Đức Giê-su”. Như thế, lời Kinh Thánh áp dụng cho người tin. Cách ngắt câu này phù hợp với lời giải thích của người thuật chuyện ở 7,39: “Điều đó, Người [Đức Giê-su] nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Tuy nhiên, Thần Khí chưa có, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh.” “Tôn vinh” ở đây gợi đến biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Cách hiểu này nối kết với ý tưởng trong lời Đức Giê-su nói với người phụ nữ Sa-ma-ri ở 4,14: “Nhưng ai uống nước mà chính Tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không khát. Nhưng nước mà Tôi sẽ ban cho người ấy sẽ trở nên nơi người ấy một mạch nước vọt lên sự sống đời đời.”

 

(2) Cách ngắt câu thứ hai 7,37-38 như sau: “Nếu ai khát hãy đến với Tôi, và hãy uống người tin vào Tôi, như Kinh Thánh đã nói: ‘Từ lòng Người sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống’”. Cách ngắt câu này không có dấu chấm sau câu “Nếu ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống”. Cách ngắt câu này  nối kết ý tưởng “người tin vào Tôi” (7,38a) với phần trước (7,37b) làm thành câu văn như sau: “Nếu ai khát hãy đến với Tôi, và hãy uống người tin vào Tôi” (7,37b-38a). Trong trường hợp này, cụm từ “Từ lòng người ấy” trong lời Kinh Thánh được hiểu là “từ lòng Đức Giê-su”. Như thế, lời Kinh Thánh áp dụng cho Đức Giê-su. Cách hiểu này có thể nối kết với biến cố, nước và máu tuôn trào từ cạnh sườn Đức Giê-su trên thập giá. Người thuật chuyện kể: “Một trong những người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn của Người [Đức Giê-su], và ngay tức thì, máu và nước chảy ra” (19,34).

 

Raymond E. Brown và một số tác giả chọn cách chấm câu thứ hai: “Ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống người tin vào Tôi” (xem giải thích của tác giả trong BROWN, The Gospel, vol. I, p. 320-322). Chúng tôi chọn theo cách ngắt câu của bản văn Hy Lạp trong Novum Testamentum Graece, 1996. Cùng với nhiều tác giả khác, chúng tôi cho rằng cách ngắt câu thứ nhất: “Ai khát hãy đến với Tôi và hãy uống. Người tin vào Tôi...” phù hợp hơn với mạch văn. Ý tưởng này đã được nói đến ở 4:14. Hơn nữa xét về văn phạm Hy Lạp, câu trích Kinh Thánh ở 7,38b: “Từ lòng người sẽ tuôn chảy những dòng nước sự sống” liên kết tự nhiên hơn với “người  tin vào Đức Giê-su” (7,38a), được nói đến ngay trước đó. Tuy nhiên, dù cách ngắt câu nào đi nữa, cũng có sự liên kết hiển nhiên giữa “đến với Đức Giê-su” và “tin vào Người”. Tương tự như ở 6,35, trong đoạn văn 7,37-38, “thực sự đến với Đức Giê-su” không thể tách rời khỏi lựa chọn “tin vào Người” và ngược lại. Tin Mừng Gio-an còn diễn tả tiến trình này qua nối kết giữa hai động từ “thấy” và “tin”: “thực sự thấy Đức Giê-su” và “thực sự tin vào Người”.   

 

2. Thực sự “thấy” và “tin”

 

Đức Giê-su diễn tả ý tưởng “thấy thực sự” ở 6,40. Người nói với đám đông: “Đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời, và chính Tôi sẽ làm cho người ấy sống lại [trong] ngày sau hết” (6,40). Trong lời mặc khải này, “thấy Con” (theôreô ton huios) có nghĩa là thấy Đức Giê-su bởi vì chính Người là “Con Một Thiên Chúa là Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha” (1,18). Ở 6,40, Đức Giê-su nói đến “thấy thực sự”, bởi vì được nối kết với hành động “tin vào Đức Giê-su” và dẫn đến kết quả là “có sự sống đời đời”.  

 

Người thuật chuyện mời gọi độc giả “thấy” dấu lạ, như các môn đệ đã nhận ra sau dấu lạ nước hoá thành rượu ở 2,11. Theo người thuật chuyện, dấu lạ nước hoá thành rượu ngon là cách thức Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã nhận ra và đã tin vào Người: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na, miền Ga-li-lê, Người đã tỏ vinh quang của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào Người” (2,11). Ở 6,40, Đức Giê-su mời gọi mọi người “thấy” Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa” và tin vào Người. Lời mời gọi “thấy” và “tin” này được thực hiện vào cuối sách Tin Mừng Gio-an.

