Việc Quản Trị Trong Hội Thánh và Nhận Định Thiêng Liêng

(cxatechesis.net 10-11-2014)

Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ.

Giám đốc Giáo Hoàng Học Viện Thánh Kinh tại Giêrusalem, và phụ trách các tu sĩ Dòng Tên phục vụ tại Thánh Địa.

***

I. QUẢN TRỊ HÀNH CHÁNH VÀ QUẢN TRỊ HỘI THÁNH

 Trong lịch sử, từ sau khi thoát khỏi cuộc bách hại của đế quốc Roma, Giáo Hội vẫn đòi quyền được coi là một xã hội hoàn hảo, nghĩa là một xã hội với đầy đủ mọi yếu tố cấu tạo, do đó ngang hàng với bất cứ xã hội trần thế nào khác, có guồng máy quản trị riêng, luật lệ riêng. Rồi từ chỗ đòi quyền ngang hàng với mọi xã hội trần thế, Giáo Hội còn vươn lên đặt mình trên mọi xã hội trần thế, trở thành người ban phát quyền lực cho mọi bậc quân vương ở châu Âu. Hệ quả của quan niệm này là Giáo Hội trở thành một tổ chức quá giống với xã hội trần thế, đồng thời sự khẳng định tính cách thánh thiêng làm cho mọi cơ cấu tổ chức và luật lệ của Giáo Hội trở thành những cái tuyệt đối không gì lay chuyển được. Việc quản trị trong Giáo Hội thì có vẻ hoàn toàn hành chánh như xã hội trần thế: cứ theo cơ chế, cứ theo luật lệ mà thi hành, còn tính cách thánh thiêng trở thành cái áo giáp bảo vệ cho cơ chế và luật lệ.

Thực trạng này đòi chúng ta phải suy nghĩ và tự hỏi: Nếu Giáo Hội có tính thánh thiêng thì cái thánh thiêng ở đâu? Nó có ảnh hưởng gì đến vấn đề quản trị không? Việc quản trị trong Giáo Hội có thể hoàn toàn theo lối quản trị hành chánh không? Những câu hỏi này không chỉ đặt ra với Hội Thánh phổ quát, mà ở mọi cấp cộng đoàn Hội Thánh, trong đó có cộng đoàn giáo phận, giáo xứ và cả cộng đoàn tu sĩ, bởi vì ở cấp độ nào thì cộng đoàn cũng là một cách thể hiện hay tham dự bản chất của Hội Thánh.

Để trả lời những câu hỏi trên đây, tôi đề nghị chúng ta hãy trở về nguồn, nhìn lại giai đoạn hình thành của Hội Thánh như sách Công Vụ Tông Đồ và các thư của thánh Phaolô trình bày để xem tính thánh thiêng ở đâu và nó ảnh hưởng thế nào đến việc quản trị trong Hội Thánh.

II. CỘNG ĐOÀN HỘI THÁNH TỰ Ý THỨC VỀ MÌNH NHƯ THẾ NÀO?

Ngay trong bức thư thứ nhất gởi Hội Thánh Thê-xa-lo-ni-ca, được coi là văn bản sớm nhất của sách Tân Ước, thánh Phaolô Tông Đồ đã dùng một kiểu nói vừa mượn từ Cựu Ước vừa mang tính mới mẻ của Tân Ước để nói về Hội Thánh: (tạm dịch sát bản văn Hy Lạp) Hội (thánh) gồm (của) những người dân Thê-xa-lo-ni-ca ở trong Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Giêsu Kitô.

Cần xem xét từng từ một : Hội Thánh (ecclesia), Cựu Ước đã dùng kèm theo Danh Thiên Chúa để nói về cộng đoàn Dân Thiên Chúa, tức là dân It-ra-en, nay là Hội Thánh gồm những người dân Thê-xa-lo-ni-ca. Cái gì làm cho họ là Hội Thánh, dù họ không phải là dân It-ra-en? Ở trong Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Giêsu Kitô.

Nếu chúng ta hỏi tiếp : cái gì làm cho họ ở trong Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Giêsu Kitô?

Thánh Phaolô trả lời cho chúng ta trong thư gởi tín hữu Ga-lat ch.4 và thư gởi tín hữu Rôma, ch. 8: Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí của Đức Kitô ở trong chúng ta. Chính Thần Khí làm cho chúng ta kêu lên Abba, Cha ơi (Gl 4,4; Rm 8,15) và hướng dẫn chúng ta sống làm con Thiên Chúa. Cũng chính Thần Khí làm cho chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa (x.I Cr 12,3).

Như vậy chúng ta thấy rõ ý nghĩa và hệ quả của của Phép Rửa “Nhân Danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Chính sự thuộc về Thiên Chúa Ba Ngôi tới mức ở trong Chúa Cha, ở trong Chúa Con và ở trong Chúa Thánh Thần làm cho Cộng đồng tín hữu trở thành Hội Thánh của Thiên Chúa. Chính Thánh Thần là sự hợp nhất giữa Cha và Con làm cho chúng ta đuợc ở trong Thiên Chúa Cha và ở trong Chúa Giêsu Kitô. Chính Thánh Thần làm cho chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha bằng cách gọi thân mật nhất, Abba và dẫn dắt chúng ta sống làm con Thiên Chúa (x.Rm 8,14). Chính vì Thánh Thần nối kết mỗi người đã chịu Phép Rửa nhân danh Ba Ngôi với Chúa Cha và Chúa Con nên cũng chính Thánh Thần nối kết họ với nhau đề làm nên Hội Thánh của Thiên Chúa. Chúng ta hãy đọc lại một đoạn trong thư gởi tín hữu Ephesô sẽ thấy rõ điều này : Nhờ Người (Đức Kitô) cả đôi bên (Do Thái và Dân ngoại), chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha… Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí (Ep 3,18.22).

Từ những điều trên đây chúng ta đã có thể kết luận rằng Thánh Thần không chỉ hướng dẫn mỗi người sống làm Con Thiên Chúa mà còn hướng dẫn cả cộng đồng tín hữu sống làm Dân Thiên Chúa, Hội Thánh của Thiên Chúa.

III. SÁCH TÔNG ĐỒ CÔNG VỤ VÀ MÔ HÌNH QUẢN TRỊ HỘI THÁNH SƠ KHAI

Sách Công Vụ cho chúng ta chiêm ngắm cộng đồng Hội Thánh trong bước hình thành và phát triển, từ đó chúng ta có thể nhận ra nhiều điều liên quan tới ý thức của cộng đồng về chính mình và mô hình quản trị hình thành từng bước dưới sự dẫn dắt của Thánh Thần.

Từ đầu đến cuối sách Công Vụ chúng ta thấy sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần bao trùm tất cả. Từng bước chân của các Tông Đồ trong sứ mạng đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới đều như được Thánh Thần trực tiếp dẫn đưa. Từng cộng đoàn luôn được Thánh Thần điều khiển, dắt dìu.

 Tác giả cho chúng ta thấy ngay từ đầu sự khác biệt trong cách điều hành trước và sau khi cộng đoàn nhận được quyền năng Thánh Thần. Trong thời gian chờ đợi, việc chọn người thay thế ông Giu-đa được tiến hành theo cách thức của Cựu Ước là cầu nguyện rồi rút thăm. Sau này không thấy có lần nào sách Công Vụ hay các sách khác trong Tân Ước nói đến việc rút thăm nữa. Từ khi Thánh Thần xuống trên cộng đoàn chúng ta thấy mọi hoạt động, di chuyển đều do Thánh Thần chỉ đạo và tiêu chuẩn chọn người phục vụ cộng đoàn bao giờ cũng phải là người đầy Thánh Thần.

Tác động đầu tiên của Thánh Thần là các tông đồ, (những người đã từng bỏ chạy và chối Chúa trong đêm Chúa bị bắt, rồi sau khi Chúa phục sinh, vẫn còn ở trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái) có thể đứng lên làm chứng về Chúa Giêsu trước đám đông gồm những người thuộc mọi dân mọi nước tuôn về Giêrusalem, cũng như khi (hai tông đồ Phêrô và Gioan) bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng: “bấy giờ ông Phêrô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ…” (Cv 4,8).

Sau khi hai ông được tha về và kể lại mọi chuyện cho cộng đoàn, “họ đồng tâm nhất trí cất tiếng lên cùng Thiên Chúa…” và khi “họ cầu nguyện xong thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa” (Cv 4,24.31). Như vậy là Thánh Thần mở miệng cho họ nói lời Thiên Chúa và cũng Thánh Thần làm cho lời Thiên Chúa tiếp tục vang lên mà không quyền lực trần gian nào có thể dập tắt được. “Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (4,20).

Chương 5 của sách Công Vụ bắt đầu cho chúng ta thấy sự hiện diện của Thánh Thầntrong việc điều hành cộng đoàn. Khi hai vợ chồng Kha-na-ni-a và Sa-phi-ra âm mưu lừa dối các tông đồ, thánh Phêrô nói với người chồng: “anh lừa dối Thánh Thần”, và nói với bà vợ : “Sao anh chị đồng lòng với nhau để  thử thách Thần Khí Chúa”. Thánh Thần hiện diện trong cộng đoàn Hội Thánh và bảo tồn sự thánh thiêng của cộng đoàn bằng cách loại trừ ngay những kẻ muốn “qua mặt Thánh Thần”. Cũng may là chuyện này chỉ xảy ra một lần và được ghi lại như một lời cảnh cáo, một lời nhắc nhở và mời gọi tôn trọng sự thánh thiêng của cộng đồng Hội Thánh vì là Đền Thờ sống động của Thiên Chúa (x.Ep 2,20-22).

Chương 6 của sách Công Vụ cho chúng ta thấy một cuộc khủng hoảng cơ cấu của cộngđồng Hội Thánh và cách giải quyết. Sự hiện diện của hai nhóm có văn hóa và quyền lợi khác nhau chưa được tôn trọng đúng mức dẫn tới cuộc khủng hoảng. Cách trình bày ở đây giản lược hóa vào chuyện các bà góa của nhóm tín hữu thuộc văn hóa Hy Lạp bị bỏ quên trong việc cấp phát nhu yếu phẩm hàng ngày. Nhưng đọc kỹ phần tiếp theo có thể nhận ra đây là một cuộc khủng hoảng về cơ cấu. Ở các chương 2,4,5 chúng ta thấy nhóm 12 bao thầu hết mọi việc, từ việc công bố Tin Mừng, làm Phép Rửa, dạy dỗ cộng đoàn hàng ngày đến việc quản lý và phân phát lương thực và các nhu cầu vật chất. Chính việc chọn nhóm 7 người phụ tá toàn là những người thuộc văn hóa Hy Lạp hé mở cho chúng ta thấy vấn đề cơ cấu quản trị chưa đáp ứng thành phần cấu tạo của cộng đoàn.

Khi vấn đề được đặt ra, chúng ta thấy các tông đồ đưa ra giải đáp rất nhanh, không thấy hội họp bàn bạc chi cả. Nhưng đọc kỹ cách giải đáp, có thể thấy rằng đã có một cuộc nhận định rất chi tiết và sáng suốt.

Trước hết là phân định lại xem trong những việc nhóm 12 vẫn bao thầu từ trước tới nay, việc gì có thể giao cho người khác, việc gì là của riêng nhiệm vụ tông đồ, không thể giao cho người khác.

Đọc câu đầu tiên trong lời phát biểu của nhóm 12, ta thấy hai loại công việc: rao giảng Lời Chúa và phục vụ bàn ăn. Bây giờ phải chọn một trong hai thì nhóm 12 chọn việc rao giảng Lời Chúa, đó là nhiệm vụ riêng của các ngài. Nếu thế thì việc còn lại là phục vụ bàn ăn có thể giao cho người khác.

Vấn đề tiếp theo : ai có thể đảm nhận công việc đó? 3 tiêu chuẩn vắn gọn được đề ra ngay : người được tiếng tốt trong cộng đoàn, đầy Thần Khí và khôn ngoan. Tiêu chuẩn thứ nhất dễ hiểu: muốn phục vụ cộng đoàn thì phải là người được cộng đoàn tín nhiệm. Tiêu chuẩn thứ hai va thứ ba đi với nhau, có vẻ khó hiểu : tại sao phục vụ bàn ăn mà cũng phải là người đầy Thánh Thần và khôn ngoan?

Nếu đọc tiếp cho đến chuơng 8, chúng ta có thể đặt vấn đề về chính cái gọi là “lo việc ăn uống”. Có vẻ như “nói vậy mà không phải vậy”, bởi vì ngay sau khi kể việc thiết lập nhóm 7 người thì chẳng thấy nói đến việc các ông này lo việc bếp núc, nhưng lại kể chuyện ông Tê-pha-nô giảng dạy, tranh luận và bị giết, rồi ông Phi-lip đi rao giảng cho dân Samari, thực hiện bước thứ ba trong chương trình Chúa Giêsu đã vạch ra cho hành trình làm chứng : Giêrusalem, Giuđê, Samari.

Như vậy tác giả để một khỏang trống cho người đọc tự đìền thêm! Nhưng tại sao tác giả không gỡ cho chúng ta cái khúc mắc này mà vẫn cứ nói công việc của nhóm 7 người là lo việc ăn uống, và tiêu chuẩn là phải đầy Thần Khí và khôn ngoan? Thiết nghĩ chỉ có thể hiểu là việc phục vụ cộng đoàn Hội Thánh, dù là lo việc ăn uống thì cũng phải “đầy Thần Khí và khôn ngoan”, bởi vì cộng đoàn này do Thánh Thần nối kết và làm cho sống động, phát triển. Chúng ta thấy một hiện tượng tương tự trong sách Xuất Hành : người đứng đầu công việc xây dựng nơi thánh là người đầy Thần Khí của Thiên Chúa, còn người phụ tá và những người thợ được tuyển chọn là những người đầy khôn ngoan (x. Xh 31,1-8 và 35,30tt). Việc xây dựng Hội Thánh là công việc của Thiên Chúa được thực hiện bởi quyền năng Thánh Thần (x. Ep 2,20-22; I Pr 2,4-8).

Trở lại phần đầu chương 6, các tông đồ dành cho mình công việc : “Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6,4). Hai nhóm cùng lo việc xây dựng Hội Thánh: một bên lo phục vụ Lời Chúa và một bên lo phục vụ bàn ăn, bên nào cũng phải đầy Thánh Thần, vì là cộng tác viên của Thiên Chúa (x.I Tx 3,2; Mc 16,20; Cv 14,27).

Chúng ta có thể đặt thêm một câu hỏi nữa ở đây: tại sao việc phục vụ Lời Chúa lại gắn với cầu nguyện như một công việc duy nhât gồm hai thì, còn việc phục vụ bàn ăn thì không thấy gắn với cầu nguyện? Ngay ở chuơng 2, câu 42, chúng ta đã thấy các tín hữu cầu nguyện không ngừng, và hiệu quả của cầu nguyện là được Thánh Thần (x. Cv 4,31; Lc 11,13). Vậy thì có lẽ phải đặt vấn đề cách khác: tại sao việc phục vụ Lời Chúa lại gắn với cầu nguyện một cách đặc biệt đến mức làm thành một công việc duy nhất cho nhóm 12 ? Lời Chúa là phương thế đầu tiên để qui tụ và nuôi dưỡng cộng đoàn: nhờ nghe Lời Chúa người ta tin và chịu Phép Rửa để gia nhập cộng đoàn và toàn thể các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy (Cv 2,42). Việc phục vụ Lời Chúa có hai thì: nghe Lời Chúa và giảng Lời Chúa, cũng như việc đón nhận Lời Chúa có hai thì: nghe và giữ Lời Chúa. Người giảng phải nghe Chúa nói trong cầu nguyện, bởi vì Lời Chúa thì phải đến từ Chúa chứ đâu có thể rút từ trong bụng mình ra được.

Nhưng còn phải để ý tới một khía cạnh khác trong nhiệm vụ của nhóm 12: các ngài là những người lãnh đạo cộng đoàn thông qua việc giảng dạy Lời Chúa. Công việc của các ngài giống công việc của ông Môsê trong sách Xuất Hành : đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên Chúa: trình các việc lên Chúa, dạy cho dân các thánh chỉ, lề luật, đường lối phải đi và cách xử sự (x.Xh 18,19-20).

Khi đối chiếu công việc của các tông đồ với công việc của ông Môsê, chúng ta nhận ra nguyên tắc quản trị của người lãnh đạo Dân Chúa : dân là dân của Chúa, nên người thay mặt Chúa lãnh đạo dân phải đứng trước mặt Chúa thay cho dân, trình mọi việc lên Chúa và truyền đạt cho dân các mệnh lệnh của Chúa, ý muốn của Chúa. Dân là đàn chiên của Chúa và Chúa là mục tử, là Đấng chăn dắt It-ra-en. Môsê cũng như những người lãnh đạo chỉ như con chiên đầu đàn đi theo Chúa để cả đoàn chiên đi theo. Câu chuyện vua Đa-vit ra lệnh kiểm tra dân số cho thấy Chúa khẳng định quyền tuyệt đối của Ngài và vai trò của người lãnh đạo. Trong sách E-dê-khi-ên, chương 34, Thiên Chúa quở trách các mục tử Chúa đã đặt lên coi sóc It-ra-en vì họ chỉ lo ăn mà không lo cho sự sống và an toàn của bầy chiên, họ thống trị cách tàn bạo và hà khắc. Ở phần cuối chương này, ngôn sứ lại ví các mục tử tàn bạo như những con chiên mạnh, vừa ăn vừa đạp nát cỏ, khiến những con chiên yếu phải ăn cỏ giập, vừa uống vừa quậy đục nước khiến các con chiên yếu phải uống nước đục. Vây thì người lãnh đạo trong cộng đồng Dân Chúa cũng là chiên được Chúa dùng làm chiên đầu đàn để những chiên khác đi theo. Trách nhiệm của con chiên đầu đàn là phải đi theo đường của Chúa.

Đọc trong Cựu Uớc, chúng ta thấy những lúc bí, vua quan và dân chúng tìm đến các tư tế, các ngôn sứ để thỉnh ý Thiên Chúa. Câu chuyện vua Sa-un, lúc đi tìm con lừa cũng đến tìm ngôn sứ Sa-mu-ên để hỏi, rồi đến cuối đời, khi Sa-mu-ên đã chết còn nhờ bà đồng gọi hồn ông lên để hỏi ý Chúa. Câu chuyện vua A-kháp gọi các ngôn sứ để hỏi xem Chúa có cho đi đánh Ga-la-at hay không (x.I Vua, 22). Tình trạng bi đát lên đến tột cùng khi mà cả ngôn sứ cùng là tư tế, lang thang khắp xứ mà không hiểu biết gì (Gr 14,18).

