Nội dung
I. Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (1,7.19; x. 5,36)
II. Gio-an làm chứng về ai và về điều gì?
1. Gio-an làm chứng về mình
2. Gio-an làm chứng về Đức Giê-su
3. Lời chứng của Gio-an về Đức Giê-su ở 3,31-36
III. Đức Giê-su nhắc lại lời chứng của Gio-an (5,33)
IV. Kết luận
Trong bài viết “Danh từ “lời chứng” (marturia)
và động từ “làm chứng” (martureô) trong Tin Mừng Gio-an” đã trình
bày số lần xuất hiện và cách dùng danh từ “lời chứng” (marturia) và động từ
“làm chứng” (martureô) trong Tin Mừng thứ tư. Bài viết này sẽ bàn về “lời
chứng” và nội dung việc “làm chứng” của Gio-an Tẩy Giả. Đề tài lời chứng của
Gio-an được trình bày trong Tin Mừng thứ tư qua cách dùng 2 lần danh từ “lời chứng”
(marturia) ở 1,7.19 và 7 lần động từ “làm chứng” (martureô) ở 1,7.8.15.32.34;
3,26; 5,33. Dựa vào các nơi xuất hiện danh từ “lời chứng” và động từ “làm
chứng” liên quan đến Gio-an Tẩy Giả, bài viết sẽ trình bày ba mục: (I) Lời
chứng của Gio-an Tẩy Giả (1,7.19; x. 5,36); (II) Gio-an làm chứng về ai và về
điều gì? (III) Đức Giê-su nhắc lại lời chứng của Gio-an (5,33).
I. Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả (1,7.19; x. 5,36)
Hai lần trong Tin Mừng thứ tư (1,7.19) nói về “lời chứng”
(marturia) của Gio-an Tẩy Giả. Lần thứ nhất nói đến “lời chứng” (marturia) của
Gio-an ở trong lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18). Tác giả long trọng giới thiệu
Gio-an Tẩy Giả và vai trò làm chứng của ông ở 1,6-8: “6 Có một người được sai
đến từ Thiên Chúa, tên ông là Gio-an. 7 Ông ấy đến làm chứng. Ông làm chứng về
ánh sáng, để mọi người tin nhờ ông ấy. 8 Ông ấy không phải là ánh sáng, nhưng
làm chứng về ánh sáng.” Trong câu 7, xuất hiện 1 lần danh từ “lời chứng”
ở 1,7a: “Ông ấy đến làm chứng”, dịch sát: “Ông ấy đến vì (cho) lời chứng (he
came for testimony).”
Lần thứ 2, “lời chứng” (marturia) của Gio-an xuất hiện ngay sau
khi kết thúc lời tựa Tin Mừng (1,18). Người thuật chuyện viết câu mở đầu phần
lời chứng của Gio-an ở 1,19: “Và đây là lời chứng của Gio-an…” (1,19a). Lời
chứng của Gio-an được trình bày trong bối cảnh: “Những người Do Thái từ
Giê-ru-sa-lem cử các tư tế và các Lê-vi đến [với ông ấy] để họ hỏi ông ấy: “Ông là ai?” (1,19b).
Đến Ga 5, Đức Giê-su gián tiếp nhắc lại lời
chứng của Gio-an trong bối cảnh tranh luận với những người Do Thái ở 5,33-36. Trong
đoạn văn này, bản văn không dùng danh từ “lời chứng” để nói đến “lời chứng của
Gio-an” mà dùng danh từ này để nói về “lời chứng của Đức Giê-su”. Đức Giê-su
nói với những người Do Thái ở 5,26: “Nhưng Tôi, Tôi có lời chứng lớn hơn (lời
chứng) của Gio-an, đó là những việc mà Cha đã ban cho Tôi để Tôi hoàn thành
chúng.”
Nội dung “lời chứng” của Gio-an sẽ được
triển khai trong mạch văn và trong cách dùng động từ “làm chứng”.
II. Gio-an làm chứng về ai và về điều gì?
Trước khi làm chứng về Đức Giê-su, Gio-an
đã làm chứng về chính mình để mọi người biết ông là ai và đến để làm gì. Đặc biệt Gio-an làm chứng về
Đức Giê-su trong đoạn văn 3,31-36.