 

Khi Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác, người Đức Giê-su thương mến, đi ra mộ Đức Giê-su, vào ngày thứ nhất trong tuần (20,1-7), họ không thấy Đức Giê-su trong mộ, họ chỉ “6b thấy những băng vải còn để đó, 7 và khăn che đầu của Người không để với những băng vải, nhưng cuốn lại để riêng ra một nơi” (20,6b-7). Người thuật chuyện cho độc giả biết về người môn đệ Đức Giê-su thương mến như sau: “Ông ấy đã thấy và đã tin” (20,8b). Như thế, người môn đệ Đức Giê-su thương mến là người đầu tiên đã tin vào Đức Giê-su trước khi Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ vào tối ngày hôm đó (20,19-23). Cách thức “thấy” và “tin” của người môn đệ Đức Giê-su thương mến được đề cao trong trình thuật, đó là “thấy thực sự” và “tin thực sự”. Điều đáng chú ý là người môn đệ này “đã thấy” và “đã tin” trong khi “không thấy Đức Giê-su”, ông chỉ thấy ngôi mộ trống, thấy khăn che đầu và những băng vải. Ý tưởng “không thấy Đức Giê-su mà tin” sẽ trở thành lời chúc phúc ở cuối sách Tin Mừng Gio-an.      

 

IV. Thực sự tin vào Đức Giê-su dù không thấy Người

 

Đoạn văn Đức Giê-su hiện ra với Tô-ma ở 20,24-29 cho thấy sự chuyển tiếp giữa hai giai đoạn: (1) Giai đoạn tin vào Đức Giê-su nhờ thấy Người. (2) Giai đoạn tin vào Đức Giê-su mà không thấy Đức Giê-su thể lý. Khi Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ ở 20,29-23, “Các môn đệ vui mừng thấy Chúa” (20,20), “Nhưng Tô-ma, một người trong Nhóm Mười Hai, gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến” (20,24). Tô-ma nói với các môn đệ khác rằng: “Nếu tôi không thấy tay Người với những dấu đinh, và đặt ngón tay của tôi vào những dấu đinh, và đặt tay của tôi vào cạnh sườn Người, tôi không tin” (20,25). Yêu cầu của Tô-ma là chính đáng, bởi vì các môn đệ khác đã thấy Đức Giê-su Phục Sinh và đã tin, Tô-ma cũng cần thấy Đức Giê-su để tin.

 

Mong muốn của Tô-ma được thực hiện, vì tám ngày sau, Đức Giê-su lại hiện ra với các môn đệ và Người nói với Tô-ma: “Đưa ngón tay của anh vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay của anh ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng trở thành người không tin, nhưng là người tin” (20,27). Đối với các môn đệ đã đi theo Đức Giê-su trong sứ vụ trần thế của Người, lòng tin của họ dựa trên “thấy Đức Giê-su”, “thấy các dấu lạ” Người làm và “lắng nghe giáo huấn” của Người. Nhưng đối với những người tin sau khi Đức Giê-su về với Cha của Người, nghĩa là các môn đệ từ thế hệ thứ hai trở đi, họ không còn tin vào Đức Giê-su theo cách thức “thấy” tận mắt và “nghe” trực tiếp từ nơi Người nữa.

 

Lời tuyên xưng của Tô-ma với Đức Giê-su Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (20,28) đã bày tỏ lòng tin đích thực của ông. Đồng thời, đây cũng là lời tuyên xưng lòng tin của tất cả các môn đệ ở mọi thời mọi nơi. Lời tuyên xưng lòng tin vào Đức Giê-su cách long trọng vào cuối sách Tin Mừng Gio-an: “Lạy Chúa của con, lạyThiên Chúa của con” (20,28) nối kết với lời tuyên xưng niềm tin của tác giả sách Tin Mừng về căn tính của Đức Giê-su là Lời (Logos) trong câu đầu tiên của sách Tin Mừng. Tác giả khẳng định cách long trọng: “Lời (Logos) có lúc khởi đầu, và Lời (Logos) ở với Thiên Chúa, và Lời (Logos) là Thiên Chúa” (1,1). “Lời đã trở thành người phàm” (1,14) và Lời ấy là “Con Một Thiên Chúa là Đấng hằng ở nơi cung lòng Cha,chính Đấng ấy đã kể cho chúng ta” (1,14). Thật vậy, trong toàn bộ sứ vụ công khai, Đức Giê-su đã kể về Chúa Cha và mặc khải về tình yêu Chúa Cha dành cho nhân loại (3,16). Đến cuối Tin Mừng, môn đệ Tô-ma đã nhận ra căn tính đích thực của Đức Giê-su: Người là Chúa và là Thiên Chúa. Lời khẳng định của tác giả sách Tin Mừng ở 1,1 song song với lời tuyên xưng của Tô-ma làm thành “lời mở” và “lời kết” của sách Tin Mừng.

