“Ánh sáng” và “bóng tối” trong Tin Mừng Gio-an

 

 


Cặp từ đối lập “ánh sáng” và “bóng tối” có thể là đề tài quan trọng của Tin Mừng thứ tư. Cặp từ tương phản này được trình bày như thế nào? Bài viết sẽ trình bày sơ lược các từ ngữ liên quan đến đề tài (1) “ánh sáng” và (2) “bóng tối” trong Tin Mừng Gio-an.

 

1. “Ánh sáng”

 

Tin Mừng thứ tư dùng 23 lần danh từ Hy Lạp “phôs” (ánh sáng), 1 lần động từ “phôtizô” (1,9) và 2 lần động từ “phainô” (1,5; 5,35). Hai động từ Hy Lạp “phôtizô” và “phainô” có nghĩa: “Chiếu sáng”, “chiếu soi” (illuminer, briller, luire, apparaître). Tất cả 23 lần danh từ “phôs” (ánh sáng) xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an tìm thấy trong 12 chương đầu: 1,4.5.7.8a.8b.9; 3,19a.19b.20a.20b.21; 5,35; 8,12a.12b; 9,5; 11,9.10; 12,35a.35b.36a.36b.36c.46. Phần thứ hai của sách Tin Mừng (Ga 13–21) không xuất hiện danh từ “phôs” (ánh sáng).

 

Trong Tin Mừng thứ tư, đề tài “ánh sáng” được dùng theo nghĩa đen, nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học. Nghĩa đen của từ “ánh sáng” xuất hiện trong lời Đức Giê-su tuyên bố ở Ga 11,9-10: 9Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. 10Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng ở nơi mình.” Đồng thời, kiểu nói “thấy ánh sáng của thế gian này” (11,9) và “có ánh sáng ở nơi mình” mang nghĩa thần học vì ám chỉ Đức Giê-su. Bao lâu Đức Giê-su còn hiện diện thì bấy lâu thế gian còn có ánh sáng. Ai tin vào Đức Giê-su thì “thấy ánh sáng” và “có ánh sáng” nên sẽ không vấp ngã. Như thế, danh từ “phôs” (ánh sáng) ở 11,9-10 vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa thần học, nghĩa đen của từ “ánh sáng” gợi đến nghĩa thần học của từ này.

 

Nghĩa thần học của từ “ánh sáng” được trình bày cách minh nhiên qua sự đồng hóa giữa Đức Giê-su và ánh sáng. Trong Tin Mừng Gio-an, có ba lần Đức Giê-su tuyên bố chính Người là ánh sáng qua kiểu nói đặc trưng: “Tôi là…” (egô eimi…) ở 8,12; 9,5; 12,46. (1) Lần thứ nhất, Đức Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu trong bối cảnh tranh luận ở 8,12: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.” (2) Lần thứ hai Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 9,5: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.” Đức Giê-su là ánh sáng của thế gian, nên Người làm cho người mù từ thuở mới sinh được thấy (Ga 9). Nhưng sự thấy đích thực của người mù chỉ được tỏ lộ vào cuối ch. 9. Thực vậy, sau khi bị giới lãnh đạo Do Thái trục xuất (9,34), anh ta gặp Đức Giê-su và tuyên xưng lòng tin vào Người: “Tôi tin, thưa Ngài” (9,38). Chỉ lúc đó anh mù mới thực sự sáng mắt. Như thế, theo Tin Mừng Gio-an, “thấy thực sự” đồng nghĩa với “tin vào Đức Giê-su”. (3) Lần thứ ba, Đức Giê-su vừa đồng hóa Người với ánh sáng, vừa nối kết với hành động “tin”. Trong phần tóm kết sách các dấu lạ (Ga 1–12), Đức Giê-su tuyên bố ở 12,46: “Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối.”

 

Tóm lại, cả 3 lần Đức Giê-su đồng hóa Người với ánh sáng trong Tin Mừng Gio-an đều hàm ý lời mời gọi tin: (1) Tin vào Người thì có ánh sáng và không bị vấp ngã (8,12). (2) Tin vào Người thì thực sự thấy ánh sáng (9,5.38). (3) Tin vào Người thì không ở lại trong bóng tối (12,46).

 

2. “Bóng tối”

 

Tin Mừng thứ tư dùng hai từ Hy Lạp: “skotia” và “skotos” để chỉ “bóng tối” hay “sự tối tăm”. Từ “skotia” xuất hiện 8 lần: 1,5a.5b; 6,17; 8,12; 12,35a.35b.46; 20,1. Từ “skotos” chỉ xuất hiện 1 lần ở 3,19. Đề tài “bóng tối” trong Tin Mừng thứ tư thường xuất hiện đối lập với “ánh sáng”.