1. Gio-an làm chứng về mình
Trước hết, Gio-an làm chứng bằng cách nói không về mình và xác
định rõ vai trò của ông. Gio-an làm chứng về mình như sau:
1.1. Gio-an không phải là Đấng
Ki-tô (1,20), không phải là Ê-li-a (1,21a), không phải là vị ngôn sứ (1,21).
Sau lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18), người thuật chuyện mở đầu đoạn
văn về lời chứng của Gio-an như sau: “Và đây là lời chứng của Gio-an, khi những
người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử các tư tế và các Lê-vi đến [với ông ấy] để họ
hỏi ông ấy: ‘Ông là ai?’” (1,19). Gio-an đã tuyên xưng về ông với ba lần phủ
định: Ông không phải là Đấng Ki-tô (1,20), không phải là Ê-li-a (1,21a), không
phải là vị ngôn sứ (1,21).
1.2. Gio-an là “tiếng kêu trong
hoang mạc: Làm cho thẳng con
đường của Chúa”.
Sau đó, Gio-an khẳng định với những người chất vấn ông: “Tôi là
tiếng kêu trong hoang mạc, hãy làm cho thẳng con đường của Chúa, như ngôn sứ
I-sai-a đã nói” (1,23).
Gio-an khẳng định mình là tiếng kêu trong hoang mạc. Tiếng kêu
đó là lời mời gọi “làm cho
thẳng con đường của Chúa” theo như ngôn sứ I-sai-a đã viết ở Is 40,3-5: “3 Có tiếng hô:
“Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa
đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng
ta. 4 Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,
nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng
phiu. 5 Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện, và mọi
người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán.”
Trong bối cảnh này, Gio-an xuất hiện như là người làm phép rửa sám hối để mọi
người có thể đón nhận và tin vào Đức Giê-su.
1.3. Gio-an làm phép rửa trong
nước.
Ba lần (1,26.31.33a) Gio-an khẳng định ông là người “làm phép
rửa trong nước” để phân biệt với Đức Giê-su là “Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (1,33b). Gio-an nói với những người chất vấn ông: “26 Chính
tôi làm phép rửa trong nước. Người đang đứng giữa các ông mà các ông không
biết, 27 Người đến sau tôi và [chính tôi] không xứng đáng cởi quai dép của Người” (1,26-27).
Trong ngày làm chứng thứ hai (1,29-34),
Gio-an nói với mọi người ở 1,31: “Phần tôi, tôi đã
không biết Người [Đức Giê-su], nhưng để Người được tỏ ra cho Ít-ra-en, vì điều
này, chính tôi đến làm phép rửa trong nước.” Sau đó Gio-an nói tiếp ở 1,33:
“Phần tôi, tôi đã không biết Người. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước,
Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’”
2. Gio-an làm chứng về Đức Giê-su
Như tác giả sách Tin Mừng cho biết vai trò của Gio-an đến là để
làm chứng (1,6-8), nội dung việc làm chứng của Gio-an về Đức Giê-su trong Ga 1
có thể được tóm kết qua 8 mục sau:
2.1. Làm chứng về ánh sáng
(1,7.8).
Hai lần người thuật chuyện khẳng định: Gio-an đến làm chứng về
“ánh sáng” ở 1,7.8. “Ánh sáng” ở đây chính là Lời (Logos) (1,4-5) và là Đức
Giê-su như Người đã khẳng định ở 8,12; 9,5. Đức Giê-su nói với những kẻ chống
đối Người: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ
không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống” (8,12). Đến
9,5, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là
ánh sáng của thế gian” (9,5). Như thế, Đức Giê-su chính là ánh sáng được nói
đến trong lời tựa sách Tin Mừng (1,4-9).
2.2. Làm chứng rằng Đức Giê-su
đến sau, nhưng vượt trước, và có trước Gio-an (1,15 // 1,27.30).
Người thuật chuyện kể ở 1,15: “Gio-an làm chứng về Người [Đức
Giê-su], ông ấy hô lên rằng: ‘Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi,
nhưng vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.’”
Ý tưởng này còn được Gio-an Tẩy Giả nói đến 2 lần nữa ở 1,27.30.
Gio-an nói về Đức Giê-su với những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu: “Người [Đức
Giê-su] đến sau tôi và [chính tôi] không xứng đáng cởi quai dép của Người” (1,27). Ngày hôm sau,
Gio-an giới thiệu Đức Giê-su cho mọi người rằng: “Chính Người là Đấng mà tôi đã
nói: ‘Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.’”