 

Lời Đức Giê-su nói với Tô-ma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin? Phúc cho những người không thấy mà  những người tin” (20,29) là lời chúc phúc cho tất cả những ai không thấy Đức Giê-su thể lý mà tin vào Người. Một khi Đức Giê-su đi về với Cha của Người và Đấng pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – được ban xuống cho các môn đệ (16,7), thì một giai đoạn mới, một cách thức tin mới đã khai sinh: Tin vào Đức Giê-su dù không thấy Người. Kể từ thế hệ thứ hai, các môn đệ tin vào Đức Giê-su là nhờ lời rao giảng về Đức Giê-su. Đức Giê-su đã cầu nguyện cho họ ở 17,20. Người ngỏ lời với Cha của Người: “Con không chỉ can thiệp cho những người này [các môn đệ thuộc thế hệ thứ nhất], nhưng còn cho những người tin vào Con nhờ lời của họ [các môn đệ kể từ thế hệ thứ hai trở về sau]” (17,20). Với lời chúc phúc của Đức Giê-su: “Phúc cho những người không thấy mà  những người tin” (20,29b), các độc giả tin vào Đức Giê-su qua mọi thời đại nhận ra rằng, chính mình đón nhận lời chúc phúc từ chính Đức Giê-su Phục Sinh, bởi vì họ là những người “không thấy mà  những người tin” (20,29b).

 

Kiểu nói “không thấy mà tin” được hiểu theo nghĩa không thấy Đức Giê-su về mặt thể lý. Còn trên bình diện tâm linh, Đức Giê-su vẫn luôn luôn hiện diện với các môn đệ của Người. Đức Giê-su đã hứa với các môn đệ ở 14,20: “Trong ngày đó, anh em sẽ biết rằng: Thầy trong Cha Thầy, anh em trong Thầy và Thầy trong anh em.” Thực ra, sự hiện diện thể lý của Đức Giê-su bị giới hạn trong không gian và thời gian. Trong khi sự hiện diện tâm linh cho phép Đức Giê-su ở với các môn đệ khắp mọi nơi, ở mọi thời. Bản chất hiện diện của Đức Giê-su nơi các môn đệ là từ hai phía: “Đức Giê-su ở trong người tin” và “người tin ở trong Đức Giê-su”. Đây là mối tương quan và hiệp thông sâu xa, giống như tương quan giữa Đức Giê-su và Cha của Người. Thật vậy, Đức Giê-su mặc khải cho các môn đệ ở 14,11: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy trong Cha và Cha trong Thầy.” Cũng vậy, tương quan hiệp thông và hiện diện: “Đức Giê-su trong môn đệ và môn đệ trong Đức Giê-su” là hạnh phúc khôn tả và là nguồn khích lệ lớn lao cho người tin vào Đức Giê-su trên hành trình làm môn đệ.

 

V. Kết luận

 

Những phân tích trên đây về “không thực sự” và “thực  sự” đến với Đức Giê-su, thấy Người và tin vào Người, cho thấy cách dùng độc đáo và thú vị các động từ: “đến”, “thấy” và “tin” trong Tin Mừng Gio-an. Nghĩa của các động từ này có thể tích cực (thực sự) hay tiêu cực (không thực sự). Khi mạch văn nói về ý tưởng không thực sự đến với, thấy và tin, mạch văn luôn hàm ẩn sự hiểu lầm của khán thính giả về những gì Đức Giê-su đã làm (thấy) hay về những điều Đức Giê-su đã nói (nghe). Tiến trình lệch lạc của hành động “đến với”, “thấy” và “tin vào Đức Giê-su” này sẽ không dẫn đến tương quan đích thực với Đức Giê-su. Trong trường hợp này, có thể nói là đã không thực sự có hành động “đến với Đức Giê-su”, “thấy Người” và “tin vào Người”. Một số đoạn văn trong Tin Mừng Gio-an cho thấy tiến trình “không thực sự” này. Chẳng hạn trong Ga 6, đám đông đã thấy dấu lạ Đức Giê-su làm (6,14), nhưng đó là cách thấy sai lạc, không dẫn đến niềm tin. Đức Giê-su nói với họ: “Các ông đã thấy [Tôi] mà các ông không tin” (6,36). Hành động “tin vào Đức Giê-su” vì “thấy các dấu lạ Người làm” ở 2,23-24 cũng không phải là lòng tin thực sự, vì “Đức Giê-su không tin họ” (2,24). Trầm trọng hơn, lòng tin của những người Do Thái ở 8,31 là hoàn toàn không phù hợp, vì họ đến với Đức Giê-su để kết án và tìm cách giết Người.  