Tất cả những minh họa trên đây giúp chúng ta thấy rõ hơn việc quản trị cộng đồng Dân Chúa không đơn thuần là quản trị theo kiểu hành chánh mà phải dựa vào việc tìm kiếm và thi hành ý muốn của Thiên Chúa, tức là theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và hướng dẫn Dân Chúa.

Trở lại sách Công Vụ, đọc tiếp từ chương thứ 8, chúng ta sẽ thấy mỗi bước tiến quan trọng trong sự phát triển của Hội Thánh hay đúng hơn, của Lời Chúa, đều do Thánh Thần trực tiếp chỉ đạo như thế nào. Ông Philip (thuộc nhóm 7 người) được Thánh Thần thúc đẩy chạy theo xe của ông quan người E-ti-op, rồi sau khi rửa tội cho ông quan lớn này, Thần Khí lại đem ông đi và người ta gặp thấy ông ở At-đốt, và ông đi rao gỉang tại các thành phố ven biển cho tới Xê-da-rê. Tác giả cho chúng ta theo ông Phi-lip ngưng tại đây để chuẩn bị đón thánh Phêrô và theo ngài vào một bước thúc đẩy mới của Thánh Thần.

Trước khi kể câu chuyện tiếp theo xảy ra ở Xê-da-rê với thánh Phê-rô, tác giả giới thịêu cho chúng ta một nhân vật sẽ đi tiếp bước khai phá của thánh Phêrô, đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới, đó là ông Saolô, người có mặt và ủng hộ việc giết ông Tê-pha-nô, nay lại được Chúa chọn để đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới.

Kế hoạch Chúa Giêsu đích thân đề ra cho các tông đồ là phải làm chứng cho Chúa tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới. Nhưng sau khi đã làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông như chính vị Thượng Tế nhìn nhận (x.Cv 5,28), các ông vẫn chưa ra khỏi Giêrusalem. Chính cuộc bách hại mở đầu với cái chết của ông Tê-pha-nô làm cho mọi người tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri cùng với nhóm 7 người mới được thành lập, đi đến đâu họ loan báo Tin Mừng đến đấy. Thế là Chúa dùng một biến cố bi đát để thực hiện bước tiếp theo. Khi Tin Mừng đã tới Xê-da-rê, thành phố cảng rất thuận lợi cho buớc đi đến tận cùng thế giới, chúng ta lại thấy các tông đồ vẫn dậm chân tại vùng đất quen thuộc và lui tới với đồng bào Do Thái thôi. Hồi ấy, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội Thánh được bình an… Ông Phêrô rảo khắp nơi, xuống thăm cả dân thánh cư ngụ tại Lốt (Cv 9,31-32). Đọc những chương này chúng ta thấy thánh Phêrô và nhóm 12 chưa bao giờ chủ động đi một bước mới.

Bước ra khỏi Giêrusalem là do biến cố bách hại thúc đẩy và những người khác thực hiện. Chỉ khi Samari đã lãnh nhận Tin Mừng thì các tông đồ mới cử ông Phêrô và ông Gioan đến xác nhận bằng cách cầu nguyện và đặt tay trên họ để họ nhận được Thánh Thần. Sau khi Hội Thánh đã có mặt và đuợc bình an khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, ông Phêrô đi khắp nơi thăm viếng dân thánh, như để xác nhận là bước thứ nhất và bước thứ hai đã hoàn thành, nhưng không hề có dấu hiệu cho thấy ông có ý định đi xa hơn. Câu chuyện ở Xêdarê cho thấy ông chưa bao giờ nghĩ tới chuyện đem Tin Mừng ra ngoài giới đồng bào Do Thái của ông. Nhưng Thánh Thần can thiệp cách quyết liệt bắt ông phải đi đến với người ngoài Do Thái. Thánh Thần đã gởi sẵn người tới đón và phải nói đến lần thứ ba ông mới chịu đi. Một chi tiết cần lưu ý là tại nhà ông Co-nê-li-ô thánh Phêrô giảng, rồi xác nhận rằng không ai có thể ngăn cản việc lấy nước làm phép Rửa cho những người này, bởi vì họ đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta. Thánh Phêrô cũng không tự tay làm phép rửa cho họ mà truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Giêsu.

Nhưng sau đó chúng ta lại thấy thánh Phêrô cũng chẳng đi xa hơn. Ngài trở về Giêrusalem đối diện với cộng đòan Hội Thánh tại đây, trả lời cuộc chất vấn: Ông đã vào nhà những kẻ không cắt bì và ngồi ăn uống với họ. Người ta không chất vấn về việc làm phép rửa cho dân ngoại mà chất vấn về việc ông Phêrô vào nhà những kẻ không cắt bì và ngồi ăn uống với họ. Như vậy điều khúc mắc đối với cộng đoàn là làm sao người Do Thái có thể ở cùng nhà, ngồi cùng mâm với những kẻ không cắt bì, dù họ có chịu cùng một phép rửa chăng nữa. Ở chương 6, mới chỉ có hai thành phần Do Thái bản địa và Do Thái thuộc văn hóa Hy Lạp cùng ngồi ăn một mâm mà đã có chuyện không ổn, đến đây lại có cả những kẻ không cắt bì vào ngồi cùng mâm cùng bàn thì sẽ ra sao? Đó là vấn đề gai góc nan giải nhất vẫn kéo dài cho đến ngày nay. Trong bản văn, thánh Phêrô trả lời bằng cách kể lại câu chuyện đã xảy ra, nhấn mạnh hơn vai trò của Thánh Thần bằng cách rút ngắn thời gian rao giảng của ông : tôi vừa mở miệng nói thì Thánh Thần đã ập xuống trên họ như đã xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Nghe thánh Phêrô biện minh rồi thì cả cộng đoàn ngộ ra một điều mới mẻ: Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống (Cv 11,18). Tuy nhiên nỗi khúc mắc của cộng đoàn Giêrusalem chưa phải đã được giải quyết xong. Chúng ta sẽ gặp lại vấn đề này ở chương 15 sau khi những kẻ không cắt bì gia nhập “đại trà”, nhờ sứ vụ của hai tông đồ Phaolô và Ba-na-ba.

Những chương tiếp theo lại cho thấy việc rao giảng Tin Mừng cho người ngoài Do Thái vẫn do những người “di tản” thực hiện và gầy dựng cả một cộng đoàn ở An-ti-o-khi-a. Lần này thì không thấy các tông đồ được cử đến như ở Sa-ma-ri nữa. Chỉ có ông Ba-na-ba, người có tài an ủi được cử đi thăm viếng mà không cần trở về Giêrusalem tường trình.

Sau khi dân Sa-ma-ri chịu phép rửa thì vẫn chưa nhận được Thánh Thần (hiểu theo nghĩa sự biểu lộ quyền năng Thánh Thần giống như các môn đệ đã lãnh nhận ngày lễ Ngũ Tuần), phải chờ Giêrusalem cử hai tông đồ Phêrô và Gioan xuống cầu nguyện và đặt tay họ mới nhận được. Tại gia đình Co-ne-li-ô, ông Phêrô vừa mở miệng giảng thì Thánh Thần đã ập xuống trên họ như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Còn cộng đoàn An-ti-ô-khi-a, chưa thấy mặt vị nào trong nhóm 12 hay nhóm 7 có mặt, người đem Tin Mừng cho họ lại là mấy người gốc Síp và Ky-rê-nê, thế mà khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy ông Ba-na-ba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa. Ông là người tốt, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông theo Chúa (Cv 11,23-24).

Những chi tiết trên đây khiến chúng ta phải thắc mắc : tại sao Sa-ma-ri được một vị trong nhóm 7 rao giảng và làm phép rửa mà vẫn chưa nhận được Thánh Thần, phải chờ hai vị trong nhóm 12 tới cầu nguyện và đặt tay mới nhận được? Trong khi các cộng đoàn khác ở xứ Giuđê không thấy cần Tông đồ nào tới đặt tay. Thánh Phê-rô có đi xuống Lốt và Xê-da-rê là để thăm viếng thôi. An-ti-ô-khi-a là cộng đoàn gồm những người Hy-Lạp cũng không thấy phải chờ Tông Đồ nào tới đặt tay. Muốn hiểu điều này chúng ta phải trở lại các sách ngôn sứ. Sự chia rẽ giữa It-ra-en (Sa-ma-ri) và Giu-đa (Giêrusalem) vẫn là một vết nhơ trong lịch sử Dân Thiên Chúa, nên khi loan báo ơn cứu độ, các ngôn sứ thường loan báo sự hiệp nhất. Đặc biệt ngôn sứ E-dê-khi-ên, chương 37,15-28. Khi toàn thể It-ra-en hiệp nhất trong giao ước mới của Thiên Chúa, bấy giờ, các dân tộc sẽ nhận biết Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hoá It-ra-en. Sách Cv cho thấy lời ngôn sứ ứng nghịệm khi Giêrusalem và Sa-ma-ri hiệp nhất không phải trên bình diện chính trị, mà trong giao ước mới bằng việc đón nhận cùng một Thánh Thần, trước khi dân ngoại được nghe rao giảng Tin Mừng. Sự hiệp nhất giữa Giêrusalem và Sa-ma-ri là dấu hiệu, là bằng chứng để dân ngoại nhận biết Thiên Chúa. Như vậy chủ đề sự hiệp nhất của Dân Chúa như là bằng chứng để dân ngoại nhận biết Thiên Chúa mà Ga 17 khai triển thì sách  Cv đã vận dụng ở đây rồi. Đó là lý do tại sao sách Cv phân biệt giữa cách thức Sa-ma-ri và các cộng đoàn khác nhận được Thánh Thần.

Trở lại câu chuyện cộng đoàn An-ti-ô-khi-a và ông Ba-na-ba. Ông Ba-na-ba là người tốt, đầy lòng tin và Thánh Thần. Đó chính là lý do tại sao ông nhận ra ơn Thiên Chúa nơi cộng đoàn An-ti-ô-khi-a. Đó cũng là lý do khiến ông lập tức trở thành người lãnh đạo cộng đoàn, và sự hiện diện của ông kéo thêm được một đám rất đông theo Chúa (Cv 11,24). Ông lấy sáng kiến đi tìm ông Saulô về An-ti-ô-khi-a. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người (11,26). Đó là cách Thánh Thần chuẩn bị để An-ti-ô-khi-a trởthành bàn đạp cho việc đưa Tin Mừng đến tận cùng thế giới, và hai ông Ba-na-ba và Saulô trở thành hai người đuợc Thánh Thần đích thân sai đi đem Tin Mừng cho dân ngoại. Sách Công Vụ cho chúng ta cảm tưởng là cộng đoàn An-ti-ô-khi-a được Thánh Thần trực tiếp lãnh đạo thông qua các ngôn sứ và thày dạy (Cv 13,1-3).

Đến đây chúng ta hãy trở lại một sự việc ở đầu chương 8: hồi ấy Hội Thánh tại Giêrusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các tông đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri. Có cái gì như “ngược đời” ở đây : từ đầu tới giờ các tông đồ là đối tượng chính của các vụ bắt bớ, nay thì mọi người phải tản mác về các vùng quê còn các tông đồ ở lại Giêrusalem. Dường như tác giả dàn dựng để làm nổi bật vai trò của các Tông Đồ trong giai đoạn Hội Thánh phát triển ra ngoài Giêrusalem như chúng ta vừa lược qua. ĐHY C.M.Martini coi giai đoạn từ chương 6 đến chương 15 trong sách Cv là giai đoạn Hội Thánh chuyển mình để có thể đem Tin Mừng đến tận cùng mặt đất. Việc thiết lập nhóm 7 là bước chuyển mình về cơ cấu, cuộc bách hại sau cái chết của ông Tê-pha-nô là cơ hội giúp Tin Mừng ra khỏi một Giêrusalem đã “đầy giáo lý của các tông đồ” : những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo Lời Chúa (Cv 8,4). Tác giả không quan tâm giải thích cho chúng ta tại sao cuộc bách hại dữ dội nổ ra mà các tông đồ ở lại Giêrusalem trong khi mọi người đều phải tản mác, nhưng suốt những chương tiếp theo tác giả cho thấy các tông đồ sẽ đóng vai trò “phê chuẩn” từng buớc của sự phát triển, bảo đảm tính thống nhất và duy nhất của Tin Mừng: dù được loan báo tại Giêrusalem, Sa-ma-ri, An-ti-o-khi-a hay Rôma thì cũng là một Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã trao cho các Tông Đồ loan báo, cũng vì thế mà sau này mỗi chuyến đi truyền giáo của thánh Phaolô đều kết thúc tại Giêrusalem và lại bắt đầu từ Giêrusalem. Chuyến đi cuối cùng của thánh Phaolô cũng bắt đầu từ Giêrusalem trong tư thế một người tù.

Chúng ta hãy điểm lại những chặng chính. Cv 8,14: các tông đồ ở Giêrusalem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã đón Lời Thiên Chúa, thì cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Việc họ nhận được ThánhThần do lời cầu nguyện và cử chỉ đặt tay của hai tông đồ như một dấu ấn xác nhận quả thật Lời Chúa đã đến với Sa-ma-ri đúng như Chúa Giêsu đã chỉ thị, dù không phải do các tông đồ đích thân loan báo. Sự việc này cũng xác nhận rằng việc Phục Vụ Lời Chúa không phải là “độc quyền” của nhóm 12 nữa.

Cv 10,44-48: Ông Phêrô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa… Bấy giờ ông Phêrô nói rằng: Những người này đã nhận được ThánhThần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?  Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Sau đó họ xin ông ở lại ít ngày. Tại Giêrusalem trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông Phêrô đã giải thích việc Thánh Thần ngự xuống trên các ông như là bằng chứng về việc Đức Giêsu đã được tôn vinh, được đặt làm Chúa. Tại nhà ông Co-ne-li-ô, ông giải thích việc Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người dân ngoại đang nghe lời Thiên Chúa như là bằng chứng Thiên Chúa chấp nhận họ cũng như đã chấp nhận người Do Thái. Ông không tự tay làm phép rửa mà truyền làm phép rửa cho họ. Ông Phêrô nhận định và giải thích tác động của Thánh Thần, rút ra kết luận. Việc ông Phêrô truyền làm phép rửa cho những người ngoại đầu tiên đón nhận Lời Thiên Chúa được nêu lên ở đây có giá trị xác nhận việc rao giảng Lời Chúa và làm phép rửa cho dân ngoại, đón nhận họ vào Hội Thánh. Sau này tại Công Nghị Giêrusalem (Cv 15), thánh Phêrô sẽ nhắc lại kinh nghiệm này và tự coi là người được chọn từ đầu để các dân ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi mà tin theo.

Ở chương 11, thánh Phêrô bị cộng đoàn Giêrusalem chất vấn, không phải về việc làm phép rửa cho người ngoại, nhưng về việc “vào nhà kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ”, ngài bình tĩnh kể lại đầu đuôi sự việc và giúp cho cả cộng đoàn đi vào tiến trình nhận định với ngài, kết quả là mọi người đều nhận ra tác động của Thánh Thần, cùng “à” lên một tiếng thoải mái.

Đến đây kinh nghiệm nhận định của thánh Phêrô và cộng đoàn Giêrusalem đã đủ để Hội Thánh Giêrusalem có thể chấp nhận cộng đoàn gốc dân ngoại An-ti-o-khi-a. Vì thế họ không cần phải cử các tông đồ đến đó, nhưng cử ông Ba-na-ba, người có tài an ủi, người truớc đây đã làm môi giới cho các môn đệ ở Giêrusalem chấp nhận ông Sau-lô (x.Cv 9,26-30). Sứ mạng của ông Ba-na-ba không phải là đi kiểm tra, bởi vì ông không trở về báo cáo cho Giêrusalem, mà trẩy đi Tac-xô tìm ông Sau-lô, mời về An-ti-o-khi-a để cùng nhau phục vụ cộng đoàn. Vậy thì ta có thể hiểu sứ mạng của ông Ba-na-ba đúng như cái tên các tông đồ đã đặt cho ông, là an ủi, khích lệ, củng cố cộng đoàn non trẻ này. Ông cũng khởi đi từ một sự nhận định: thấy ơn thiên Chúa như vậy…

Đến đây ta có thể nhận ra cung cách lãnh đạo của các tông đồ đã thay đổi như thế nào từ chưong thứ 6 trong sách Công vụ. Bước đầu là chia sẻ công việc cho nhóm 7 để có thể phục vụ tốt hơn, bước tiếp theo là nhận định và xác nhận tác động của Thánh Thần, giúp cộng đoàn nhận định và vâng phục Thánh Thần: mọi người đã đón nhận Tin Mừng đều có thể rao giảng Tin Mừng và mọi người đều có quyền được nghe loan báo Tin Mừng. Chúng ta có thể rút ra một hệ luận rất quan trọng liên quan tới vai trò của giáo dân trong Hội Thánh: sáng kiến của những người tín hữu phải tản mác khỏi Giêrusalem, đi tới đâu loan báo Lời Chúa đến đó, không những ở miền quê xứ Giuđê và Sa-ma-ri (x.Cv 8,1.4) mà cả Phê-ni-xi, đảo Síp và An-tio-khi-a, không những cho người Do Thái và cả người Hy-Lạp nữa (x.Cv 11,19-20), và họ thu được kết quả: vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa (Cv 11,21). Chúa xác nhận rằng việc họ làm là do Chúa thúc đẩy, các tông đồ hoặc người được cử đi như ông Ba-na-ba “thấy ơn Thiên Chúa… thì mừng rỡ” (Cv 11,23). Vậy thì trong Hội Thánh sáng kiến không chỉ đến từ người lãnh đạo mà cả từ phía gíao dân nữa. Thánh Thần tác động nơi mọi thành phần của Hội Thánh, nhưng người lãnh đạo phải nhận định xem có đúng là “bàn tay của Chúa” không.

IV. MỘT MÔ HÌNH NHẬN ĐỊNH CỘNG ĐOÀN

Công Nghị Giêrusalem sẽ là cơ hội cho chúng ta chứng kiến một cuộc nhận định mang tính cộng đoàn làm mô hình cho mọi cuộc nhận định cộng đoàn.