(1,30). Xem phân tích về ý nghĩa lời chứng này trong bài viết: “Ga 1,6-8.19-28: Làm chứng và
giới thiệu Đức Giê-su.”
2.3. Đức Giê-su là người ở giữa
những người được sai tới với Gio-an, nhưng họ không biết Đức Giê-su.
Gio-an nói với họ ở 1,26-27: “26 Chính tôi làm phép rửa trong
nước. Người đang đứng giữa các ông mà các ông không biết, 27 Người đến sau tôi
và [chính tôi] không xứng đáng cởi quai dép của Người.”
Lời chứng này cho thấy, trước khi Đức Giê-su xuất hiện và hoạt
động công khai, giới lãnh đạo Do Thái không biết đến Đức Giê-su. Cụ thể là
Na-tha-na-en, người được Đức Giê-su gọi là “một người Ít-ra-en, nơi ông ấy không có
gian dối” (1,47). Vậy mà khi “Phi-líp-phê gặp Na-tha-na-en và nói với ông ấy:
‘Đấng mà Mô-sê trong sách Luật và các ngôn sứ đã viết, chúng tôi đã gặp, đó là Đức Giê-su, con ông Giu-se, người
Na-da-rét’” (1,45), Na-tha-na-en đã trả lời: “Từ Na-da-rét, có thể có gì tốt?”
(1,46a). Xem ra không ai biết gì về Đức Giê-su trước khi Người xuất hiện và thi
hành sứ vụ công khai.
2.4. Đức
Giê-su là Chiên của Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội thế gian.
Trong ngày làm chứng thứ hai của Gio-an
(1,29-34), Người thuật chuyện kể ở 1,29-31: “29 Hôm sau, ông ấy [Gio-an] thấy
Đức Giê-su tiến về phía mình, ông ấy nói: ‘Đây là Chiên của Thiên Chúa, Đấng
xoá bỏ tội thế gian. 30 Chính Người là Đấng mà tôi đã nói: ‘Người đến sau tôi,
nhưng trổi vượt trước tôi, vì Người có trước tôi.’ 31 Phần tôi, tôi đã không
biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho Ít-ra-en, vì điều này, chính tôi đến
làm phép rửa trong nước.’”
Tước hiệu “Chiên của Thiên Chúa” được
Gio-an nhắc lại lần thứ hai trong ngày làm chứng thứ ba (1,35-42). Câu chuyện
kể ở 1,35-37: “35 Hôm sau, Gio-an lại đứng với hai người trong các môn đệ của
ông ấy 36 Và chăm chú nhìn Đức Giê-su đang đi qua, ông ấy nói: “Đây là Chiên của
Thiên Chúa.” 37 Hai môn đệ của ông ấy nghe nói thế, họ đi theo Đức Giê-su.”
Lời chứng cuối cùng của Gio-an Tẩy Giả về
Đức Giê-su được thuật lại ở 1,36: “Đây là Chiên của Thiên Chúa”. Tiếp theo là
phần hai môn đệ của Gio-an gặp và trao đổi với Đức Giê-su. Đức Giê-su lên tiếng
lần đầu tiên trong Tin Mừng Gio-an ở 1,38 và Người nói với hai môn đệ của
Gio-an: “Các anh tìm gì?” (1,38b).
Gio-an Tẩy Giả không xuất hiện trong đoạn văn 1,37-42, phần này nói về các môn
đệ đầu tiên của Đức Giê-su.
2.5. Gio-an
làm chứng là Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống và ở lại trên Đức
Giê-su.
Người thuật chuyện kể ở 1,32: “Gio-an làm
chứng và nói rằng: ‘Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống và ở
lại trên Người.’” Trong câu này xuất hiện động từ “làm chứng” xác định rõ nội
dung việc làm chứng của Gio-an. Ngay từ đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su,
“Thần Khí” (pneuma) đã “xuống” (katabainô) và “ở lại” (menô) trên Đức Giê-su. Ý
tưởng Thần Khí xuống và ở lại trên Đức Giê-su được Gio-an nhấn mạnh trong câu
tiếp theo (1,33). Gio-an nói ở 1,33b: “Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần
Khí xuống và ở lại trên ai, thì
người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’”
2.6. Đức
Giê-su là Đấng làm phép rửa trong
Thánh Thần.