 

Trong Tin Mừng Gio-an, những trường hợp “đến”, “thấy” và “tin” không đích thực như trên, giúp độc giả hiểu rõ thế nào là thực sự đến với Đức Giê-su, thấy Người và tin vào Người. Đức Giê-su mời gọi mọi người đến với và tin vào Người qua lời tuyên bố: “Chính Tôi là bánh sự sống, người đến với Tôi, không hề đói, và người tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ” (6,35). Ở 6,40, Đức Giê-su mong muốn mọi người đạt đến hành động “thấy” và “tin” đích thực qua lời hứa: “Tất cả những ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời, và chính Tôi sẽ làm cho người ấy sống lại [trong] ngày sau hết” (6,40). Trong Ga 4,những người Sa-ma-ri đã thực sự “đến với” Đức Giê-su (4,40a), bởi vì cách thức họ đến với Đức Giê-su đã mang lại kết quả tốt đẹp: “Tin vào Người” (4,41). Người thuật chuyện cho biết những người Sa-ma-ri đã đến với Đức Giê-su và mời Đức Giê-su ở lại với họ. Đức Giê-su đã ở lại với họ hai ngày (4,40b) và kết quả là “Nhiều người hơn nữa đã tin, nhờ lời của Người” (4,41). Như thế, “thực sự đến với Đức Giê-su” làm nẩy sinh “lòng tin thực sự” và tạo ra “mối tương quan thực sự với Đức Giê-su”. Ai đến với Đức Giê-su như thế sẽ trở thành môn đệ đích thực của Người.   

 

Tin Mừng Gio-an đề cao cách thức “thấy” và “tin” của người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Đứng trước ngôi mộ trống, người môn đệ này “đã thấy và đã tin” (20,8). Ông là người đầu tiên tin dù không thấy Đức Giê-su. Đây cũng là lòng tin đích thực của các môn đệ qua mọi thời đại. Họ là những người không thấy Đức Giê-su thể lý mà vẫn tin vào Người. Họ tin vào Đức Giê-su nhờ lời rao giảng của Hội Thánh. Chính Đức Giê-su đã chúc phúc cho những ai có lòng tin như thế, lời Đức Giê-su nói với Tô-ma và cũng là lời Người nói với độc giả mọi nơi mọi thời: “Phúc cho những người không thấy mà  những người tin” (20,19b). Chúng ta là những người tin vào Đức Giê-su mà không thấy Người về mặt thể lý. Tuy vậy, trên bình diện tâm linh, Đức Giê-su vẫn luôn luôn hiện diện sâu xa nơi từng môn đệ. Lời hứa của Đức Giê-su dành cho các môn đệ thuộc thế hệ thứ nhất, cũng là lời Người hứa cho người tin qua mọi thời đại: “Anh em trong Thầy và Thầy trong anh em” (14,20b)./.

 

Tài liệu tham khảo

 

Bản văn Tin Mừng Gio-an:

 

NESTLE-ALAND, Novum Testamentum Graece, (NTG), (27th Revised Edition), Stuttgart, Deutsche Bibelgesellschaft, 1996.

 

Revised Standard Version - Second Catholic Edition, 2006 (RSV-SCE).

 

Giuse LÊ MINH THÔNG, Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ, Hy Lạp – Việt,  Nxb. Tôn Giáo, 2011.

 

Chú giải Tin Mừng Gio-an:

 

[1965] Rudolf SCHNACKENBURG, The Gospel According to St. John,vol. I: Introduction and Commentary on Chapter 1–4, New York, The Crossroad Publishing Company, (1965), 1987, 638 p. (Orig. Das Johannesevangelium, 1965).

 

[1966] Raymond E. BROWN, The Gospel According to John, I–XII, vol. I, (Anchor Bible 29), New York (NY), Doubleday, 1966, 538 p.

 

[1970] Raymond E. BROWN, The Gospel According to John, XIII–XXI,vol. II, (Anchor Bible 29A), New York (NY), Doubleday, 1970.

 

[1971] Rudolf SCHNACKENBURG, The Gospel According to St. John,vol. II: Commentary on Chapter 5–12, New York, The Crossroad Publishing Company, (1971), 1987, 556 p. (Orig. Das Johannesevangelium, 1971).

 

 [1975] Rudolf SCHNACKENBURG, The Gospel According to St. John,vol. III: Commentary on Chapters 13–21, (Herder’s Theological Commentary on the New Testament), London, Burns & Oates, (1975), 1982, 510 p. (Orig. Das Johannesevangelium, 1975).

 

[1998] Francis J. MOLONEY, The Gospel of John, (Sacra Pagina Series 4), Collegeville (MN), The Liturgical Press, 1998, xxii-594 p.

 

[2003] Craig S. KEENER, The Gospel of John. A Commentary, vol. I and II, Peabody (MA), Hendrickson Publishers, 2003, 1636 p.

 

 

Ngày 19 tháng 08 năm 2012.

Giuse LÊ MINHTHÔNG, O.P.

Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/08/tin-mung-gioan-khong-thuc-su-va-thuc-su.html                                      

 

 


Mục Lục Kinh Thánh