 Đọc Cv 11 chúng ta có cảm tưởng vấn đề “đồng bàn” giữa tín hữu gốc Do Thái và gốc dân ngoại đã được giải quyết thỏa đáng và mọi người ở Giêrusalem đồng ý sau cuộc chất vấn thánh Phêrô, nhưng sau khi hai ông Phaolô và Ba-na-ba thực hiện cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng lần thứ nhất, vấn đề lại trở nên sôi động ngay tại Antiokhia. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Ga-lát còn cho thấy ngay cả sau Công nghị Giêrusalem nó vẫn còn dai dẳng, lan cả tới vùng Ga-lát, và thậm chí bản thân thánh Phêrô cũng không còn tự tin như lúc bị chất vấn ở Giêrusalem (x.Gl 2,11-14). Một số người bảo thủ ở Giêrusalem vẫn cho rằng chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu chưa đủ để có thể “đồng bàn” với tín hữu gốc Do Thái, chưa đủ để được cứu độ, được làm Dân Thiên Chúa.

Những người bảo thủ từ Giêrusalem xuống Antiokhia gieo hoang mang. Phản ứng tức thời là tranh luận. Nhưng tranh luận cũng không giải quyết được gì hơn, vì những người gây hoang mang không phải là thành phần lãnh đạo và không được lãnh đạo cử đi, như bức thư của Công Nghị thông báo quyết định nêu rõ (Cv 15,24). Thái độ của những ngừơi gây rối này ngược hẳn với thái độ của ông Ba-na-ba, họ hành động theo sáng kiến riêng, họ không nhận ra ơn Chúa mà chỉ tìm cách áp đặt ý kiến của họ, vì thế không thể đối thoại với họ. Diễn biến của vụ việc đưa cộng đoàn Antiokhia tới quyết định (như vậy phải giả thiết là cộng đoàn này cũng đã qua một cuộc nhận định, tuy bản văn không nói trực tiếp) cử phái đoàn chính thức lên Giêrusalem “gặp các tông đồ và các kỳ mục để bàn về vấn đề đang tranh luận này”.

Trên đường từ Antiokhia lên Giêrusalem, phái đoàn đã có dịp kể cho các cộng đoàn ở Phê-ni-xi và Sa-ma-ri về “việc các dân ngoại đã trở lại với Thiên Chúa, khiến tất cả các anh em rất đỗi vui mừng”. Thêm một sự tương phản nữa. Những ai biết đón nhận ơn Thiên Chúa thì đều rất đỗi vui mừng. Còn những người theo ý riêng mình, không nhận ra ơn Thiên Chúa thì chỉ gây hoang mang. Phê-ni-xi và Sa-ma-ri đã được rao giảng Tin Mừng cùng thời với Antiokhia. Những người chống đối đều xuất phát từ Giêrusalem và không được các cộng đoàn khác chấp nhận. Còn giới lãnh đạo tại Giêrusalem thì sao?

Dấu hiệu tốt đẹp đầu tiên là: tới Giêrusalem, các ông được Hội thánh, các Tông đồ và kỳ mục tiếp đón, và các ông kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với các ông. Nhưng phe chống đối đã có mặt và lên tiếng tuyên bố lập trường. Thế là khỏi cần chờ đoàn đại biểu Antiokhia khiếu nại, các Tông Đồ và các kỳ mục bèn họp nhau đề xem xét việc này.

Diễn biến cuộc họp này như thế nào?

Mở đầu vẫn là một cuộc tranh luận không có kết luận.

Phải đổi phương pháp làm việc. Thánh Phêrô là người khởi xướng. Thay vì tranh luận, hãy nghe và nhìn xem Thiên Chúa đã hành động như thế nào.

Thánh Phêrô đứng lên kể lại kinh nghiệm bản thân của mình như là người đầu tiên được chọn để rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại và đưa ra những kết luận:

1/. Thiên Chúa đã chấp nhận dân ngoại cũng như người Do Thái, bằng chứng là Ngườiđã ban Thánh Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta.

2/. Thiên Chúa không phân biệt chút nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin đểthanh tẩy lòng họ (hiểu ngậm là cũng như chúng ta!) Sau này thánh Phaolô sẽ đẩy đến cùng hệ luận này : người ta được cứu độ là nhờ đức tin chứ không phải nhờ thi hành những việc Luật Môsê truyền.

3/. Vậy thì đừng thử thách Thiên Chúa mà quàng vào cổ các môn đệ một cái ách mà cảcha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi.

4/. Cuối cùng là một nguyên tắc tuyệt đối: Chính nhờ ân sủng Chúa Giêsu mà chúng ta tin mình được cứu độ, cũng một cách như họ.

Vậy thì người Do Thái cũng như người ngoại đều bình đẳng khi đón nhận ơn cứu độ nhờ tin vào Chúa Giêsu và ân sủng Ngài đem tới. Sau này thánh Phaolô sẽ giải quyết khúc mắc : vậy thì có luật Môsê để làm gì (x. Gl,3).

Hiệu quả trước tiên và tức khắc của lời phát biểu của thánh Phêrô là kéo được toàn thể hội nghị vào thái độ lắng nghe, tạo điều kiện cho hai ông Ba-na-ba và Phaolô có thể đứng lên kể lại “các dấu lạ điềm thiêng TC đã dùng hai ông mà làm giữa các dân ngoại”. Nên chú ý tới kiểu nói “dấu lạ điềm thiêng”, là kiểu nói quen thuộc của Cựu Ước để nói về ơn Chúa giải thoát It-ra-en khỏi ách nô lệ Ai-Cập.

Đến lượt ông Giacôbê (người có uy tín nhất ở cộng đoàn Giêrusalem,  những người gây rối vẫn núp dưới tên ông) đứng lên tổng hợp những gì đã nhận ra sau khi nghe ông Phêrô, hai ông Phaolô và Ba-na-ba. Ông mở rộng tầm nhìn cho hội nghị: nhìn vào kế hoạch của Thiên Chúa. Ngay từ đầu, Thiên Chúa đã đoái thương chọn trong các dân ngoại một dân mang danh Người. Ông Giacôbê viện dẫn lời ngôn sứ A-môt để chứng minh đó là kế hoạch của Thiên Chúa đã được loan báo tự ngàn xưa. Ông Phêrô, ông Phaolô hay ông Ba-na-ba có được sai đi rao giảng cho dân ngoại, thì chỉ là để thực hiện kế hoạch ấy của Thiên Chúa. Vậy thì lãnh đạo của Hội Thánh phải làm gì? Không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với ThiênChúa, nói cách khác: đừng cản trở kế hoạch của Thiên Chúa. Tuy nhiên cũng phải chú ý tới những người gốc Do Thái, đừng gây “sốc” cho họ, bởi vì “từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi thành ông Môsê đều có những người rao giảng: họ đọc lời của ông trong các hội đừơng mỗi ngày sa-bát”.

Thế là đã rõ, phải tìm một sự tương nhượng để Do Thái và dân ngoại có thể sống chung với nhau trong một Hội Thánh duy nhất. Đừng gây phiền hà cho người gốc dân ngoại bằng cách quàng vào cổ họ cái ách của luật Môsê mà chính người Do Thái không mang nổi, nhưng người gốc dân ngoại  cũng phải tránh làm những chuyện “chọc vào mắt” người Do Thái như ăn thịt đã cúng cho ngẫu tượng, ăn tiết canh, cháo huyết…

Bản văn không nói tới một cuộc biểu quyết nào. Mọi người như đã nhất trí, Công Nghị chuyển ngay sang việc cử một phái đoàn chính thức đi An-ti-o-khi-a để công bố quyết định của Công Nghị với văn bản rõ ràng trên giấy trắng mực đen. Đó cũng là cách chấm dứt mọi tranh luận,  đồng thời chận bước và bịt miệng những kẻ gây rối.

Chúng ta hãy để ý đến lời công bố “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định”. Công Nghị ý thức rõ ràng mình đã làm việc theo sự dẫn dắt của Thánh Thần và quyết đinh này vừa là của Thánh Thần vừa là của Công Nghị. Khi thánh Phêrô và các Tông Đồ đứng trước tòa, thánh Phêrô tuyên bố: về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người. Vậy thì việc làm chứng cho Chúa Giêsu cũng như vịêc quản trị cộng đoàn đều phải làm cùng với Thánh Thần và theo Thánh Thần.

Đọc lại trình thuật về Công Nghị Giêrusalem, chúng ta thấy rõ vai trò và cách thức nhận định cộng đoàn. Tranh luận không giải quyết được vấn đề, bởi vì mỗi người vẫn bênh vực quan điểm của mình. Chỉ khi cùng nhau tìm hiểu, chiêm ngưỡng kế hoạch của Thiên Chúa và tuân theo kế hoạch ấy người ta mới có thể đồng tâm nhất trí. Kết quả của tranh luận bao giờ cũng có kẻ thắng người thua nên khó đi tới sự đồng tâm nhất trí. Phải làm theo “phe thắng”, nhưng vẫn cứ muốn tìm người ủng hộ quan điểm của mình, mong cho công việc thất bại để chứng tỏ mình có lý : “tôi đã bảo mà!”, “thấy chưa?”. Và trong tâm trạng đó thì khó mà tích cực cộng tác để thực hiện những điều đã quyết định, nếu không phải là đi tới mức bất hợp tác, thậm chí “ phá thối”. Chỉ khi vâng phục Thánh Thần người ta mới có thể hết mình thực hiện điều đã quyết định. 

V. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NHẬN ĐỊNH THIÊNG LIÊNG

Trong Tân Ước, ngoài những thực hành gặp trong sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta còn gặp những lời nhắc nhở, mời gọi như : “ Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không” (I Ga 4,1). “Anh em đừng dập tắt thần khí” (I Tx 5,19). Hai lời khuyên này bổ túc cho nhau. Đừng dập tắt thần khí, nhưng đồng thời phải cân nhắc, phải nhận định xem “có phải bởi Thiên Chúa không”. Đó là trách nhiệm của mỗi người trong cuộc sống và cũng là trách nhiệm đặc biệt khó khăn của những người có trách nhiệm dìu dắt cộng đoàn. Một nguyên tắc bổ sung khác làm cho ta an tâm, đó là nguyên tắc của ông Ga-ma-li-en: “nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tât sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì qúi vị không thể nào phá huỷ được” (Cv 5,38-39). Cả những người có trách nhiệm lãnh đạo cũng như các thành viên khác của cộng đoàn đều phải dựa vảo nguyên tắc trên đây. Khi đứng trước những cái mới mẻ trong cộng đoàn, có  lúc thấy được rõ ràng, có lúc phải kiên nhẫn chờ đợi như ông Ga-ma-li-en đã khuyên Thượng Hội Đồng. Vấn đề chúng ta đặt ra là làm thế nào để nhận ra một sự thôi thúc trong lòng, một ý định nảy sinh, một trào lưu mới, một sáng kiến trong Giáo Hội, trong cộng đoàn… có phải bởi Thánh Thần hay bởi tà thần, có phải bởi Thiên Chúa hay bởi thế gian, xác thịt. Cũng có khi không phải là nhận định về một cái gì đã có trước mắt, mà nhận định xem Chúa muốn tôi, chúng ta làm gì trước một hoàn cảnh nào đó: có thể là cả cuộc sống (chọn bậc sống), có thể là một hoàn cảnh mới đòi thích ứng, đòi sáng kiến để đáp ứng.

 Ở đây chúng ta có thể nhờ kinh nghiệm và chỉ dẫn của thánh I-nhã, người đã có một bề dày kinh nghiệm về nhận định thiêng liêng cá nhân và cộng đoàn. Sau khi đem cả tuổi trẻ của mình đi tìm danh vọng và quyền lực, một quả đại bác đã quật ngã người thanh niên quí tộc của dòng họ Loyola trong khi tử thủ pháo đài Pamplona. Trên giường bệnh, người thanh niên vừa đúng tuổi “tam thập như lập” này vẫn chưa chịu đầu hàng, vẫn sẵn sàng chịu mọi đau đớn để các thày thuốc đập khúc xương chỗ đầu gối vừa lành, nối lại cho ngay ngắn để tiếp tục mang đôi giầy qúi tộc, trong lòng vẫn tiếp tục dệt giấc mộng vàng danh vọng theo tiểu thuyết kiếm hiệp. Rồi một cái gì mới mẻ đã xâm nhập vào tâm hồn khi bất đắc dĩ phải đọc cuộc đời Chúa Kitô và hạnh các thánh, vì kho sách kiếm hiệp của lâu đài đã cạn. Xen kẽ với những mộng mơ kiếm hiệp, lại có những ước vọng noi gương các thánh, chinh phục những đỉnh cao ngược với danh vọng và quyền lực. I-nhã bắt đầu nhận thấy có sự khác biệt trong lòng tùy lúc mình đã thả hồn theo giấc mộng công danh hay theo khát vọng noi gương các thánh. Mơ mộng công danh để lại một sự khô khan trống vắng lạnh lẽo, khát vọng nên thánh để lại sự bình an ngọt ngào an ủi. Đó là bước khởi đầu của một kinh nghiệm rất phong phú về phân định thần loại mà ngài sẽ để lại trong kho  tàng khôn ngoan của Hội Thánh. 30 năm sau, khi nhìn lại cuộc đời mình, ngài nói rằng lúc ấy chẳng có ai dạy dỗ ngài, nhưng Thiên Chúa đã dạy dỗ ngài như thày giáo dạy một cậu học trò nhỏ.

Kinh nghiệm này ngài đã truyền đạt trong cuốn sách nhỏ “Linh Thao”, vận dụng cùng với nhóm bạn đầu tiên trong cuộc nhận định cộng đoàn đưa tới việc thành lập Dòng Chúa Giêsu và trong việc soạn thảo Hiến chương Dòng Chúa Giêsu cũng như việc quản trị Dòng mới này suốt 15 năm, tạo ra một nếp sống và một đường lối quản trị theo Thánh Thần, tồn tại hơn 450 năm qua giữa bao thử thách, sóng gió, kể cả cái chết (suốt 40 năm, 1774-1814) khi dòng bị chính Đức Giáo Hoàng ký lệnh giải thể.

Trong sách Linh Thao, thánh I-nhã cho những nguyên tắc để phân biệt thần loại và cách thức thực hiện một cuộc chọn lựa để quyết định về bậc sống hoặc để chỉnh đốn cuộc sống. Những chỉ dẫn này giúp chúng ta biết cách thức “cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không”. Những nguyên tắc này chia làm hai nhóm, nhóm thứ nhất tương ứng với tuần thứ nhất của tiến trình Linh Thao, tức là thời gian suy niệm về tội lỗi để xin ơn hoán cải sâu xa. Nhóm thứ hai tương ứng với tuần thứ hai tức la thời gian chiêm ngắm Chúa Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể và cuộc sống công khai, để xin ơn “biết Chuá hơn, yêuChúa hơn và theo Chúa hơn”. Ta thử đọc lại những nguyên tắc ngài đã nêu trong sách:

313. QUY TẮC ĐỂ CẢM BIẾT VÀ NHẬN RA PHẦN NÀO NHỮNG THÚC ĐẨY KHÁC NHAU TRONG LINH HỒN ĐIỀU TỐT ĐỂ ĐÓN NHẬN VÀ ĐIỀU XẤU ĐỂ LOẠI BỎ (các quy tắc này thích hợp hơn cho tuần thứ nhất).

314. QUY TẮC I: Đối với những người sa ngã hết tội trọng này sang tội trọng khác, kẻ thù thường quen bày cho họ những vui thú bề ngoài, xui họ tưởng đến những khoái lạc và vui thú giác quan để dễ cầm giữ và thúc đẩy họ tiến sâu vào thói hư và tội lỗi. Với những người như thế, thần lành dùng phương pháp ngược lại, bằng cách thôi thúc cho lương tâm cắn rứt họ bằng luật tự nhiên của lẽ phải.

315. QUY TẮC II: Nơi những người tiến mạnh trong việc diệt trừ tội lỗi và đang tiến lên hơn mãi trên đường phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta, thì lại có phương pháp ngược lại với quy tắc thứ nhất. Vì khi đó, đường lối riêng của thần dữ là cắn rứt, làm buồn phiền và đặt chướng ngại bằng cách gây băn khoăn lo lắng với những lý lẽ giả tạo để người ta khỏi tiến tới, còn cách thức riêng của thần lành là làm cho can đảm và sức mạnh, an ủi, nước mắt, ơn soi giục và an nghỉ, giảm bớt và hủy diệt các trở ngại để cho người ta tiến lên trong đàng lành.

316. QUY TẮC III: Về an ủi thiêng liêng. Gọi là an ủi trong khi linh hồn phát khởi một thúc đẩy nội tâm, khiến linh hồn bừng cháy lửa kính mến Đấng Tạo Hóa và Chúa mình, và do đó, không có thể yêu một tạo vật nào trên mặt đất vì chính tạo vật ấy, nhưng chỉ yêu trong Đấng tạo dựng mọi sự. Đó cũng là trường hợp linh hồn chảy nước mắt giục lòng mến Chúa, hoặc bởi đau đớn vì tội lỗi mình, hay vì sự thương khó của Đức Kitô, Chúa chúng ta, hay vì những điều khác trực tiếp hướng về việc phụng sự và ca ngợi Chúa. Sau cùng, còn gọi là an ủi mọi gia tăng của lòng tin- cậy- mến, cùng mọi niềm vui bề trong mời gọi và lôi kéo (tâm hồn) đến những sự trên trời và phần rỗi riêng của linh hồn mình, làm cho linh hồn được nghỉ ngơi và an bình trong Đấng Tạo Hóa và Chúa mình.

317. QUY TẮC IV: Sự sầu khổ thiêng liêng. Gọi là sầu khổ tất cả những gì trái ngược với quy tắc thứ ba, như sự tối tăm trong linh hồn, xao xuyến bề trong, thúc đẩy về những gì thấp hèn và phàm tục, lo lắng về những xao động và cám dỗ xúi ta mất tin tưởng, trông cậy, lòng mên; (linh hồn) cảm thấy lười biếng, khô khan, buồn sầu và như bị lìa xa Đấng Tạo Hóa và Chúa mình. Vì như an ủi trái ngược với sầu khổ thế nào, thì các tư tưởng do an ủi sinh ra cũng trái ngược với các tư tưởng do sầu khổ sinh ra như vậy.

318. QUY TẮC V: Trong thời gian sầu khổ, đừng bao giờ thay đổi, nhưng hãy cương quyết bền vững trong những quyết định và dốc lòng có trước khi bị sầu khổ, hoặc những quyết định đã có khi được an ủi trước đây. Vì cũng như trong khi được an ủi, phần nhiều là thần lành hướng dẫn khuyên nhủ ta thế nào, thì trong cơn sầu khổ, thần dữ cũng (làm) như vậy, mà theo lời khuyên của nó, ta chẳng thể gặp được con đường đưa tới đích.