 

Chỉ có 2 lần trong Tin Mừng thứ tư “bóng tối” không đối lập với “ánh sáng” ở 6,17 và 20,1. Lần thứ nhất sau dấu lạ bánh hóa nhiều, các môn đệ xuống thuyền vào lúc: “Trời đã tối (skotia) và Đức Giê-su chưa đến với các ông” (6,17). Lần thứ hai xảy ra “vào ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối (skotia)” (20,1). Ngoài hai lần trên, tất cả các lần khác, đề tài “bóng tối” đối lập với “ánh sáng”. Đối lập “ánh sáng” - “bóng tối” xuất hiện 5 lần trong các ch. 1; 3; 5; 12 ở các câu: 1,5; 3,19; 8,12; 12,35; 12,46. Đề tài này xuất hiện lần đầu tiên trong lời tựa Tin Mừng ở 1,5: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng.” Kế đến là tương phản mạnh mẽ giữa “ánh sáng” và “bóng tối” trong đoạn văn 3,10-20.

 

Cũng như danh từ “ánh sáng”, danh từ “bóng tối” trong Tin Mừng Gio-an vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa thần học, hay cả hai nghĩa cùng lúc. Chẳng hạn, danh từ Hy Lạp “skotia” (bóng tối) ở 1,5 là chủ từ của động từ Hy Lạp “katalambanô” (lấn át, nắm bắt), nên “bóng tối” ở đây ám chỉ con người và quyền lực đen tối: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng” (1,5).

 

Ở 6,17, danh từ “skotia” (bóng tối) có nghĩa đen: “Trời đã tối và Đức Giê-su chưa đến với các ông”, tuy vậy có những gợi ý quan trọng sẽ phân tích dưới đây. Ở 8,12, Đức Giê-su đồng hóa mình với ánh sáng, cặp từ “ánh sáng - bóng tối” ở 8,12 có nghĩa thần học: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.” Đề tài “ánh sáng” và “bóng tối” ở 12,35 vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa thần học. Thực vậy, Đức Giê-su nói với đám đông: “Còn một ít thời gian nữa, ánh sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người còn có ánh sáng, để bóng tối không bắt chợt các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu” (12,35). Các từ “ánh sáng” và “bóng tối” trong câu này phù hợp với nghĩa bình thường (nghĩa đen), nhưng điều bản văn muốn nhắm tới là hàm ẩn đồng hóa ánh sáng với Đức Giê-su. Bao lâu Đức Giê-su chưa bước vào cuộc Thương Khó thì bấy lâu vẫn còn ánh sáng. Nhưng chỉ còn một ít thời gian nữa thôi, vì sứ vụ công khai của Đức Giê-su đã đến hồi kết thúc, đêm tối sự chết đang đến gần. Ai bước đi không có ánh sáng, nghĩa là bước đi không có Đức Giê-su, không tin vào Người thì cuộc đời người ấy ở trong bóng tối và không biết mình đi đâu.

 

Trong Tin Mừng thứ tư, các từ ngữ thường có nghĩa biểu tượng, gợi đến nghĩa thần học của bản văn. Chẳng hạn, từ “bóng tối” trong trình thuật các môn đệ vượt Biển Hồ ở 6,16-18 có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng. Người thuật chuyện kể: “Chiều đến, các môn đệ của Người xuống bờ Biển Hồ, và xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um, bên kia Biển Hồ. Trời đã tối (skotia) và Đức Giê-su chưa đến với các ông. Biển động vì gió thổi mạnh” (6,16-18). Các môn đệ chèo thuyền trong bóng đêm, trong khi biển động và gió mạnh. Sự thiếu vắng Đức Giê-su và chi tiết biển động mạnh gợi đến “khủng hoảng gần” và “khủng hoảng xa” của các môn đệ. Khủng hoảng gần vì cuối ch. 6, có nhiều môn đệ bỏ đi không theo Đức Giê-su nữa (6,66), hơn nữa Đức Giê-su còn thông báo về Giu-đa, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, là người sẽ nộp Thầy (6,70-71). Khủng hoảng xa vì trong ch. 13–17, các môn đệ lo âu, xao xuyến và sợ hãi trước sự ra đi của Đức Giê-su. Đức Giê-su báo trước họ sẽ bị phân tán khi Người chịu Khổ nạn (16,32). Khủng hoảng của các môn đệ trong đoạn văn 6,16-18 cũng ám chỉ đến cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I đang bị khủng hoảng vì bách hại mà dường như Đức Giê-su vắng mặt và bỏ rơi cộng đoàn. Nhưng thực sự không phải thế, chính Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em” (14,18).