Trong ngày làm chứng thứ hai (1,29-34) và
tiếp theo lời chứng ở 1,32 trên đây, Gio-an làm chứng về Đức Giê-su ở 1,33 như
sau: “Phần tôi, tôi đã không biết Người. Nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong
nước, Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa
trong Thánh Thần’” (1,33). Như thế, Đức Giê-su là “Đấng làm phép rửa trong
Thánh Thần”, phân biệt với Gio-an là người “làm phép rửa trong nước”
(1,26.31.33a).
2.7. Đức
Giê-su là Con Thiên Chúa.
Cuối ngày thứ hai (1,29-34), Gio-an làm
chứng về một trong những tước hiệu quan trọng của Đức Giê-su qua hai động từ
“thấy” và “làm chứng”. Ông ấy nói: “Phần tôi, tôi đã thấy và đã làm chứng rằng:
Chính Người là Con Thiên Chúa” (1,34). Trong câu này, không phải người thuật
chuyện nói về việc làm chứng của Gio-an mà chính Gio-an dùng động từ “làm
chứng” để nói về lời chứng của ông ấy: “Tôi đã thấy và đã làm chứng rằng:…”
(1,34a).
2.8. Đức Giê-su là Đấng là mà
Gio-an “không biết”.
Điều lạ là Gio-an làm chứng về Đức Giê-su nhưng lại khẳng định
là không biết Đức Giê-su. Gio-an nói điều này hai lần ở 1,31.33. Lần thứ nhất
Gio-an nói: “Phần tôi, tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho
Ít-ra-en, vì điều này, chính tôi đến làm phép rửa trong nước” (1,31). Lần thứ
hai Gio-an nói: “Phần tôi, tôi đã không biết Người. Nhưng Đấng sai tôi làm phép
rửa trong nước, Đấng ấy đã nói với tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ở lại
trên ai, thì người đó là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần’” (1,33).
Có thể hiểu việc Gio-an không biết về Đức Giê-su như sau: Không
biết nhưng vẫn làm chứng vì nội dung lời chứng của Gio-an về Đức Giê-su là được
Thiên Chúa mặc khải cho ông biết. Trong bản văn, Thiên Chúa được gọi là “Đấng
sai Gio-an làm phép rửa trong nước” (1,33b). Trong lời tựa sách Tin Mừng
(1,1-18) tác giả sách Tin Mừng đã khẳng định ở 1,6: Thiên Chúa là Đấng sai
Gio-an đến làm chứng. Tác giả giới thiệu Gio-an ở 1,6-7: “6 Có một người được
sai đến từ Thiên Chúa, tên ông là Gio-an. 7 Ông ấy đến làm chứng.
Ông làm chứng về ánh sáng, để mọi người tin nhờ ông ấy.” Như thế vai trò của
Gio-an là làm chứng về những gì ông đã được Thiên Chúa mặc khải cho biết về Đức
Giê-su.
Hơn nữa, lời khẳng định: “Tôi đã không biết
Người” là cách thức Gio-an đề cao nguồn gốc huyền nhiệm của Đức Giê-su. Gio-an
là người phàm làm sao biết được Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa” (1,34), là “Chiên của Thiên Chúa” (1,29a.36),
là “Đấng xoá bỏ tội thế gian” (1,29b)? Tuy nhiên, những lời chứng của Gio-an là
xác thực và đáng tin cậy, bởi vì đó là những sự thật Thiên Chúa mặc khải cho
Gio-an và chính ông đã được Thiên Chúa sai đến để làm chứng về Đức Giê-su qua
những điều đã trình bày trên đây.
3. Lời chứng của Gio-an về Đức Giê-su ở 3,31-36
Trong cuộc đối thoại giữa Gio-an và các môn đệ của ông ấy ở
3,26-30, các môn đệ của Gio-an nhắc lại việc Gio-an làm chứng về Đức Giê-su. Họ
nói với Gio-an: “Thưa Ráp-bi, người đã ở với thầy bên kia Gio-đan, người mà
chính thầy đã làm chứng, xem kìa, Ông ấy làm phép rửa, và mọi người đến với Ông ấy” (3,26). Để trả lời các môn đệ của mình, Gio-an
tự so sánh mình với Đức Giê-su về ba điều: (1) Gio-an không phải là Đấng Ki-tô
mà là người được sai đi trước Đấng ấy (3,28). (2) Ai có cô dâu mới là chú rể,
còn Gio-an là bạn của chú rể, là người hớn hở vui mừng vì tiếng nói của chú rể
(3,29), (3) Gio-an là người phải suy giảm để Đấng ấy được lớn lên (3,30).