319. QUY TẮC VI: Trong cơn sầu khổ, nếu như không nên thay đổi những điều đã quyết định, thì lại rất nên cương quyết thay đổi chính mình để chống lại với cơn sầu khổ ấy, chẳng hạn bằng cách chăm chú cầu nguyện, suy gẫm hơn, xét mình nhiều hơn và gia tăng sự hãm mình theo cách nào thích hợp.

320. QUY TẮC VII: Đang gặp sầu khổ, ta hãy nghĩ rằng, để thử luyện ta, Chúa đã để ta với sức tự nhiên chống trả các xao động và cám dỗ của kẻ thù; như vậy ta vẫn có thể chống trả được, nhờ ơn Chúa vẫn giúp đỡ dù ta không cảm thấy rõ ràng. Vì Chúa rút bớt lòng sốt sắng nồng nàn, lòng mến bao la và ân sủng mạnh mẽ nhưng vẫn để lại ân sủng đủ cho sự cứu rỗi đời đời.

321. QUY TẮC VIII: Đang cơn sầu khổ hãy gắng giữ sự nhẫn nại, là sự trái ngược với những xáo trộn xảy đến, và nghĩ rằng, chẳng bao lâu nữa sẽ được an ủi, nếu hết sức chiến đấu với cơn sầu khổ ấy, như đã nói ở quy tắc thứ sáu.

322. QUY TẮC IX: Có ba nguyên do chính khiến ta gặp sầu khổ:

- Thứ nhất: vì ta không sốt mến đủ, lười biếng hay chểnh mảng trong các việc thiêng liêng; vậy là vì lỗi ta mà sự an ủi thiêng liêng lìa bỏ ta;

- Thứ hai: để thử coi sức ta tới đâu và ta có thể vươn tới đâu trong việc phụng sự và ca ngợi Chúa, khi không được thưởng công bằng bấy nhiêu an ủi và ân sủng bao la;

- Thứ ba: để ta học biết và nhận thức tận thâm tâm rằng, không phải tự ta làm phát sinh hay duy trì được lòng sốt sắng vô ngần, lòng mến mạnh mẽ, nước mắt hoặc ơn an ủi thiêng liêng, mà mọi sự đều là ân điển của Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và để ta đừng “làm tổ ở nhà người khác”, và đừng tự đắc đến trở thành kiêu ngạo, khoe khoang, tự gán cho mình lòng sốt sắng hay các hoa trái khác của ơn an ủi thiêng liêng.

323. QUY TẮC X: Khi được ơn an ủi, phải nghĩ tới cách xử sự trong cơn sầu khổ sẽ đến, đồng thời dành lấy sức cho lúc đó.

324. QUY TẮC XI: Ai được an ủi, phải gắng tự khiêm và tự hạ chừng nào có thể, bằng cách nghĩ mình nhỏ hèn biết mấy trong cơn sầu khổ, khi không có ân sủng này. Trái lại, người lâm cơn sầu khổ phải nghĩ mình có thể làm được nhiều nhờ ơn đủ của Chúa trợ giúp, để chống trả mọi kẻ thù, nhờ lấy sức nơi Đấng Tạo Hóa và Chúa mình.

325. QUY TẮC XII: Kẻ thù xử sự như đàn bà, vì khi ta chống trả thì nó yếu, và khi ta để mặc thì nó mạnh. Quả vậy, đặc tính của đàn bà khi gây gỗ với người đàn ông, là mất can đảm và chạy trốn khi người đàn ông thẳng tay chống trả. Trái lại, nếu người đàn ông bắt đầu chạy trốn và mất can đảm, thì cơn giận, sự trả thù và sự hung dữ của người đàn bà thật không sao lường được.

Cũng vậy, đặc tính của kẻ thù là yếu nhược, khiếp đảm và bỏ chạy với những chước cám dỗ của nó, khi người tập tành trong đàng thiêng liêng thẳng tay chống trả các cám dỗ của nó bằng cách làm điều ngược hẳn lại. Trái lại, nếu người ấy bắt đầu sợ hãi và mất can đảm trước cơn cám dỗ, thì trên mặt đất này, không có vật nào hung dữ cho bằng kẻ thù của bản tính loài người trong việc theo đuổi ý định xấu xa của nó cách dữ dằn chừng ấy.

326. QUY TẮC XIII: Kẻ thù cũng còn sử xự như kẻ si tình lẳng lơ, muốn giữ bí mật để khỏi bị lộ. Quả vậy, một người đàn ông đồi bại dùng lời xảo trá quyến rũ một thiếu nữ con nhà lành, hoặc vợ một người đứng đắn, thì muốn cho những lời dụ dỗ của hắn được giữ kín; trái lại hắn rất bất mãn khi thiếu nữ mách với cha, thiếu phụ mách với chồng những lời quyến rũ và ý xấu xa của hắn, vì hắn dễ dàng suy ra rằng, không thể nào thành công được với chuyện hắn đã bắt đầu.

Cũng vậy khi kẻ thù của bản tính loài người đưa những sự xảo trá và xúi giục của nó vào linh hồn ngay lành, thì mong muốn những điều đó được tiếp nhận và giữ kín. Nhưng khi linh hồn tỏ ra với cha giải tội tốt hay một người đạo đức nào khác am tường những dối trá và sự hiểm độc của nó, thì nó rất bất mãn, vì nó kết luận rằng không thể đạt tới điều xấu xa mà nó đã bắt đầu, vì sự dối trá rõ rệt của nó đã bị phanh phui.

327. QUY TẮC XIV: Kẻ thù lại còn xử sự như một tướng quân để thắng và cướp những gì nó muốn. Vì như một vị chỉ huy cầm đầu đội quân, sau khi đặt doanh trại và xem xét lực lượng hoặc cách bố trí của một thành trì, sẽ tấn công vào điểm yếu nhất; thì cũng vậy, kẻ thù của bản tính loài người lượn quanh để dò xét những nhân đức đối thần, các nhân đức trụ [1] và các nhân đức luân lý khác của ta, và điểm nào nó thấy ta yếu nhất và dễ nguy nhất cho phần rỗi đời đời của ta, nó sẽ tấn công vào đó và cố hạ ta.

328. QUY TẮC VỀ CÙNG MỘT VẤN ĐỀ ĐỂ PHÂN BIỆT CÁC THẦN RÕ HƠN (Các quy tắc này thích hợp hơn cho tuần thứ hai.)

329. QUY TẮC I: Đặc điểm của Chúa và các thiên thần khi soi giục là ban sự sảng khoái và vui vẻ thiêng liêng liêng thật, xóa bỏ mọi buồn sầu và xao xuyến do kẻ thù đưa vào. Còn đặc điểm của kẻ thù là chống lại sự sảng khoái và niềm an ủi thiêng liêng ấy bằng cách đưa ra những lý do giả tạo, cầu kỳ và ngụy biện không cùng.

330. QUY TẮC II: Chỉ có Thiên Chúa, Chúa chúng ta, mới ban ơn an ủi cho linh hồn mà không cần có nguyên do trước; vì quyền riêng của Đấng Tạo Hóa là vào, ra, đánh động linh hồn, lôi cuốn trọn vẹn linh hồn làm cho linh hồn yêu mến Ngài. Tôi nói không có nguyên do, nghĩa là, không có một tình cảm hay một nhận thức về một đối tượng nào trước, nhờ đó sự an ủi phát sinh do tác động của trí tuệ và ý chí.

331. QUI TẮC III: Khi có nguyên do, thần lành cũng như thần dữ đều có thể an ủi linh hồn, nhưng nhằm mục đích trái ngược nhau: thần lành nhằm mưu ích cho linh hồn, để nó lớn lên và ngày càng tốt lành hơn, còn thần dữ nhằm điều ngược lại, để rồi lôi cuốn linh hồn theo ý xấu xa đồi tệ của nó.

332. QUI TẮC IV: Đặc điểm của thần dữ là giả dạng thần lành đi vào theo chiều hướng của linh hồn trung tín để rồi kéo linh hồn ra theo đường của nó; nghĩa là nó bày ra những tư tưởng tốt lành thánh thiện hợp với tâm hồn công chính, rồi lần lần gắng lôi kéo linh hồn ra theo những mưu mô ẩn kín và những ý đồi tệ của nó.

333. QUI TẮC V: Cần chú ý nhiều về diễn biến của tư tưởng. Nếu từ đầu đến cuối đều tốt, hướng hẳn về đường lành, là dấu hiệu của thần lành. Nhưng nếu diễn biến của tư tưởng đưa ta tới điều xấu hoặc lo ra, hay không được tốt như điều trước đó linh hồn đã định làm, hoặc làm giảm sút, khiến ta lo lắng, bối rối, mất sự bình an, yên tĩnh đã có từ trước, đó là dấu hiệu rõ ràng điều ấy bởi thần dữ, kẻ thù của sự tiến tới và phần rỗi ta.

334. QUI TẮC VI: Khi đã cảm thấy và nhận ra kẻ thù của bản tính loài người bởi cái đuôi rắn của nó và mục đích xấu xa nó muốn đưa tới, thì điều có ích cho người bị cám dỗ là sau đó duyệt lại diễn biến của những tư tưởng tốt nó bày ra và khởi đầu của những tư tưởng ấy, và xem nó đã lần lần tìm cách khiến ta rời sự dịu ngọt và niềm vui siêu nhiên vốn có trước, cho đến chỗ đưa ta tới ý định đồi tệ của nó như thế nào; để nhờ nhận biết và ghi lại những kinh nghiệm đó, ta sẽ giữ mình cho khỏi những dối trá thường lệ của nó sau này.

335. QUY TẮC VII: Đối với những người đang tiến tới, thần lành soi dẫn linh hồn cách êm ái, nhẹ nhàng và dịu ngọt, như giọt nước thấm vào miếng bọt biển; còn thần dữ thì thúc đẩy cách chát chúa, ồn ào và sôi động, như giọt nước rơi trên đá. Với những người sa sút, thì các thần nói trên hành động ngược lại. Lý do là tùy theo tình trạng của linh hồn trái ngược hay hòa hợp với các thần nói trên, vì khi trái ngược, thì các thần xâm nhập cách ồn ào, dễ cảm thấy và nhận ra, còn khi hòa hợp thì các thần ấy xâm nhập lặng lẽ như vào nhà mình, cửa mở.

336. QUY TẮC VIII: Khi an ủi không có nguyên do, thì không có cạm bẫy, vì như đã nói trên, đó là ơn của riêng Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Song người sống thiêng liêng được Chúa ban ơn yên ủi phải tỉnh thức, và chú ý xem xét và phân biệt thời gian được an ủi với thời gian tiếp sau, khi linh hồn còn nóng nảy và sung sướng vì ơn an ủi vừa qua và dư hưởng của ơn ấy. Qủa vậy, trong thời gian tiếp sau ấy, nhiều khi tự mình suy nghĩ theo tư tưởng và suy luận riêng, hoặc do ảnh hưởng của thần lành hay thần dữ, ta hoạch ra những dự định và ý kiến mà không phải do Thiên Chúa, Chúa chúng ta, trực tiếp ban cho, và vì thế, cần xét xem thật kỹ trước khi hoàn toàn tin tưởng ở những điều ấy và đem ra thực hành.

VI. THỰC HÀNH NHẬN ĐỊNH THIÊNG LIÊNG

Điều kiện tiên quyết để có thể cân nhắc cũng giống như khi ta muốn sử dụng cái cân, nếu là cân bàn thì phải điều chỉnh cho kim chỉ đúng số không, nếu là cân móc thì phải xê dịch quả cân cho tới khi cán cân thật thăng bằng. Đó là điều thánh i-nhã gọi là sự bình tâm, nghĩa là giữ cho lòng mình không nghiêng về phía nào cả, chỉ sẵn sàng theo đàng nào Chúa muốn thôi. Cũng như sức hút của trái đất giữ cho cán cân thăng bằng và tạo nên sự giao động khi có trọng lượng được đặt lên cân, thì ở đây chính sức hút của Thiên Chúa làm cho tâm hồn “bình tâm”.

Ta hãy đọc lại “lời phi lộ” của thánh I-nhã:

 Trong mọi việc lựa chọn tốt, trong mức độ hết sức có thể, con mắt ý hướng chúng ta phải đơn sơ, chỉ nhằm cái (mục đích) vì đó tôi đã được dựng nên, ấy là để ngợi khen Thiên Chúa, Chúa chúng ta và để cứu rỗi linh hồn tôi; như thế dù tôi lựa chọn cách nào thì việc lựa chọn ấy cũng phải nhằm giúp tôi đạt tới cứu cánh vì đó tôi được tạo dựng, nên không được xếp đặt và khuôn cứu cánh theo phương tiện, nhưng phải xếp đặt và khuôn phương tiện theo cứu cánh.

Làm sao đạt đuợc sự bình tâm? Trong tiến trình cầu nguyện mà thánh I-nhã đã đúc kết để giúp người khác đi vào kinh nghiệm cầu nguyện đã biến đổi cuộc đời ngài, ngài đặt cái tựa đề : “Linh thao để tự thắng mình và sắp xếp cuộc sống cho có trật tự mà không quyết định theo một tình cảm lệch lạc nào”. Làm sao để có thể quyết định mà không dựa theo một tình cảm lệch lạc nào? Điều có thể nói ngay là phải loại trừ mọi tình cảm lệch lạc trước đã. Nhưng lấy gì làm chuẩn để có thể nói một tình cảm nào đó là lệch lạc? Lấy sức ở đâu mà uốn nắn được tình cảm của mình cho đúng chuẩn mực và khỏi lệch lạc?

Tiến trình Linh Thao sẽ giúp người “luyện tập” tìm được sự bình tâm, nhận biết những lệch lạc nơi bản thân và tìm được chuẩn mực cùng sức mạnh để uốn nắn tình cảm của mình.

Để tìm sự bình tâm, phải đặt mình dưới tác động của sức hút duy nhất là Thiên Chúa, cùng đích cuộc sống của con người, điều thánh I-nhã gọi là nguyên lý và nền tảng:

Con người được dựng nên để ngợi khen, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình. Mọi loài khác dưới đất cũng được tạo dựng cho con người, để giúp họ đạt tới cùng đích Đấng Tạo Hóa đặt cho họ. Bởi thế người ta chỉ được sử dụng tạo vật theo mức độ chúng giúp đạt tới cứu cánh và phải gạt bỏ khi chúng làm cản trở. Do đó, cần phải giữ cho mình được bình tâm [1] đối với mọi tạo vật trong tất cả những gì nằm trong sự tự do của ta và không bị cấm, đến nỗi chúng ta không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả.

Suy niệm, nghiền ngẫm chân lý nền tảng này của đức tin, nhận ra những hệ luận cho cuộc sống và mọi tương quan của mình, cầu xin ơn Chúa giúp để có thể đạt tới sự tự do nội tâm khiến mình không còn tìm chi khác ngoài Thiên Chúa là cùng đích đời mình. Đó là chiều kích hiện sinh của lòng tin. Thiên Chúa không chỉ là Đấng ngự trên cao, Ngài đã tự ban mình làm cùng đích cuộc đời tôi. Đón nhận ân huệ cao cả này và chấp nhận mọi hệ quả. Đây chính là quy luật của tình yêu: yêu một người là chấp nhận sự hiện diện của người ấy và mọi hậu quả của sự hiện diện ấy trong cuộc đời mình. Đó là “kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự” như ta vẫn đọc trong kinh “kính mến”.

Khi lời kinh “kính mến” không còn là lời thuộc lòng phát ra trên đầu môi chót luỡi, nhưng thành thái độ chân thành và sâu xa, thì tâm hồn ta được hoàn toàn tự do. Lúc này ta mới có thể nhìn vào những lệch lạc trong tâm hồn và cuộc sống của mình mà đỉnh cao là tội lỗi. Nhìn dưới ánh sáng của Tình Yêu đầy nhân lành và thương xót của trái tim Thiên Chúa, ta sẽ gớm ghét mọi tội lỗi và lệch lạc để lăn xả vào lòng Cha nhân lành, để cho Ngài yêu ta và để tình yêu của Ngài biến đổi ta.

Gạt bỏ được những lệch lạc rồi, ta đi tìm chuẩn mực để có thể cân nhắc các thần khí bằng cách chiêm ngắm Chúa Giêsu, vì Ngài là Con Đường, là Sự Thật và Sự Sống. Là Kitô hữu, ta chấp nhận bước theo Chúa Giêsu trên con đường Ngài đi. Việc chiêm ngắm Chúa Giêsu giúp ta gắn bó với Ngài đến nỗi chỉ muốn nên giống Ngài trong mọi sự như thánh Phaolô nói: mặc lấy Đức Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô (x. Rm 8,29; Gl 3,27). Như vậy ta có một chuẩn mực tuyệt đối là Đức Giêsu Kitô: nghiêng về cái gì Chúa Giêsu đã chọn, chọn cái gì làm cho tôi nên giống Chúa Giêsu hơn cả. Với tiêu chuẩn tuyệt đối này ta có thể bắt đầu nhận định.

1. Nhận định thiêng liêng

Ta quen dịch từ “spitualis” (spirituel, spiritual) là thiêng liêng. Trong trường hợp nói về nhận định thiêng liêng, ta phải trở lại với gốc của từ này là Spiritus : nhận định trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần để nhận ra sự thôi thúc của Thánh Thần, phát hiện được sự thôi thúc của tà thần, của thế gian và xác thịt. Đây là một tiến trình cầu nguyện.

Trong sách Linh Thao, thánh I-nhã hướng dẫn rất tỉ mỉ phần này. Một đàng là những đề tài cầu nguyện về Ba Mẫu người và Ba bậc khiêm nhường để củng cố sự bình tâm, một đàng là những lời chỉ dẫn về “những điều có thể lựa chọn”, sau đó ngài nói đến ba tình huống có thể xảy ra:

2. Về ba thời kỳ thích hợp để làm việc lựa chọn tốt lành

175. THỜI KỲ THỨ NHẤT: Là khi Thiên Chúa Chúa chúng ta đánh động và lôi kéo ý muốn đến nỗi linh hồn trung tín tuân theo điều đã được chỉ vạch không hồ nghi mà cũng không thể hổ nghi; thánh Phaolô và thánh Matthêu đã làm như thế khi các Ngài theo Đức Kitô Chúa chúng ta.