 

Tin Mừng thứ tư chỉ dùng 1 lần danh từ Hy Lạp “skotos” để chỉ bóng tối ở 3,19. Có thể nói đến sắc thái nghĩa khác nhau giữa “skotia” và “skotos”. Cả hai từ này đều có nghĩa là “bóng tối”. “Skotia” là bóng tối mà người ta không muốn rơi vào đó. Đức Giê-su đến để giải thoát con người ra khỏi bóng tối này, Người tuyên bố: “Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối (skotia)” (8,12). Ngược lại, “skotos” là bóng tối mà người ta yêu mến, nghĩa là người ta muốn ở lại trong bóng tối đó. Đức Giê-su nói ở 3,19: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối (skotos) hơn ánh sáng.” Danh từ “skotos” (bóng tối) trong đoạn văn 3,19-20 nhắm đến những người, không những từ chối tin vào Đức Giê-su mà còn tìm cách giết Người. Họ không muốn thoát ra khỏi “bóng tối” mà còn “yêu mến bóng tối”. Họ không chỉ “không đến với ánh sáng” mà còn “ghét ánh sáng” (3,20), ghét Đức Giê-su, ghét Chúa Cha và ghét các môn đệ của Người (15,18-25). Như thế, “skotos” (bóng tối) mà người ta yêu mến có nghĩa sâu xa, “skotos” ám chỉ thế lực đen tối làm tha hóa con người và làm cho con người trở thành nô lệ cho thế lực đen tối. Tin Mừng thứ tư dùng nhiều từ khác nhau để gọi thế lực này: quỷ (6,70; 8,44; 13,2), Xa-tan (13,27), thủ lãnh thế gian này (12,31; 14,30; 16,11), Ác thần (17,15).

 

Trong viễn cảnh trên, “yêu mến bóng tối (skotos)” là cách thức từ chối tin vào Đức Giê-su ở cấp độ cao nhất. Theo thần học Tin Mừng thứ tư, “yêu mến bóng tối (skotos)” là tự kết án mình (auto-jugement de condamnation) và thứ “tình yêu bóng tối” này (3,19) đã hàm ẩn sự thù ghét và bách hại.

 

Kết luận

 

Tin Mừng thứ tư thường diễn tả thần học bằng những cặp từ đối lập. Những phân tích trên cho thấy tác giả Tin Mừng đã thành công trong việc sử dụng cặp từ “ánh sáng” và “bóng tối” để trình bày những đề tài thần học quan trọng. Toàn bộ Tin Mừng Gio-an được trình bày như một vụ kiện giữa “ánh sáng” và “bóng tối”, giữa “đón nhận” hay “không đón nhận”, giữa “tin” hay “không tin” vào Đức Giê-su.

 

Sự đồng hóa minh nhiên giữa “Đức Giê-su và “Ánh Sáng” giúp độc giả hiểu các kiểu nói đặc trưng của Tin Mừng Gio-an: “Tin vào ánh sáng” và “con cái ánh sáng” (12,36). Đức Giê-su nói với đám đông: “Khi các người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (12,36). “Tin vào ánh sáng” là tin vào Đức Giê-su, trở thành “con cái ánh sáng” là trở thành môn đệ của Người. Trong nhiều trường hợp, nghĩa đen của cặp từ “ánh sáng” và “bóng tối” gợi đến nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học. Điều bản văn nhắm tới là trình bày mặc khải về căn tính của Đức Giê-su và về sự đáp trả của con người trước lời mời gọi của Người.

 

Tương phản “ánh sáng – bóng tối” xuất hiện ngay trong lời tựa Tin Mừng (1,5). Trong 12 chương đầu (sách các dấu lạ: Ga 1–12), đối lập “ánh sáng – bóng tối” xuất hiện ở đầu (3,19), ở giữa (8,12) và ở cuối (12,35; 12,46), như thế “ánh sáng” và “bóng tối” là một trong những đề tài quan trọng của thần học Tin Mừng Gio-an, qua đó sách Tin Mừng cho biết Đức Giê-su là ai và con người cần làm gì để “có ánh sáng” và “bước đi trong ánh sáng”. Đề tài “ánh sáng – bóng tối” đã được phân tích trong tập sách YÊU và GHÉT trong Tin Mừng Gio-an, phần II, tr. 48-56, xin mời độc giả tham khảo thêm./.

 

 

Ngày 15 tháng 04 năm 2012

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/04/anh-sang-va-bong-toi-trong-tin-mung-gio.html

Email: josleminhthong@gmail.com 

 

xin chia sẻ các mục từ liên quan đến 
đề tài "ánh sáng" và "bóng tối" trong Tin Mừng Gio-an.

ÁNH SÁNG, dt., phôs, trong Gio-an 
CHIẾU SOI, đt., phainô, trong Gio-an, x. 
TOẢ SÁNG 
CHIẾU SOI, đt., phôtizô, trong Gio-an 
TOẢ SÁNG, đt., phainô, trong Gio-an 
BÓNG TỐI, dt. skotia, trong Gio-an 
BÓNG TỐI, dt., skotos, trong Gio-an 
TỐI TĂM, trong Gio-an, x. BÓNG TỐI