Trong mạch văn, phần tiếp theo là lời chứng
của Gio-an về Đức Giê-su (3,31-36). Vì đoạn văn này có nhiều liên hệ với lời
chứng của Đức Giê-su ở 3,13-21, có tác giả cho đây là phần thứ hai của lời
chứng của Đức Giê-su. Tuy nhiên, trong tình trạng hiện tại của bản văn, có thể
hiểu “lời chứng của Đức Giê-su” (3,13-21) được đặt song song với “lời chứng của
Gio-an” (3,31-36) để đề cao vai trò của Đức Giê-su trong tương quan với Thiên
Chúa. Gio-an, với tư cách là người được Thiên Chúa sai đến làm chứng về Đức
Giê-su (1,6-7), ông có đầy đủ thẩm quyền để làm chứng về Đức Giê-su như trình
bày trong đoạn văn 3,31-36:
“31 Đấng đến từ trên thì ở trên tất cả; kẻ
bởi đất thì thuộc về đất và nói chuyện thuộc về đất. Đấng đến bởi trời [thì ở
trên tất cả]; 32 điều Người đã thấy và đã nghe, Người làm chứng về điều ấy, và
lời chứng của Người chẳng ai đón nhận. 33 Ai đón nhận lời chứng của Người thì
xác nhận rằng: Thiên Chúa thì chân thật. 34
Vì Đấng Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì
Người ban Thần Khí vô ngần vô hạn. 35 Cha yêu mến Con và đã ban mọi sự trong
tay Người. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời; còn ai không
vâng phục Con thì sẽ không thấy sự sống, nhưng sự
thịnh nộ của Thiên Chúa ở lại trên kẻ ấy” (3,31-36).
III. Đức Giê-su nhắc lại lời chứng của
Gio-an (5,33)
Trong diễn từ của Đức Giê-su trước những kẻ
chống đối Người ở Ga 5, có một đoạn văn nói về các lời chứng. Trong đó Đức
Giê-su nhắc lại lời chứng của Gio-an Tẩy Giả đã nói ở ch. 1 và ch. 3. Đức
Giê-su nói về Gio-an với những người Do Thái ở 5,33-36 như sau:
“33 Chính các ông đã cử người đến với
Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần Tôi, Tôi không nhận lời
chứng do người phàm, nhưng Tôi nói những điều này để chính các ông được cứu. 35 Ông ấy là ngọn đèn được thắp lên và
toả sáng, chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông
ấy. 36 Nhưng Tôi, Tôi có lời
chứng lớn hơn lời chứng của Gio-an, đó là những việc mà Cha đã
ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng. Chính những việc Tôi làm, làm chứng về Tôi
rằng: Cha đã sai Tôi” (5,33-36).
Ở 5,33 Đức Giê-su nói là Gio-an “đã làm
chứng cho sự thật” (5,33). Sự thật đó là “sự thật về Đức Giê-su” và “sự thật là
chính Đức Giê-su” như Người đã mặc khải cho các môn đệ ở 14,6: “Chính Thầy là
con đường và là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha
mà không qua Thầy.” Hơn nữa sứ vụ của Đức Giê-su không khác gì hơn là “làm
chứng cho sự thật”. Đức Giê-su nói với Phi-la-tô ở 18,37: “Chính ngài nói rằng
Tôi là Vua. Vì điều này Tôi đã sinh ra, và vì điều này Tôi đã đến thế gian để
làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi.”
Như thế, khi Đức Giê-su nói Gio-an “đã làm
chứng cho sự thật” (5,33), Người vừa đề cao lời chứng của Gio-an vừa nêu lên
lời chứng vượt lên trên lời chứng của Gio-an. Đức Giê-su nói ở 5,36: “Tôi có
lời chứng lớn hơn lời chứng của Gio-an, đó là những việc mà Cha đã
ban cho Tôi để Tôi hoàn thành chúng.” Trong phần nói về các lời chứng ở
5,31-39, Đức Giê-su còn nói về lời chứng của chính Người, lời chứng của Chúa
Cha và lời chứng của Kinh Thánh. Những lời chứng này sẽ được phân tích trong
bài viết khác.