176. THỜI KỲ THỨ HAI: Khi nhận được đủ ánh sáng và sự hiểu biết bởi kinh nghịêm những an ủi và sầu khổ, cũng như bởi kinh nghịêm phân biệt thần tốt và thần xấu.

177. THỜI KỲ THỨ BA: Thời kỳ thứ ba thì trầm lặng; trước hết suy xét con người sinh ra để làm gì, tức là để ngợi khen Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và để cứu linh hồn mình. Và với lòng ước ao sự ấy, chọn làm phương thế, một cuộc sống hay một bậc trong phạm vi Giáo Hội chấp nhận, để gặp được ở đó sự giúp đỡ cho việc phụng sự Chúa và cứu rỗi linh hồn mình.

Tôi nói, thời kỳ trầm lặng, nghĩa là khi linh hồn không bị xao động bởi thần tốt hay thần xấu, và sử dụng những khả năng tự nhiên của mình cách tự do và yên tĩnh.

Tình huống thứ nhất thì không có gì để bàn thêm.

Tình huống thứ hai chính là kinh nghiệm bản thân của thánh I-nhã ở Loyola, lúc mới được ơn Chúa. Nó cũng có thể xảy ra cho nhiều người.

Tình huống thứ ba là thông thường trong cuộc sống của mỗi người, mỗi cộng đoàn. Đối với tình huống này Thánh I-nhã đưa ra hai cách để làm một cuộc chọn lựa tốt đẹp.

3. Nếu cuộc lựa chọn không làm được trong thời kỳ thứ nhất hay thứ hai, thì sau đây là hai cách để lựa chọn theo thời kỳ thứ ba.

a. Cách thứ nhất để làm việc lựa chọn tốt lành(gồm sáu điểm):

178. ĐIỂM NHẤT: Là đặt mình trước những điều tôi toan lựa chọn, chẳng hạn một chức vụ hay bổng lộc để nhận hay bỏ, hoặc bất cứ điều gì khác mà sự lựa chọn có thể thay đổi được.

179. ĐIỂM HAI: Tôi phải nhằm đến cứu cánh vì đó tôi đã được dựng nên, là ngợi khen Thiên Chúa, Chúa chúng ta và cứu rỗi linh hồn tôi; lại nữa tôi phải giữ bình tâm, không có một quyến luyến lệch lạc nào, đến nỗi không hướng chiều và cũng không tha thiết để nhận điều đã được đề nghị hơn là từ chối hoặc từ chối hơn là nhận; nhưng tôi phải giữ mình ở vị thế cân bằng như cái kim của một bàn cân; chỉ nghiêng theo đàng nào tôi “cảm thấy” hợp hơn cho vinh quang và sự ca ngợi Chúa cùng việc cứu rỗi linh hồn tôi.

180. ĐIỂM BA: Xin Thiên Chúa, Chúa chúng ta đoái thương đánh động ý muốn tôi và đặt vào linh hồn tôi điều tôi phải làm đối với việc đã được đề nghị, để ngợi khen và làm vinh danh Chúa hơn, bằng cách dùng trí khôn suy xét đúng đắn và trung thành, và lựa chọn hợp với ý cực thánh và nhân lành của Người.

181. ĐIỂM BỐN: Suy xét xem việc được chức vụ hay bổng lộc nói đây sẽ sinh thuận tiện và ích lợi cho tôi bao nhiêu, duy để ngợi khen Thiên Chúa, Chúa chúng ta và cứu rỗi linh hồn tôi; và ngược lại cũng theo cách thức ấy, suy xét những bất tiện và nguy hiểm nếu được điều ấy. Trong phần thứ hai cũng làm như vậy, nghĩa là xét những thuận tiện và ích lợi bởi việc không được điều ấy, và ngược lại cũng xét những bất tiện và nguy hiểm nếu không có điều ấy.

182. ĐIỂM NĂM: Sau khi đã suy nghĩ và cân nhắc vấn đề dưới mọi khiá cạnh như thế, coi xem lý trí nghiêng về phiá nào, và phải lựa chọn theo sự thúc đẩy mạnh nhất của lý trí chứ không theo sự thúc đẩy nào của tình cảm.

183. ĐIỂM SÁU: Khi đã làm xong việc lựa chọn hay quyết định ấy, người đã lựa chọn phải mau mắn đi cầu nguyện trước mặt Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và dâng cho Ngài cuộc lựa chọn đó, để Chúa Chí Tôn đoái nhận và xác chuẩn cho, nếu điều ấy giúp phụng sự và ngợi khen Ngài hơn.

b. Cách thứ hai để làm việc lựa chọn tốt lành (gồm bốn quy tắc và một ghi chú.)

184. QUY TẮC I: Lòng yêu mến đánh động và làm tôi lựa chọn điều nào đó, phải từ trên mà xuống, bởi lòng kính mến Thiên Chúa, như thế người lựa chọn trước hết phải cảm thấy trong lòng rằng tình yêu mến nhiều hay ít đối với điều họ chọn, hoàn toàn hướng về Đấng Tạo Hóa và Chúa họ.

185. QUY TẮC II: Tưởng tượng ra một người mà tôi chưa bao giờ gặp và cũng chẳng quen biết, với lòng ước ao cho họ được hoàn thiện trọn vẹn, suy xét điều tôi sẽ khuyên họ làm và lựa chọn để sáng danh Thiên Chúa, Chúa chúng ta hơn cả và làm cho linh hồn họ nên trọn lành hơn; và tôi cũng làm như vậy, tuân theo quy tắc tôi đặt cho người khác.

186. QUY TẮC III: Xét coi, ví như tôi đang ở vào giờ chết, thì thái độ và quy tắc mà lúc ấy tôi muốn mình tuân theo trong công việc lựa chọn hiện bây giờ như thế nào, và rắp tâm quyết định hoàn toàn tuân theo quy tắc đó.

187. QUY TẮC IV: Nhìn ngắm và suy xét tình trạng của tôi trong ngày phán xét. Nghĩ xem lúc ấy tôi muốn mình đã định đoạt về công việc hiện tại như thế nào; quy tắc mà lúc ấy tôi muốn mình đã tuân theo, tôi nhận lấy ngay bây giờ, để lúc ấy tôi được hạnh phúc và mừng vui trọn vẹn.

188. GHI CHÚ: Một khi đã nhận lấy những quy tắc trên đây để được cứu rỗi và an nghỉ đời đời, tôi sẽ làm việc lựa chọn và dâng cho Thiên Chúa, Chúa chúng ta, theo như điểm thứ sáu trong cách lựa chọn thứ nhất.

Phương pháp nhận định và chọn lựa này có thể vận dụng trong đời sống cá nhân khi chọn lựa bậc sống (nhận định ơn gọi) cũng như khi muốn canh tân đời sống, trong đời sống cộng đoàn khi phải đáp ứng những tình huống mới mẻ, khi phải chỉnh đốn nếp sống, khi phải chọn lựa hoạt động tông đồ hay giải quyết những vấn đề khác của cộng đoàn.

Khi áp dụng cho cộng đoàn thì toàn thể cộng đoàn phải cùng nhau đi vào cầu nguyện, mỗi người phải đạt tới sự bình tâm và sẵn sàng đón nhận những gì Chúa sẽ bày tỏ qua cộng đoàn.

VII. NHẬN ĐỊNH CỘNG ĐOÀN

(Phần này lấy lại bài đã soạn cho giới tu sĩ TPHCM)

Tiếp sau đây chúng ta sẽ xem thánh I-Nhã và nhóm bạn đầu tiên của ngài đã ứng dụng những nguyên tắc này vào cuộc nhận định cộng đoàn thế nào.  Từ đó học lấy cách ứng dụng vào việc nhận định cộng đoàn của chúng ta hiện nay, trong thời kỳ canh tân thích nghi đời tu, thời kỳ mà các hội dòng chúng ta đang cố gắng biên soạn hoặc áp dụng hiến chương mới, đang cố gắng làm sao cho cuộc sống của cộng đoàn, của từng người trong cộng đoàn đáp ứng sát hơn với ơn gọi của mình cũng như với xã hội hiện thời, với những người mình phục vụ, với những hoàn cảnh cụ thể mà vẫn giữ đúng mục tiêu của mình là sống ơn gọi phụng sự Chúa, phục vụ Hội Thánh, phục vụ anh chị em, phục vụ đồng bào của mình.  Sự nhận định và lựa chọn đúng đắn, đó là yếu tố quyết định cho tương lai của mỗi cộng đoàn tu sĩ chúng ta.

 Nói về nhận định cộng đoàn, đây không chỉ là danh từ theo mốt, cũng không chỉ là một phương pháp tâm lý, bởi vì kinh nghiệm trong Linh thao cho thấy việc nhận định và chọn lựa không thuần túy là một kiểu chọn lựa theo máy tính, nhưng là sự vận dụng toàn thể con người đặt tất cả con người của mình trước một thực tế, trước một vấn đề mình phải chọn lựa và phải chọn lựa thế nào để thực hiện được đúng mục đích cuối cùng của đời mình, tức là ngợi khen, tôn kính, phụng sự Thiên Chúa và cứu rỗi linh hồn mình.  Ở đây chúng ta đặc biệt nói về cộng đoàn tu sĩ là cộng đoàn gồm những người đã chọn một con đường sống theo và trong Thánh Thần.  Có những lúc chúng ta cũng cần phải cùng nhau nhận định, cùng nhau đi đến những quyết định cụ thể.  Dĩ nhiên có thể có người nói đã có Bề trên, cứ để Bề trên nói gì thì nghe vậy, khỏi phải vất vả.  Nói như vậy cũng tốt, nhưng chúng ta thấy rằng nhất là từ sau Công Đồng Vatican II, tinh thần cộng đoàn đó trong Giáo Hội sống lại mãnh liệt hơn.

Trở lại lịch sử Giáo Hội (x. phần đầu), chúng ta thấy ngay từ thời các tông đồ, Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã là một cuộc nhận định cộng đoàn đầu tiên, ở đó tất cả các tông đồ, các kỳ mục họp nhau dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần để quyết định về nếp sống phải đặt ra cho những người gốc dân ngoại tin Chúa Ki-tô và xin chịu phép rửa.  Họ phải sống như thế nào?  Vấn đề là họ có phải trở thành người Do-thái cùng một lúc với việc trở thành Ki-tô hữu hay không?  Trong Giáo Hội, Công Đồng chính là hình thức nhận định cộng đoàn của toàn thể Giáo Hội.  Vậy trong cộng đoàn tu sĩ chúng ta, nhiều khi cần phải đi đến nhận định cộng đoàn, không phải vì không tin tưởng vào bề trên, cũng không phải vì sự vâng phục không đủ để linh hoạt một cộng đoàn, nhưng đó là đường lối của Thiên Chúa, đường lối nhập thể của Người đối với chúng ta.  Đó là một nhu cầu vừa vượt qua được những giới hạn tất hữu của từng cá nhân, đồng thời cả cộng đoàn cùng nhau đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.  Chúa Giê-su hứa:  “Khi có hai, ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18:20).  Chính sự hiệp thông trong Thánh Thần làm nên sự hiệp nhất trong cộng đoàn, và khi tất cả cùng nhau đặt mình dưới ánh sáng Chúa Thánh Thần thì sẽ tạo được sự đồng tâm nhất trí.

Nói rằng vâng lời mà làm thì cũng được, nhưng khi tất cả cùng nhau đồng tâm nhất trí để mọi người vâng phục một cách trọn vẹn thì những công việc chúng ta làm sẽ đạt kết quả tốt hơn để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn.  Chính sự cọ sát các ý kiến giúp chúng ta khách quan hơn, biết chết đi với chính mình, bớt quan trọng hóa chính mình, giúp khiêm tốn hơn.  Khi đã cùng nhau nhận ra ý Chúa thì việc thi hành cũng sẽ dễ hơn.  Bởi vì vấn đề đặt ra ở đây là những cách tiến hành giúp cho một cộng đoàn có thể đi tới một quyết định theo đúng ý Chúa và giúp cho cả nhóm cũng như từng thành viên dấn thân vào một hoạt động phục vụ tốt hơn.  Tất nhiên khi đã nói đến nhận định và chọn lựa thì những nguyên tắc thánh I-Nhã đã nêu lên cho từng cá nhân ở trong Linh thao cũng sẽ ứng dụng cho việc nhận định cộng đoàn, nhưng để dễ hiểu và để có một kinh nghiệm làm mẫu thì không gì bằng chúng ta lấy chính kinh nghiệm của thánh I-Nhã và nhóm bạn đầu tiên của ngài.

1. Kinh nghiệm của Thánh I-Nhã và các bạn

Vào mùa Xuân 1539, lúc đó nhóm gồm có mười người và phải nhận định để đi đến một quyết định quan trọng.  Đó là chính việc chọn lựa dẫn tới việc quyết định thành lập Dòng Chúa Giê-su.  Để giúp hiểu được vấn đề, trước hết xin giới thiệu một vài nét lịch sử về cuộc thảo luận này, sau đó sẽ đọc biên bản cuộc thảo luận còn lưu lại cho Dòng Tên.  Tiếp theo chúng ta sẽ phân tích để rút ra một phương thức áp dụng nguyên tắc nhận định và chọn lựa mà thánh I-Nhã đã đề ra trong Linh thao nhắm áp dụng vào các cộng đoàn chúng ta ngày hôm nay.  Một vài phương thức áp dụng cho cộng đoàn không chỉ để nhận định những việc chung của toàn thể Dòng, mà từng cộng đoàn địa phương cũng có thể áp dụng để đi đến sự đồng tâm nhất trí với nhau trong mọi lãnh vực.

Vậy lai lịch việc nhận định đầu tiên của thánh I-Nhã và nhóm bạn vào mùa xuân 1539 như thế nào?  Khi học tại Paris, ngài đã đem kinh nghiệm Linh thao ở Manresa giúp cho một số bạn sinh viên tĩnh tâm và nhận định.  Trong số những người theo hướng dẫn làm Linh thao, rất nhiều người đã bỏ con đường danh vọng, dâng mình phụng sự Chúa trong nhiều Dòng khác nhau.  Có người vào Dòng Chartreux, có người vào Dòng Phan-xi-cô.  Nhưng có sáu người chọn cùng một ý hướng với thánh I-Nhã.  Lúc đó ngài còn là một sinh viên thường, lớn tuổi, chưa làm linh mục.  Ý hướng là hiến thân phụng sự Hội Thánh chứ cũng chưa đặt vấn đề vào một dòng tu nào.

Ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời năm 1534, nhóm bảy người bạn này, trong đó có thánh I-Nhã, thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê và một linh mục duy nhất trong nhóm lúc đó là Phê-rô Favre (sau này được phong chân phước), đã tới nhà thờ Montmartre ở Paris để tuyên khấn.  Nội dung lời khấn của họ là:  sống độc thân để phục vụ Hội Thánh, sống khó nghèo và sau khi học xong sẽ đi hành hương tới Giê-ru-sa-lem, ở lại đó để giúp ích cho các linh hồn.  Nhưng vì việc đi Giê-ru-sa-lem lúc ấy luôn bất trắc nên họ đã đưa ra một khoản phòng hờ là nếu sau khi học xong và chờ đợi một năm mà không thể đi Giê-ru-sa-lem hoặc đi mà không được phép ở lại, thì họ sẽ quay về Roma, đến trình diện Đức Giáo Hoàng và xin ngài tự do xét dụng, sai họ đi làm việc phục vụ Hội Thánh ở bất cứ nơi nào ngài xét thấy có ích lợi.

Vậy năm 1537, nhóm đã tới Ý, rồi tới Roma, xin phép Đức Giáo Hoàng để đi viếng Thánh địa và ở lại đó phục vụ.  Đức Giáo Hoàng không những đã cho phép họ đi mà còn cho cả lộ phí, mặc dù khi đến Roma, họ đi với tinh thần khó nghèo, có nghĩa là vừa đi vừa xin ăn.  Đồng thời ngài cũng cho phép những người nào trong nhóm họ chưa làm linh mục thì được chịu chức do bất cứ giám mục nào.  Vì lý do họ đã học đủ và đã khấn sống khó nghèo.  Họ chờ đợi từ giữa năm 1537 tới giữa năm 1538, không có tàu để đi Giê-ru-sa-lem, vì sự cắt đứt bang giao giữa Cộng hòa Venitia với Thổ-nhĩ-kỳ. Thời ấy một phần Địa-trung-hải từ nước Ý sang Thánh địa do hải quân Thổ-nhĩ-kỳ kiểm soát, nên nếu không có sự giao hảo thì không thể đi được.  Kết quả là họ phải thực hiện điều khoản phòng hờ ở Montmartre, nghĩa là họ kéo nhau về Roma để ra mắt Đức Giáo Hoàng và xin ngài tùy ý sử dụng họ để phục vụ Hội Thánh.

Lúc này nhóm đã có thêm bạn mới. Bỗng dưng đuợc một nhóm mười người bạn xuất thân từ Đại học Paris, sống đời linh mục gương mẫu, nhiệt thành giảng dạy, ban các bí tích và sống khó nghèo,  Đức Giáo Hoàng rất ưng ý, nên ngài bắt đầu sai họ đi rao giảng trong các nhà thờ ở thành phố Roma.  Có người được sai đi giảng dạy tại Đại học Roma.  Nhưng chẳng bao lâu, vào đầu năm 1539, Đức Giáo Hoàng muốn sai họ đi xa hơn, nhằm lúc vua Bồ-đào-nha xin người sang Ấn-độ và chính Đức Giáo Hoàng cũng muốn sai trong nhóm mười người này.  Như vậy, đứng trước viễn tượng được sai đi, mỗi người mỗi ngả, nhóm bạn này sẽ tan rã.  Lúc đó nhóm chưa phải là một dòng tu, họ chỉ là một nhóm bạn muốn hiến thân phụng sự Hội Thánh, tuy tất cả đã chịu chức linh mục.  Trước khi tới Roma, mười người này tạm trú ở phía Bắc nước Ý.  Trên đường đi về Roma, họ đã quyết định với nhau, nếu có ai hỏi họ là nhóm nào thì tự xưng là đoàn Giê-su, bởi họ nghĩ rằng chính Chúa Giê-su đã quy tụ họ qua kinh nghiệm gặp gỡ Người trong Linh thao, nên chẳng có tên nào khác đẹp hơn là “đoàn Giê-su”.  Bây giờ Đức Giáo Hoàng bắt đầu sai mỗi người mỗi ngả để phục vụ Hội Thánh,  họ băn khoăn, đặt vấn đề là như thế nhóm đến đây là tan, hay là sẽ phải tiếp tục giữ một sự hiệp nhất nào đó. Cuộc thảo luận vào mùa xuân năm 1539 đã kéo dài từ tháng 3 đến lễ thánh Gio-an Tẩy Giả năm đó.

Chúng ta đọc lại biên bản cuộc nhận định và phân tích xem thánh I-Nhã cùng các bạn của ngài đã đặt cuộc đời mình trước mặt Chúa trong kinh nghiệm Linh thao thế nào để chọn hướng đi phục sự Chúa và phục vụ Hội Thánh.  Nhóm đã áp dụng những nguyên tắc nhận định và chọn lựa để làm một cuộc nhận định cộng đoàn và đi đến một hướng đi chung cho đoàn Giê-su thế nào?

Sau đây là biên bản cuộc thảo luận từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1539 (những chỗ dùng chữ ngả là do tôi đưa vào để giúp người đọc).

1.   Trong mùa Chay vừa qua, khi thấy đã đến lúc phải chia tay nhau và phân tán đi, cũng chính là lúc mà chúng tôi vẫn hết lòng mong ước để mau chóng đạt tới cùng đích mà từ lâu lắm rồi chúng tôi đã nhắm tới và đã tự xác định.  Vậy chúng tôi quyết định tụ họp nhau trong nhiều ngày trước khi chia tay nhau và cùng nhau thảo luận về ơn gọi của chúng tôi.  Chúng tôi đã thảo luận điều này nhiều lần, nhưng nhóm chúng tôi gồm những người Pháp, Tây-ban-nha, Savoie, Bồ-đào-nha...  Chúng tôi có những ý kiến khác nhau, liên quan đến cách sống của chúng tôi.  Trong khi chúng tôi vẫn có cùng một ý nghĩ và cùng một ý muốn là tìm kiếm ý Chúa “tốt đẹp và hoàn hảo” theo con đường ơn gọi Người đã ban cho chúng tôi;  nhưng về các phương thế thích hợp nhất và hữu hiệu nhất đối với bản thân chúng tôi cũng như đối với người khác thì chúng tôi có nhiều ý kiến khác biệt.  Chẳng ai phải ngạc nhiên về những sự khác biệt quan điểm giữa chúng tôi là những người hèn yếu, bởi lẽ chính các tông đồ là những vị lãnh đạo và cột trụ của Hội Thánh cùng nhiều nhân vật rất thánh thiện khác mà chúng tôi chẳng dám sánh ví một chút nào, cũng đã có những ý kiến khác biệt nhau, thậm chí đôi khi đối ngược nhau.  Và các vị ấy đã để lại bút tích về những sự đối ngược ấy của họ.

Chúng tôi cũng đã phán đoán khác nhau vì chúng tôi đều chú tâm và lo lắng làm sao tìm ra một con đường hoàn toàn rõ rệt, dẫn chúng tôi đến việc hiến thân làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa, bằng cách đặt tất cả mọi lợi ích của chúng tôi vào việc ngợi khen, tôn kính Người.  Cuối cùng chúng tôi nhất trí xác định sẽ cầu nguyện, cử hành Thánh lễ và suy niệm sốt sắng hơn bình thường, và sau khi đã hết sức chăm lo việc ấy, thì phó thác mọi nỗi âu lo của chúng tôi cho Thiên Chúa, với niềm hy vọng rằng Người là Đấng Chí Nhân và quảng đại, không từ chối ban Thần trí tốt lành của Người cho bất cứ ai lấy lòng khiêm nhượng đơn sơ mà cầu xin Người, nhưng ban ơn Thần trí của Người một cách quảng đại cho mọi người mà không hối tiếc, thì Người cũng không từ chối chúng tôi mà còn trợ giúp chúng tôi với lòng nhân hậu rộng rãi vượt xa những gì chúng tôi có thể cầu xin hay mong ước.

2.   Vậy chúng tôi bắt đầu tung hết nỗ lực từ phía chúng tôi và đặt ra một vài câu hỏi phải xem xét kỹ lưỡng và tìm tòi nghiêm túc.  Chúng tôi suy nghĩ đắn đo về những điều ấy suốt ngày; việc cầu nguyện cũng là một phương thế cho chúng tôi tìm kiếm.  Đến tối, mỗi người chúng tôi trình bày trước anh em cách giải quyết mà mình cho là tốt hơn và có lợi hơn;  chúng tôi muốn nhờ đó để cùng nhau đón nhận ý kiến chính đáng nhất, ý kiến này phải xuất phát từ một cuộc thảo luận chung và dựa trên những lý do vững chắc nhất.

3.   Trong cuộc họp buổi tối đầu tiên, chúng tôi đưa ra câu hỏi sau đây:  Một khi con người và cuộc sống của chúng tôi đã được chính chúng tôi tự dâng hiến cho Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và Đấng đại diện đích thực và hợp pháp của Người ở dưới đất để ngài sử dụng chúng tôi và sai chúng tôi đi đến nơi nào mà ngài xét thấy việc tông đồ của chúng tôi sẽ được phong phú hơn, hoặc đến nơi người Thổ-nhĩ-kỳ hoặc là đất Ấn-độ, hay đến với những người lạc giáo hoặc giữa bất cứ dân tộc nào khác có đạo hay ngoại đạo, thì nên chọn đàng nào hơn:  liên kết với nhau một cách chặt chẽ làm thành một thân thể duy nhất, không một sự ngăn cách bên ngoài nào dù lớn đến đâu có thể khiến chúng tôi lìa nhau, hay là làm ngược lại?  Một thí dụ soi sáng vấn đề:  Đức Thánh Cha sắp gởi hai người trong chúng tôi đến Sienna;  chúng tôi có phải giữ một sự nhất trí với nhau hay là chẳng giữ một sự gắn bó nào với họ hơn là với những người bên ngoài Đoàn?

Chúng tôi kết thúc bằng một quyết định giữ sự gắn bó với nhau.  Bởi lẽ chúng tôi nghĩ Chúa đã đoái thương lấy lòng nhân từ và thương xót của Người mà tụ họp chúng tôi là những con người hèn yếu nhất, xuất phát từ nhiều xứ khác nhau với những tập tục khác nhau như thế, để liên kết chúng tôi chặt chẽ với nhau, thì chúng tôi không được phá vỡ sự hiệp nhất của Nhóm do Chúa đã tác thành, nhưng phải tiếp tục củng cố và duy trì sự hiệp nhất ấy bằng cách làm nên một thân thể duy nhất.  Một sự quan tâm đến nhau và một sự nhất trí hoàn toàn với nhau sẽ đảm bảo đem lại hoa trái dồi dào hơn cho các linh hồn:  những sức lực kết hợp lại thì có sức kháng cự và năng lực để thực hiện những công việc lớn lao khó khăn hơn là khi chia rẽ và phân tán nhau.  Tuy nhiên, trong tất cả những điều vừa trình bày, xin hiểu cho đúng:  Chúng tôi hoàn toàn không đưa ra điều gì do sáng kiến riêng hoặc do ý riêng của chúng tôi, nhưng chỉ đưa ra những gì mà Chúa soi sáng và Tòa Thánh phê chuẩn, dù kết quả ra sao đi nữa.

4.   Sau khi giải quyết dứt khoát vấn đề thứ nhất này, chúng tôi đề cập một vấn đề khác khó hơn nhưng cũng không kém phần đòi hỏi phải suy nghĩ và xem xét.  Tất cả chúng tôi đã tuyên lời khấn khiết tịnh trọn đời và lời khấn khó nghèo trong tay vị Sứ thần Tòa Thánh khi chúng tôi ở Venise.  Có cần phải tuyên lời khấn thứ ba là lời khấn tuân phục một người trong chúng tôi không?  Điều này cốt để hoàn thành ý Chúa trong mọi sự một cách thuần khiết hơn hầu ngợi khen Chúa hơn và được công phúc hơn, đồng thời thực hiện ý muốn tự do và chỉ thị của Đức Thánh Cha bởi chúng tôi đã hết lòng dâng chính mình chúng tôi, ý muốn, trí hiểu, hành động cho ngài.

5.   Sau khi đã mất nhiều ngày để cầu xin tha thiết và suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề này mà không thấy được điều gì thỏa đáng, chúng tôi đã đặt hết hy vọng vào Chúa và bắt đầu bàn với nhau xem có cách nào giải quyết được thỏa đáng hơn nỗi nghi ngờ của chúng tôi.  Trước hết liệu có nên cùng nhau lui vào một nơi tĩnh mạc nào đó và ở đó ba mươi hay bốn mươi ngày mà lo việc suy gẫm ăn chay và hãm mình để được Thiên Chúa chấp nhận những ước nguyện của chúng tôi và đoái thương đặt chắc chắn vào tâm trí chúng tôi cách giải quyết vấn đề này?  Hoặc là ba hay bốn người trong chúng tôi có nên thay mặt cho mọi người đến đó vì cùng một mục đích?  Hoặc không ai phải đi đến nơi tĩnh mạc ấy?  Chúng tôi có thể cứ ở lại Roma, nhưng dành nửa ngày chỉ để lo việc của chúng tôi mà thôi?  Như vậy việc suy gẫm, suy nghĩ và cầu nguyện có thể được thực hiện một cách thuận lợi hơn và lâu giờ hơn, nửa ngày còn lại chúng tôi vẫn sử dụng vào việc tông đồ quen thuộc là giảng dạy và giải tội.

6.   Cuối cùng, sau khi đã bàn cãi và xem xét các điều này, chúng tôi đã quyết định tất cả phải ở lại Roma, nhất là vì hai lý do sau đây:

a)  Một là để tránh những lời đàm tiếu và gương xấu trong thành phố và trong dân là những người có thể xét đoán, suy nghĩ.  Con người vẫn có khuynh hướng phát biểu một cách nhẹ dạ, cho rằng chúng tôi chạy trốn hoặc âm mưu một cái gì mới, hoặc thiếu cương quyết và bền vững trong công việc ban đầu của chúng tôi.

b)  Hai là không để cho sự vắng mặt của chúng tôi gây thiệt hại cho mùa gặt mà chúng tôi thấy thật đáng kể trong việc giải tội, giảng dạy và các việc thiêng liêng khác, đáng kể đến nỗi dù cho chúng tôi có đông gấp bốn lần cũng không thể thỏa mãn nhu cầu của mọi người, như hiện nay chúng tôi cũng không thỏa mãn nổi.

Phương thế thứ hai mà chúng tôi bắt đầu thảo luận để tìm ra con đường đi tới giải pháp là đề nghị cho tất cả và từng người thực hiện được trong tâm hồn mình ba thái độ sau đây:

- 1/   Mỗi người phải chuẩn bị và chăm lo việc cầu nguyện dâng Thánh lễ và suy gẫm như thế nào để cho mọi nỗ lực của mình hướng tới việc tìm thấy niềm vui và bình an trong Thánh Thần về vấn đề vâng phục bằng cách làm hết sức để nghiêng chiều ý muốn của mình về đàng vâng phục hơn là về đàng được quyền ra lệnh, nếu nhờ đó sẽ phát sinh vinh quang và lời ngợi khen Chúa như nhau.

- 2/   Thái độ bề trong thứ hai là không ai nói chuyện với người khác trong nhóm về vấn đề này, cũng không hỏi người nào về những lý do của người ấy, như vậy sẽ không ai bị ảnh hưởng do ý kiến của người khác mà nghiêng chiều về sự vâng phục hơn là không vâng phục, hoặc ngược lại mỗi người chỉ tìm kiếm điều gì nhờ cầu nguyện và suy gẫm thấy được là có ích hơn.

- 3/   Thái độ thứ ba là mỗi người phải tự coi mình như là một kẻ xa lạ đối với nhóm và như thể không bao giờ sẽ được nhận vào nhóm này.  Nhìn vấn đề như thế thì không một tình cảm nào sẽ làm cho họ nghĩ và phán đoán thiên về một bên nào, nhưng có thể nói là với tư cách một người ngoài cuộc, người ấy sẽ tự do bộc lộ ý kiến của mình về kế hoạch vâng phục hay không vâng phục, và cuối cùng lấy sự phán đoán của mình xác nhận và chấp thuận phía nào mình thấy sẽ phục vụ Thiên Chúa hơn và bảo đảm hơn cho sự duy trì Đoàn lâu dài.

7.   Chính trong những thái độ bề trong đã chuẩn bị trước như thế, chúng tôi quyết định gặp nhau ngày hôm sau, khi mọi người đã sẵn sàng, để mỗi người phát biểu những vấn nạn có thể đưa ra chống lại sự vâng phục.  Tất cả mọi lý do thấy được và mỗi người đã khám phá ra trong suy nghĩ, suy gẫm và cầu nguyện, đều lần lượt được mỗi người trình bày.  Chẳng hạn người thì nói:  đối với dân Ki-tô hữu, “danh từ Dòng tu” hay vâng phục không còn cái tiếng tốt lẽ ra phải có là do sự thiếu nhân đức và do tội lỗi của chúng ta.  Người khác nói:  “Nếu chúng ta muốn sống vâng phục, có lẽ chúng ta sẽ bị Đức Giáo Hoàng bắt phải sống theo một luật Dòng nào đã có sẵn và đã được thiết lập, hậu quả sẽ là chúng ta chẳng còn dịp cũng chẳng còn phương thế để làm việc cho phần rỗi các linh hồn, mà sau phần rỗi của chúng ta thì phần rỗi các linh hồn là mục đích duy nhất chúng ta nhắm tới, như vậy mọi ước vọng của chúng ta sẽ hỏng hết, thế mà chúng ta lại có đủ lý do để tin rằng những ước vọng ấy đã được Thiên Chúa là Chúa chúng ta chấp thuận”.  Người khác nữa lại nói:  “Trong trường hợp chúng ta vâng phục một người thì số người mà Dòng chúng ta quy tụ được để làm việc trong vườn nho của Chúa với lòng nhiệt thành, chân thật sẽ bị giảm, mà mùa gặt thì nhiều và những thợ gặt đích thật thì ít, vì theo quy luật của sự yếu đuối và dòn mỏng của con người, phần đông lo tìm lợi ích riêng và ý riêng mình hơn là những lợi ích của Đức Giê-su Ki-tô và sự từ bỏ mình hoàn toàn”.  Người khác lại nói điều khác nữa, rồi người thứ tư, thứ năm và cứ như thế, chúng tôi lần lượt trình bày chi tiết những vấn nạn gặp thấy chống lại sự vâng phục.

Một thời gian rất ngắn sau đó, vào một ngày khác, chúng tôi thảo luận về quan điểm ngược lại, bằng cách đưa ra tất cả những lợi ích của sự vâng phục như mỗi người thấy được nhờ cầu nguyện và suy gẫm.  Mỗi người lần lượt trình bày kết quả sự suy nghĩ của mình, khi thì bằng cách đặt ra một giả thuyết không thể thực hiện được để dẫn tới điều mình muốn nói, khi thì bằng cách khẳng định trực tiếp.  Chẳng hạn có người đưa tới sự phi lý và sự không thể làm được bằng cách sau đây:  “Giả thử nhóm chúng ta được trao phó một công việc tông đồ mà không có sự trợ giúp của ách vâng phục, thì chẳng ai sẽ thực sự chịu trách nhiệm cả, mỗi người sẽ đẩy gánh nặng cho người khác như chúng ta đã có kinh nghiệm nhiều lần về việc ấy.  Cũng vậy, giả thử không có quyền bính ở trong nhóm chúng ta, thì nhóm không thể duy trì hay tồn tại lâu dài; điều ấy đi ngược với ý hướng ban đầu của chúng ta là duy trì đoàn chúng ta mãi mãi, vì không gì có thể duy trì nhóm hơn là sự vâng phục.

Sự vâng phục cần thiết, nhất là đối với chúng ta là những người khấn sống khó nghèo vĩnh viễn và chúng ta liên lỉ chìm ngập trong những công việc thiêng liêng và thế tục ít thuận lợi cho việc duy trì đoàn chúng ta.  Một người khác tiến hành theo khẳng định, anh nói:  “Vâng phục là mẹ của mọi hành động và mọi nhân đức anh hùng bền bỉ.  Do thực sự sống theo vâng phục thì hoàn toàn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh được đề ra cho mình, dù mệnh lệnh ấy có khó khăn hoặc phải làm trò cười trước mắt thiên hạ khiến cho mình bối rối;  chẳng hạn như người ta bắt tôi phải đi ra phố và những nơi công cộng mình trần hay mặc những thứ áo quần kỳ cục.  Dù chưa bao giờ có một mệnh lệnh như thế được ban ra, nhưng khi người ta sẵn sàng thi hành mệnh lệnh ấy, từ bỏ mọi phán đoán riêng và ý muốn riêng, thì người ta sẽ luôn luôn ở trong một tình trạng anh hùng, bao giờ cũng có công hơn”.  Hoặc người khác nói:  “Không gì bẻ gãy tính kiêu ngạo và tự phụ hơn là sự tuân phục.   Người kiêu ngạo hết sức yêu mến việc theo phán đoán riêng và ý muốn riêng của mình, không chịu nhường ai.  Người ấy bước đi trên những con đường tìm sự cao sang hào nhoáng vượt sức mình.  Sự vâng phục chiến đấu theo hướng ngược hẳn lại, bởi vì bao giờ cũng nghe theo phán đoán không phải của mình và theo ý muốn của một người khác.  Người vâng phục thì vâng phục mọi người và gắn bó với sự khiêm nhường là kẻ thù của sự kiêu ngạo”.

8.   Vậy sau nhiều ngày bàn luận theo nhiều hướng về rất nhiều điểm liên quan đến cách giải quyết vấn đề, cân nhắc và xem xét những lý do nghiêm túc nhất và mạnh mẽ nhất trong khi chúng tôi vẫn giữ thói quen chăm lo cầu nguyện, suy gẫm và suy xét;  cuối cùng nhờ Chúa ban ơn giúp sức, chúng tôi đã đạt được kết luận không phải là theo đa số phiếu, nhưng là sự nhất trí tuyệt đối:  Chúng tôi vâng phục một người trong anh em, đó là điều rất đáng chọn và rất cần thiết cho chúng tôi.  Như vậy, những ước muốn ban đầu của chúng tôi là hoàn thành ý Chúa trong mọi sự, sẽ được thực hiện tốt hơn và chính xác hơn;  đồng thời cũng bảo đảm hơn cho việc duy trì Đoàn.  Và sau hết, chúng tôi có thể lo liệu khôn khéo hơn cho từng chi tiết của việc thường ngày về những mặt thiêng liêng cũng như thế tục.