IV. Kết luận
Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả về mình và về
Đức Giê-su là đề tài quan trọng trong Tin Mừng thứ tư. Về số lần xuất hiện
trong sách Tin Mừng, “lời chứng” của Gio-an (xuất hiện 2 lần: 1,7.19) và hành động “làm
chứng” của Gio-an (xuất hiện 7 lần: 1,7.8.15.32.34; 3,26; 5,33), đứng thứ hai,
sau “lời chứng” của Đức Giê-su
(xuất hiện 6 lần: 3,11.32.33;
5,31; 8,13.14) và hành động “làm chứng” của Đức Giê-su (xuất hiện 10 lần:
3,11.32; 4,44 ; 5,31; 7,7; 8,13.14.18a; 13,21; 18,37).
Lời chứng của Gio-an có uy thế và đáng tin
cậy, bởi vì Gio-an dựa vào uy thế của Đấng sai mình đến làm chứng. Thực vậy,
Thiên Chúa đã sai Gio-an đến làm chứng (1,6) về Đức Giê-su là “Con của Thiên
Chúa” (1,34). Điểm độc đáo của Gio-an là ông làm chứng về chính mình trước khi
làm chứng về Đức Giê-su. Có thể tóm tắt nội dung “lời chứng” và “làm chứng” của
Gio-an Tẩy Giả như sau:
(A) Gio-an làm chứng về chính mình:
1. Gio-an không phải là Đấng Ki-tô (1,20).
2. Gio-an không phải là Ê-li-a (1,21a).
3. Gio-an không phải là vị ngôn sứ (1,21).
4. Gio-an là “tiếng kêu trong hoang mạc” (1,23a).
5. Gio-an “làm cho thẳng con đường của Chúa” (1,23b).
6. Gio-an “làm phép rửa trong nước” (1,26.31.33a).
(B) Gio-an làm chứng về Đức Giê-su:
1. Làm chứng về ánh sáng (1,7.8).
2. Đức Giê-su đến sau, nhưng vượt trước, và có trước Gio-an
(1,15 // 1,27.30).
3. Đức Giê-su là Chiên của Thiên Chúa (1,29.36).
4. Đức Giê-su là Đấng xoá bỏ tội thế gian (1,29).
5. Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời ngự xuống và ở lại trên Đức
Giê-su (1,32).
6. Đức Giê-su làm phép rửa trong Thánh Thần (1,33).
7. Đức Giê-su là Con Thiên Chúa (1,34).
8. Làm chứng về nguồn gốc và sứ vụ của Đức
Giê-su trong đoạn văn 3,31-36.
Nội dung “lời chứng” và việc “làm chứng” của Gio-an là mặc khải
quan trọng về Đức Giê-su. Nhờ đó độc giả biết phần nào về Đức Giê-su: Người là
ai? Người từ đâu đến? Sứ vụ của Người là gì? Trong sứ vụ công khai, Đức Giê-su
sẽ làm rõ hơn những gì Gio-an đã làm chứng về Người. Tuy nhiên, Tin Mừng thứ tư
còn đặc biệt nhấn mạnh “lời chứng của chính Đức Giê-su” và “lời chứng của Chúa
Cha”, đồng thời sách Tin Mừng đề cao “lời chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu
mến”, những lời chứng này sẽ được phân tích trong các bài viết khác./.
Ngày 09 tháng 10 năm 2013.
Email: josleminhthong@gmail.com
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/10/loi-chung-va-lam-chung-cua-gio-tay-gia.html
Các bài viết liên quan:
1- Danh từ “lời chứng” (marturia)
và động từ “làm chứng” (martureô) trong Tin Mừng Gio-an.
2- Làm chứng về Ánh Sáng và giới
thiệu Đức Giê-su cho mọi người (Ga 1,6-8.19-28).
3- Vận mệnh, bút tích và lời
chứng của người môn đệ Đức Giê-su yêu mến (Ga 21,20-25).
4- “TÔNG ĐỒ GIO-AN” trong Tin
Mừng Nhất Lãm và “NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU YÊU MẾN” trong Tin Mừng thứ tư.
Các mục từ:
Làm chứng, đt., martureô,
trong Tin Mừng Gio-an
Lời chứng, dt., marturia,
trong Tin Mừng Gio-an