9.   Trong khi tuân thủ cùng một cách thức bàn luận và tiến hành đối với tất cả những vần đề khác và bao giờ cũng xét đến hai quan điểm đối ngược, chúng tôi đã lưu lại trên các vấn đề này và các vấn đề khác gần ba tháng trời, từ giữa mùa Chay cho đến lễ thánh Gio-an Tẩy Giả.  Hôm ấy mọi sự đã kết thúc dứt khoát trong niềm vui và sự hòa hợp hoàn toàn của tâm hồn anh em.  Đi trước sự bàn định dứt khoát này không thiếu những buổi canh thức, những giờ cầu nguyện và những nỗi mệt nhọc tinh thần cũng như thể xác.

2. Một vài nhận định từ bản báo cáo

Trở lại từ đầu bản báo cáo này, chúng ta cố gắng nhận ra tiến trình và những điều kiện của Linh thao.  Bởi vì chính kinh nghiệm này có thật và là một kinh nghiệm đi tới quyết định rất quan trọng là chính việc khai sinh ra một dòng tu, thiết nghĩ nó có giá trị để soi sáng, làm mẫu cho chúng ta nghiên cứu để biết cách thực hiện những cuộc nhận định cộng đoàn hiện nay (cụ thể nhất là việc áp dụng hiến chương mới của dòng Mến Thánh Giá, bởi vì tuy có Hiến Chương chung, nhưng ai cũng biết rằng việc áp dụng vào từng Hội Dòng, từng cộng đoàn ở mỗi địa phương chắc chắn có nhiều điều khác nhau, nên cần phải nhận định và chọn lựa).

Trước hết trong phần mở đầu, chúng ta thấy biên bản nêu rõ hoàn cảnh, tức là đã tới lúc chia tay nhau và phân tán đi.  Từ trước đến giờ, các bạn cũng chỉ mong điều đó, tức là được Đức Giáo Hoàng sai đi phục vụ Hội Thánh, và như thế là thể hiện được những điều họ đã khấn nguyện ở Montmartre.  Nhưng đứng trước viễn tượng phải chia tay, họ lại muốn cùng nhau thảo luận về chính ơn gọi của họ.  Họ đã thảo luận nhiều lần mà chưa đi đến kết quả.  Họ chỉ thấy tình trạng trong nhóm gồm những người thuộc nhiều quốc tịch:  hai người Pháp, năm người Tây-ban-nha, hai người xứ Savoie và một người Bồ-đào-nha.  Đó là nói về quốc tịch, còn nói về cá tính thì trong mười người này, cá tính cũng rất khác biệt nhau.  Chẳng hạn người Bồ-đào-nha duy nhất là Simon Rodriguez, rồi người Tây-ban-nha lúc đó là Bobadilla, đúng là hai cái gai ở trong nhóm.  Bởi vì hai con người này cá tính rất độc đáo, khó mà nhượng bộ ai.  Mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười.  Ông nào cũng có cá tính mạnh, ông nào cũng là cựu sinh viên Sorbonne.

Các nhân vật trong nhóm mười người này có thể nói được toàn là những nhân vật sừng sỏ, cá tính độc đáo.  Vậy mà họ lại muốn tìm ra những phương thế thực hiện cùng một mục đích.  Họ muốn cùng nhau thảo luận để tìm ra nếp sống cho mình.  Trong biên bản chúng ta thấy họ xác định rõ là:  “Khi chúng tôi có cùng một ý nghĩ và cùng một ý muốn là tìm kiếm ý Chúa tốt đẹp và hoàn hảo theo con đường ơn gọi Người đã ban cho chúng tôi”.  Như vậy chúng ta thấy họ đã nhất trí được với nhau về hai điểm.  Một là về ơn gọi Chúa đã ban cho họ mà họ đã nhận ra từ ở Paris và đã khẳng định khi tuyên khấn ở Montmartre, rồi khi họ tuyên khấn trong tay vị đại diện Đức Giáo Hoàng ở Venezia.  Và sau khi đã được Đức Giáo Hoàng chấp nhận và sai đi, về phương diện ơn gọi họ không có gì phải thắc mắc, đặt lại vấn đề.  Họ cũng thống nhất với nhau cùng một ý nghĩ và ý muốn là chỉ tìm ý Chúa để thực hiện ơn gọi phục vụ Hội Thánh dưới quyền Đấng đại diện Chúa Ki-tô.  Như vậy, chúng ta thấy rằng họ đã có một mục đích và tất cả đều đạt được thái độ “bình tâm” trong phương pháp Linh thao của thánh I-Nhã.  Đó là thái độ tiên quyết đối với mọi nhận định và lựa chọn, bởi vì phải thoát khỏi mọi quyến luyến lệch lạc mới có thể có được sự bình tâm mà thánh I-Nhã nói giống như một cái kim trên bàn cân để sẵn sàng đón nhận sự thôi thúc của Chúa.  Động lực duy nhất của sự thôi thúc đó là vinh quang Chúa và cứu rỗi linh hồn mình.  Hai là họ còn muốn tìm kiếm ý Chúa tốt đẹp và hoàn hảo để thực hiện ơn gọi, tức là phương thế để sống ơn gọi đó. Tuy họ có được thái độ căn bản là sự bình tâm, vì họ chỉ muốn tìm kiếm ý Chúa, nhưng về các phương thế thích hợp nhất và hữu hiệu nhất đối với bản thân mình cũng như đối với người khác thì anh em có nhiều ý kiến khác nhau.  Họ không ngạc nhiên vì sự khác biệt đó, mà phải tìm một sự nhất trí.

Nếu chúng ta đọc lại sách Công Vụ Tông Đồ chương 15, cũng thấy có vấn đề tương tự, tức là sau khi nghe nói có những người ngoại đạo, những người không phải gốc Do-thái, cũng đã được ơn để tin vào danh Chúa Giê-su, thì tất cả đều vui mừng.  Nhưng điều làm cho các tông đồ và giới lãnh đạo ở Giê-ru-sa-lem không đồng ý kiến với nhau, đó là chuyện có nên bắt họ theo tất cả những quy định của Do-thái giáo hay không.  Trong cuộc họp này, ở Giê-ru-sa-lem người ta bắt đầu bằng cách tranh luận, nhưng kết quả chẳng đi đến đâu. Cuối cùng thánh Phê-rô chủ động thay đổi phương pháp làm việc : lần lượt mỗi người trình bày và tất cả mọi người lắng nghe.  Bắt đầu là thánh Phê-rô trình bày, sau đó đến thánh Barnabe và thánh Phao-lô trình bày những gì các ngài đã chứng kiến về những việc Chúa làm cho Dân ngoại.  Cuối cùng thánh Gia-cô-bê phát biểu, rút kết luận từ những gì 3 vị trước đã chia sẻ.  Sau đó tất cả đi đến sự nhất trí để soạn bức thư chung và chọn hai người đáng tín nhiệm là Phao-lô và Barnabê để đi công bố bức thư đó.  Cùng đi với Phao-lô và Barnabê thì có ông Giu-đa.  Chúng ta lưu ý:  bức thư của các tông đồ và các lãnh đạo ở Giê-ru-sa-lem nói rằng:  “Thánh Thần và chúng tôi quyết định không áp đặt cho anh em những gánh nặng nào khác ngoài những gì không thể giảm bớt được”.  Vậy chúng ta thấy trong nhận định của Giáo Hội ở Giê-ru-sa-lem rõ ràng là một sự nhận định thiêng liêng, - nghĩa là nhận định dưới ánh sáng của Thánh Thần để biết Thánh Thần thúc đẩy về hướng nào -  và trong bức thư, các đại biểu đã khẳng định:  “Thánh Thần và chúng tôi quyết định”.

Ở đây chúng ta thấy rằng mở đầu biên bản nói thánh I-Nhã và các bạn lúc đó đã nhiều lần thảo luận với nhau mà vẫn còn những ý kiến khác biệt. Bây giờ vì khao khát muốn tìm những phương thế thích hợp nhất và hữu hiệu nhất đối với bản thân mình và đối với người khác để sống ơn gọi mà họ xác tín đã nhận được từ Paris, họ quyết định làm một cuộc nhận định thiêng liêng, đó là cuộc nhận định dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.  Từ trước đến giờ họ bàn luận với nhau nhưng chưa phải là cuộc nhận định thiêng liêng, nhận định trong Thánh Thần, trong cầu nguyện.  Như vậy tất cả đều cùng chú tâm lo lắng tìm kiếm con đường phải đi, nhưng sự phán đoán của mỗi người vẫn khác nhau.  Bây giờ họ bắt đầu chuẩn bị cho việc nhận định thiêng liêng như sau:  “Chúng tôi nhất trí quyết định sẽ cầu nguyện, cử hành Thánh lễ và suy niệm sốt sắng hơn bình thường và khi đã hết sức chăm lo việc ấy thì phó thác mọi âu lo cho Chúa với lòng hy vọng rằng Người là Đấng chí nhân và quảng đại không từ chối ban Thần khí tốt lành của Người và trợ giúp chúng tôi, với một lòng nhân hậu, rộng rãi vượt xa những gì chúng tôi cầu xin hay mong ước”.  Đây là điểm thứ ba mà thánh I-Nhã đã nói trong phương pháp lựa chọn thứ nhất:  “Xin Thiên Chúa, Chúa chúng ta đoái thương đánh động ý muốn và đặt vào linh hồn điều tôi phải làm đối với sự việc đã được đề nghị để ngợi khen và làm vinh danh Chúa hơn.

Nhưng để có thể nhận định thì tất nhiên phải đặt vấn đề rõ ràng.  Biên bản ghi lại:  “Vậy chúng tôi bắt đầu tung hết nỗ lực từ phía chúng tôi và đặt ra một vài câu hỏi đòi phải xem xét kỹ lưỡng và tìm tòi nghiêm túc”.  Điều này dễ hiểu, bởi vì không có thể nào chia sẻ, thảo luận, trao đổi với nhau, không có thể nào cùng nhau nhận định nếu vấn đề không được đặt ra một cách rõ ràng.  Vậy để làm một cuộc nhận định cộng đoàn, trước hết phải cầu nguyện để có sự bình tâm, rồi đặt câu hỏi rõ ràng, liên quan đến cộng đoàn.  Trường hợp của nhóm bạn thánh I-Nhã có liên quan tới tất cả hiện tại và tương lai của nhóm mười người và những người sẽ theo đường lối của họ sau này.

Sau khi đã xác định được vấn đề rõ ràng và mọi người đã hiểu đúng vấn đề, họ bắt đầu bước thứ nhất của tiến trình nhận định.  Thánh I-Nhã nói:  “Suốt ngày chúng tôi suy nghĩ về những điều ấy.  Việc cầu nguyện cũng là một phương thế cho chúng tôi tìm kiếm”.  Đấy mới là vấn đề nhận định thiêng liêng, liên quan đến toàn thể con người, là một vấn đề thuộc về tác động của Chúa Thánh Thần, nên mỗi người phải đích thân đến trước mặt Chúa và điều mình suy nghĩ phải ăn sâu vào tất cả con người mình.  Thánh I-Nhã gọi đó là Chúa“đánhđộng ý muốn” và “đặt vào linh hồn tôi”, nghĩa là làm sao để mình hoàn toàn cảm nhận được điều ấy đúng như ý Chúa, không phải do tình cảm.  Ở đây chúng ta không thể hiểu được quan điểm này nếu chúng ta không đặt mình trong nhãn giới đức tin và tác động của Chúa nơi con người chúng ta.

Về phương diện nhân bản, thánh I-Nhã cũng có một cái nhìn rất sâu sắc về tâm lý con người.  Con người không chỉ có lý trí và ý muốn mà thôi.  Lý trí và ý muốn không thể hành động biệt lập vì con người là duy nhất.  Nhưng cũng không chỉ có ý chí và lý trí mà cả nhân vị, cái mà chúng ta gọi là toàn thể con người dấn thân khi cảm nghiệm được rằng đây là lời mời gọi của Chúa.  Việc nhận định thiêng liêng đưa đến quyết định sâu xa, đó là đón nhận tác động của Chúa.  Tại sao?  Vì khi đó chúng ta sống điều mà thánh Gio-an gọi là “sự tự do của con cái Thiên Chúa”, tức là để cho Chúa  chiếm ngự cõi sâu thẳm nhất trong tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta gắn bó với Người đến mức chỉ muốn đi tìm thánh ý Người.

Cũng như Chúa Giê-su đã nói rằng:  “Tinh thần thì mau mắn, nhưng xác thịt thì nặng nề”, tức là trong cái cảm nhận của chúng ta, không phải cái gì cũng rõ ràng, nhưng có cái gì đó xuất phát từ trung tâm ánh sáng, là sự tự do của con cái Thiên Chúa.  Nó còn có cả một lãnh vực mờ ảo, trong đó cái tôi còn mạnh lắm.  Đó là những đam mê, những sở thích, những khuynh hướng riêng đã lấn át con người.  Đi vào nhận định thiêng liêng tức là làm sao thoát ra khỏi cái tôi đó để sống kết hiệp thực sự với ý muốn của Thiên Chúa.  Vì thế phải suy nghĩ đắn đo, đồng thời phải cầu nguyện.

Bước thứ hai là đến tối, mỗi người trong nhóm trình bày với anh em cách giải quyết mà mình cho là tốt hơn, có lợi hơn.  Mỗi người phải nhận lấy phần trách nhiệm của mình đối với tất cả cộng đoàn và cộng đoàn cũng phải tiếp nhận mỗi người với tất cả cá tính của người đó.  Vấn đề khó khăn là làm sao mỗi người dám bộc lộ mình trước mặt cộng đoàn, và cộng đoàn phải có thái độ lắng nghe như thế nào để mỗi người cảm thấy mình được tôn trọng và mình có thể nói lên được tất cả.  Nếu phản ứng của cộng đoàn làm cho một số người không dám phát biểu, không dám nói, thì lúc đó sẽ không có nhận định cộng đoàn, lúc đó sẽ là áp lực của một nhóm làm người khác không dám chia sẻ.  Nhờ việc mỗi người đều phát biểu những gì mình cảm nghiệm, cộng đoàn có thể cùng nhau đón nhận ý kiến chính đáng nhất.  Ý kiến này phải xuất phát từ một cuộc thảo luận chung và dựa trên những lý do vững chắc nhất, bởi vì chúng ta thấy rằng mỗi người trình bày trước anh em, đó là bước thứ nhất.  Nhưng còn có bước thứ hai là thảo luận chung về những lý do, những động lực mà mỗi người đã đưa ra.  Đây không phải là vấn đề tranh cãi, vì đi đến tranh cãi thì lại có kẻ thắng người thua.  Mục đích thảo luận là để cùng nhau suy nghĩ, đánh giá những lý do mỗi người đưa ra, để cuối cùng ý kiến nào dựa trên những lý do vững chắc nhất sẽ được coi đó là ý kiến tốt hơn, có lợi hơn và cùng nhau đón nhận.  Cũng như trong sự nhận định riêng, mỗi người phải sẵn sàng chấp nhận điều nào là thích hợp nhất để mà ngợi khen, tôn kính, phụng sự Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn.  Chúng ta để ý chữ “hơn”, tốt hơn và có lợi hơn chứ không đặt vấn đề một cách tuyệt đối được.

Nhóm thực hiện phương pháp làm việc đó cụ thể như thế nào?  “Trong cuộc họp buổi tối đầu tiên, chúng tôi đưa ra ý kiến sau đây:  Khi con người và cuộc sống của chúng tôi đã được chính chúng tôi tự dâng hiến cho Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và Đấng đại diện đích thực và hợp pháp của Người ở dưới đất để ngài sử dụng chúng tôi, và sai chúng tôi đi đến những nơi mà ngài xét thấy việc tông đồ của chúng tôi sẽ được phong phú hơn, hoặc đến nơi người Thổ-nhĩ-kỳ hoặc là đất Ấn-độ, hay với những người lạc giáo hoặc bất cứ dân tộc nào khác có đạo hay ngoại đạo, thì nên chọn đàng nào hơn, tức là bây giờ tiếp tục liên kết với nhau chặt chẽ, làm thành một thân thể duy nhất, không một sự ngăn cách bên ngoài nào dù lớn đến đâu có thể khiến chúng tôi lìa nhau, hay là chọn mỗi người đi mỗi ngả và chấm dứt quan hệ của nhóm”.

Qua biên bản cuộc thảo luận của “Đoàn Giê-su”, chúng ta thấy họ đã xác định điểm chung đó là ơn gọi, không có gì để bàn cãi nữa.  Bây giờ chỉ bàn cãi để chọn lựa nên duy trì và củng cố một sự liên kết chặt chẽ, làm thành một thân thể duy nhất, không gì phá vỡ được, hay là chấm dứt quan hệ nội tại của nhóm.  Họ đưa ra một vấn đề cụ thể là Đức Thánh Cha sắp phái hai người trong đoàn đến Sienna thì liệu có phải giữ một sự nhất trí với nhau hay là chẳng giữ một sự gắn bó nào với họ hơn là với những người bên ngoài đoàn.  Nếu hai người được Đức Giáo Hoàng sai đi Sienna thì nhóm sẽ giữ sự quan hệ với họ thế nào hay là cắt đứt quan hệ với họ.  Đấy là vấn đề được đặt ra rất rõ ràng, chỉ chọn một trong hai.  Một là củng cố sự duy trì và hợp nhất của nhóm, hai là kể như tan.

Họ giải quyết vấn đề thứ nhất như thế nào?  Đọc trong biên bản, chúng tôi có cảm tưởng rằng vấn đề thứ nhất được giải quyết khá nhanh và hình như đã được giải quyết theo điều mà thánh I-Nhã gọi là thời kỳ thứ hai để làm việc chọn lựa tốt.  Thánh I-Nhã phân biệt ba thời kỳ có thể làm việc chọn lựa tốt.  Thời kỳ thứ nhất là khi được Chúa đánh động và lôi kéo, thí dụ như thánh Phao-lô trên đường Damas hay thánh Mát-thêu đang ngồi ở bàn thu thuế, nghe Chúa gọi là bỏ dậy đi ngay.  Thời kỳ thứ hai là khi nhận được đủ ánh sáng và hiểu biết bởi kinh nghiệm những an ủi và sầu khổ, bởi kinh nghiệm phân biệt thần tốt và thần xấu.  Vậy trong biên bản nói sao?  Điểm thứ nhất là có nên duy trì và củng cố sự hợp nhất của nhóm hay là chấm dứt ở đây?  “Chúng tôi kết thúc bằng một quyết định giữ sự gắn bó với nhau”.  Những động lực nào thúc đẩy họ đi đến quyết định đó?  “Bởi lẽ chúng tôi nghĩ Chúa đã đoái thương lấy lòng nhân từ và thương xót của Người mà tụ họp chúng tôi là những con người hèn yếu, xuất phát từ nhiều phía với những tập tục khác nhau.  Do đó, chúng tôi không được phá sự hợp nhất của nhóm do Chúa đã tác thành, nhưng phải tiếp tục củng cố và duy trì sự hiệp nhất ấy”.  Họ trở lại kinh nghiệm đã cùng sống với nhau từ 1534 đến 1539:  họ đã sống trong tinh thần gắn bó và nâng đỡ nhau phụng sự Thiên Chúa, họ đã cảm nhận được đó là ân huệ lớn lao như thế nào.  Một lý do khác là sự quan tâm đến nhau và sự nhất trí hoàn toàn với nhau sẽ đảm bảo mang lại hoa trái dồi dào hơn cho các linh hồn.  Đây cũng là điều họ đã cảm nghiệm trong cả quá trình sống với nhau, không phải chỉ là sự suy luận theo kiểu “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.  Chính kinh nghiệm họ đã cảm nghiệm được khi cùng nhau phụng sự Chúa.  Những sức lực kết hợp lại có sức đề kháng và năng lực để thực hiện những công việc lớn lao và khó khăn hơn là khi chia rẽ phân tán.  Vậy tất cả đều dựa trên kinh nghiệm về việc họ đã liên kết với nhau để phụng sự Chúa, họ thấy đó là một ân huệ lớn lao của Thiên Chúa và là một điều đem lại hoa trái dồi dào cho việc tông đồ, vì thế họ quyết định phải duy trì sự gắn bó với nhau.

Nhưng ở đây biên bản cũng có một sự dè dặt để khỏi bị hiểu lầm:  trong tất cả những điều vừa trình bày hay sẽ trình bày, phải hiểu cho đúng.  “Chúng tôi hoàn toàn không đưa ra điều gì do sáng  kiến riêng hoặc do ý riêng của chúng tôi, nhưng chỉ đưa ra những gì mà Chúa soi sáng và Tòa Thánh phê chuẩn, dù kết quả ra sao đi nữa”.  Câu cuối cùng này quan trọng, “dù kết quả ra sao đi nữa” có nghĩa là họ sẵn sàng chấp nhận điều gì Chúa soi sáng và Tòa Thánh phê chuẩn.  Điều họ nói Chúa soi sáng cho họ thì có thể chủ quan, nhưng có một tiêu chuẩn khách quan là Tòa Thánh phê chuẩn.  Đó là sự bình tâm hoàn toàn ở cấp độ cộng đoàn và họ ý thức rõ ràng họ không đưa ra điều gì do sáng kiến riêng, hoặc ý riêng của họ, mà chỉ đưa ra những gì Chúa soi sáng và Tòa Thánh phê chuẩn.  Như vậy vấn đề thứ nhất, chúng ta thấy họ giải quyết được khá nhanh và hoàn toàn đồng tâm nhất trí với nhau ở trong vấn đề này, vì tất cả họ đã cảm nghiệm ân huệ đó, cảm nghiệm niềm an ủi thiêng liêng trong cuộc sống, cùng nhau phụng sự Chúa, gắn bó với nhau trong tình bạn, trong tình huynh đệ rất mật thiết.  Phải đọc lại tất cả những trang sử của giai đoạn đó thì mới hiểu được họ thân thiết với nhau, yêu thương nhau như thế nào.

Vậy sau khi giải quyết dứt khoát vấn đề thứ nhất, chúng tôi đề cập đến một vấn đề khác khó hơn, cũng không kém phần đòi hỏi phải suy nghĩ và xem xét.

Câu hỏi được đặt ra:  Có cần tuyên khấn lời khấn thứ ba là vâng phục một người trong chúng tôi không?  Lời khấn thứ ba là vâng phục, tức là thành một dòng tu.  Từ trước đến giờ họ chỉ có hai lời khấn:  sống khiết tịnh trọn đời và sống khó nghèo.  Bây giờ thêm lời khấn thứ ba là vâng phục một người được bầu làm Bề trên.  Điều này cốt để hoàn thành ý Chúa trong mọi sự một cách thuần khiết hơn, để ngợi khen Chúa hơn và được công phúc hơn.  Biên bản ghi nhận:  “Sau khi đã mất nhiều ngày để cầu xin tha thiết và suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề mà không thấy được điều gì thỏa đáng, chúng tôi đã đặt hết hy vọng vào Chúa và bắt đầu bàn luận với nhau xem có cách nào giải quyết được thỏa đáng hơn nỗi nghi ngờ của chúng tôi”.  Vậy có thể ví đây là hiện tượng mà thánh I-Nhã ở trong Linh thao gọi là gặp sầu khổ và thấy tối tăm mù mịt, không còn thấy đàng nào mà đi nữa.

Chúng ta thử xem lại nguyên tắc thánh I-Nhã nói phải xử sự thế nào trong lúc gặp sầu khổ, thì sẽ hiểu được cách mà các bạn của ngài làm ở đây.  Thánh I-Nhã định nghĩa sự sầu khổ thiêng liêng là tất cả những gì trái ngược với sự an ủi thiêng liêng, như sự tối tăm trong linh hồn, xao xuyến bề trong, thúc đẩy về những gì thấp hèn và phàm tục.Ở nguyên tắc tiếp theo, thánh I-Nhã nói về cách phải xử sự trong thời gian sầu khổ, đừng bao giờ thay đổi nhưng hãy cương quyết bền vững trong những điều quyết định và dốc lòng đã có trước khi bị sầu khổ hoặc trong điều dốc lòng đã có khi được an ủi trước đây.  Và nguyên tắc tiếp theo, trong cơn sầu khổ nếu như không nên thay đổi các điều đã quyết định thì cũng rất nên cương quyết thay đổi chính mình để chống lại cơn sầu khổ ấy, chẳng hạn bằng cách chăm chú cầu nguyện, suy gẫm, xét mình nhiều hơn và gia tăng những sự hãm mình  theo cách nào thích hợp hơn.  “Trước hết liệu có nên cùng nhau lui vào một nơi tĩnh mạc và ở đó 30 hay 40 ngày mà lo việc suy gẫm, ăn chay và hãm mình để được Thiên Chúa chấp nhận những ước nguyện của chúng tôi và đoái thương đặt chắc chắn vào tâm trí chúng tôi một cách giải quyết vấn đề này.  Hoặc 3 hay 4 người có nên thay mặt cho mọi người trong nhóm đến đó vì cùng một mục đích, hoặc không ai phải đi đến nơi tĩnh mạc ấy nên chúng tôi có thể cứ ở lại Roma, nhưng dành nửa ngày để chỉ lo việc của chúng tôi mà thôi.  Như vậy việc suy gẫm và cầu nguyện có thể được thực hiện một cách thuận lợi hơn và lâu giờ hơn, nửa ngày còn lại chúng tôi vẫn sử dụng vào việc tông đồ quen thuộc là giảng dạy và giải tội”.

Bây giờ họ tạm ngưng thảo luận về chính vấn đề, mà thảo luận về phương pháp tiến hành.  Về phương pháp tiến hành, chúng ta thấy rõ ràng qua những lời vừa đọc, đó chính là áp dụng nguyên tắc phải xử sự thế nào khi gặp sầu khổ.  Vậy các bạn nghĩ bây giờ làm sao gia tăng việc cầu nguyện và hãm mình.  Có thể tất cả cùng nhau đi vào một nơi thanh vắng theo như họ đã làm trước đó một lần tại Bắc Ý ngay sau khi chịu chức linh mục.  Vào năm 1537, họ đã chia thành nhóm hai, ba người đi đến một nơi thanh vắng, rồi hằng ngày đến thị trấn nào đó xin ăn và rút vào nơi thanh vắng mà suy gẫm, ăn chay, hãm mình.  Có thể tất cả cùng đi.  Hoặc ba, bốn người đại diện đi theo cách đó.  Hoặc không ai đi, tất cả cứ ở Roma, nhưng sắp đặt lại cách tiến hành là dành nửa ngày lo riêng việc của nhóm và nửa ngày tiếp tục làm công việc tông đồ quen làm là giảng dạy và giải tội.  Cuộc bàn cãi cũng ngã ngũ mau, bởi lẽ họ thấy được các lý do không nên nghĩ đến chuyện rời bỏ Roma. Lúc này nhóm đã bắt đầu làm việc và đã được nhiều sự chú ý.  Nhưng cũng có nhiều người nghi ngờ họ bằng cách nói xấu thế này thế khác, hoặc cho họ là nhóm cải cách hay là nhóm rối đạo.  Do đó, họ thấy rằng cả nhóm cần phải ở lại.  “Vì hai lý do:  một là để tránh những lời đàm tiếu và gương xấu đối với dân chúng là những người có thể xét đoán.  Bởi vì con người vẫn có khuynh hướng phát biểu một cách nhẹ dạ, cho rằng chúng tôi chạy trốn hoặc âm mưu điều gì mới hoặc thiếu cương quyết hay bền vững trong công việc ban đầu của chúng tôi”.  Như vậy vì vấn đề thanh danh của nhóm này là nhằm mưu ích cho các linh hồn, phục vụ Hội Thánh, cho nên không đem ra bán rẻ hoặc đánh đổi được.  “Hai là vì nhu cầu tông đồ hiện thời rất nhiều, giải tội,giảng dạy, các việc thiêng liêng khác nhiều đến nỗi dù nhóm chúng tôi có đông gấp bốn lần cũng không giải quyết hết”.  Vậy nhóm sử dụng con đường thứ hai, tức là dành một nửa ngày cho việc cầu nguyện suy nghĩ và nửa ngày vẫn tiếp tục công việc tông đồ quen thuộc.  Nhưng phải xác định mục tiêu cho việc dành một nửa ngày cho việc cầu nguyện, suy nghĩ đó.  “Chúng tôi bắt đầu thảo luận để tìm con đường đi tới giải đáp và đề nghị cho tất cả từng người thực hiện được trong tâm hồn mình ba thái độ sau đây:

-  Thái độ thứ nhất là mỗi người phải chuẩn bị và chăm lo việc cầu nguyện, dâng thánh lễ và suy gẫm như thế nào để mọi nỗ lực của mình hướng tới việc tìm thấy niềm vui và bình an trong Thánh Thần.  Làm hết sức để nghiêng chiều ý muốn của mình về vâng phục hơn là được quyền ra lệnh, nếu do đó mà phát sinh vinh quang và lời ngợi khen Chúa như nhau.  Cần giải thích thêm là trong Linh thao, thánh I-Nhã nói đến ba bậc khiêm nhường.  Bậc thứ nhất vì yêu mến Chúa thì thà chết không phạm một tội trọng.  Bậc thứ hai vì yêu mến Chúa thì dù phạm một tội mọn để đổi cả thế gian cũng không đổi.  Và bậc thứ ba là yêu mến Chúa Giê-su khó nghèo, vác thập giá, chịu sỉ nhục đến nỗi nếu như giữa hai đàng, hoặc là được vinh quang, hoặc là phải chịu sỉ nhục mà cũng làm vinh danh Chúa như nhau, thì mình sẽ chọn chịu sỉ nhục, bởi vì nó làm cho mình giống Chúa Giê-su là Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.  Ở đây, thánh I-Nhã và các bạn cũng áp dụng bậc khiêm nhường thứ ba đó vào mục này.  Ngài nói rằng:  vâng phục hay là không vâng phục, nếu sống vâng phục trong dòng tu hay sống tự do theo ý mình mà cả hai đều đem lại vinh quang Thiên Chúa và ngợi khen Chúa như nhau, thì mình sẽ chọn sự vâng phục.

-  Thái độ thứ hai là mỗi người phải tìm kiếm ý Chúa và mỗi người chịu trách nhiệm hoàn toàn, không ai ảnh hưởng trên ai, mỗi người đặt mình dưới tầm ảnh hưởng của Thiên Chúa mà thôi, tức là mỗi người chỉ dựa vào cầu nguyện, suy gẫm riêng để xem điều nào ích lợi hơn và như vậy để loại bỏ tất cả những ảnh hưởng của người khác, không phải do Thánh Thần tác động trong tâm hồn.

-  Thái độ thứ ba là để tạo sự khách quan, đây là áp dụng cách thánh I-Nhã nói trong Linh thao:  cách thứ hai để làm việc chọn lựa tốt trong thời kỳ thứ ba là thời kỳ mỗi người phải bình tĩnh suy xét, thì ngài nói rằng:  tưởng tượng ra một người mà tôi chưa bao giờ gặp và cũng chẳng quen biết với lòng ước ao cho họ được hoàn thiện toàn vẹn, suy xét điều tôi sẽ mách họ làm và lựa chọn để sáng danh Thiên Chúa, Chúa chúng ta, hơn cả và làm cho linh hồn họ nên trọn lành hơn, rồi tôi cũng làm như vậy, tuân theo quy tắc tôi đặt cho người khác.  Thánh I-Nhã và các bạn áp dụng điều đó cho tập thể của mình.  Mỗi người phải tự coi mình như một kẻ xa lạ đối với nhóm và như thể không bao giờ được nhận vào nhóm này.  Nhìn vấn đề như thế thì không một tình cảm nào làm cho họ nghĩ và phán đoán thiên về một bên nào, nhưng có thể nói là với tư cách một người ngoài cuộc, người ấy sẽ tự do bộc lộ ý kiến của mình về kế hoạch vâng phục hay không vâng phục.  Cuối cùng, lấy sự phán đoán của mình để xác nhận và chấp thuận phía nào mình thấy sẽ phục vụ Thiên Chúa hơn và bảo đảm hơn cho sự duy trì đoàn lâu dài.  Ở đây đặt vấn đề là nên khấn lời khấn vâng phục hay không, và tiêu chuẩn duy nhất nhằm để chọn khấn hay không khấn.

Sau một thời gian gia tăng việc cầu nguyện, hãm mình vì mục đích đã định để đạt được ba thái độ trên, các bạn bắt đầu đi vào việc nhận định.  Họ hẹn ngày gặp nhau để mỗi người phát biểu những vấn nạn có thể đưa ra nghịch với sự vâng phục.

 Trong phương pháp thứ nhất để làm việc lựa chọn trong Linh thao, thánh I-Nhã nói điểm thứ bốn là “suy xét xem sự được chức vụ hay bổng lộc nói trên đây sẽ sinh thuận tiện và ích lợi cho tôi bao nhiêu.  Ngược lại, cũng theo cách thức ấy, suy xét những bất tiện và nguy hiểm bởi sự được chức vụ hay bổng lộc.  Trong phần thứ hai cũng làm như vậy, nghĩa là xét những thuận tiện và ích lợi hoặc những bất tiện và nguy hiểm bởi sự không được điều ấy”.  Vận dụng vàotrường hợp này, giai đoạn thứ nhất các bạn bắt đầu bằng việc đưa ra những vấn nạn chống lại việc khấn vâng phục và trở thành một dòng tu.  Tất cả mọi lý do mỗi người đã khám phá ra trong suy nghĩ và cầu nguyện được lần lượt trình bày theo cách tiến hành cũng như lần trước.  Biên bản kể lại một số lý do đã được đưa ra, chẳng hạn người thì nói tốt nhất đừng khấn vâng lời, đừng trở thành một dòng tu, vì khi nói tới danh từ dòng tu, vâng phục, đối với dân Ki-tô hữu không còn giá trị, bởi thực trạng sa sút của đời tu lúc đó ở nhiều nơi làm cho người giáo dân khi nhìn thấy một người mặc áo dòng hay một linh mục thì không còn kính trọng quý mến như trước và như vậy không có lợi gì cho việc phụng sự Thiên Chúa.  Người khác đưa ra một lý do khác, nếu chúng ta muốn sống vâng phục, có lẽ chúng ta sẽ bị Đức Giáo Hoàng bắt phải sống theo một luật dòng nào đã có sẵn và chúng ta chẳng còn phương thế để làm việc cứu rỗi các linh hồn. Như vậy mọi ước vọng của chúng ta hỏng hết, mà chúng ta có đủ lý do tin rằng những ước vọng đó đã được Thiên Chúa, Chúa chúng ta chấp thuận. Để thấy rằng điều họ lo sợ ở đây không phải là sợ hão, chúng ta nói trước một chút hồi kết:  khi đã quyết định khấn vâng phục và xin trở thành một dòng tu, thì nhóm giao cho thánh I-Nhã và một vài bạn soạn bản đề cương hay gọi là thể thức sống (sau gọi là định thức) của dòng mới thành lập và đưa lên Đức Giáo Hoàng duyệt.  Đức Giáo Hoàng đọc xong là muốn duyệt liền.  Nhưng khi chuyển sang Thánh bộ dòng tu để làm văn kiện chính thức phê chuẩn, lúc đó lại bị chống đối, bởi vì người ta viện lý do đã có sắc lệnh của một Công Đồng từ thế kỷ 13 nói không nên cho lập thêm dòng tu mới, mà chỉ có bốn luật dòng đã được nhìn nhận lúc bấy giờ, ai muốn tu thì theo những luật dòng đó thôi.

Khó khăn thứ ba rất thực tế là nếu thành một dòng tu thì sẽ có ít người gia nhập vì phải lệ thuộc vào một Bề trên và khuôn khổ của luật dòng, trong khi đó họ muốn trở thành những người nhiệt thành, muốn có nhiều người cùng chí hướng với họ để phụng sự Chúa, để làm việc trong vườn nho Chúa.

Giai đoạn thứ hai là mỗi người lần lượt trình bày kết quả suy nghĩ của mình, tức là nêu lên những lợi ích của sự vâng phục.  Nếu khấn vâng phục, nếu thành một dòng tu thì sẽ được những ích lợi nào.  Mỗi người mỗi cách.  Trong biên bản đưa ra mấy thí dụ thôi.  Có người đặt vấn đề: “giả thử nhóm chúng ta được trao phó một công việc tông đồ mà không có sự trợ giúp của tinh thần vâng phục thì chẳng ai sẽ thực sự chịu trách nhiệm, mỗi người sẽ đẩy gánh nặng cho người khác như chúng ta đã có kinh nghiệm nhiều lần về việc ấy.  Thêm nữa, nếu không có quyền bính trong nhóm thì nhóm không thể tồn tại lâu dài như ý hướng ban đầu đã đặt ra”.  Sau khi từng người trình bày xong những thuận lợi và bất lợi, tiếp đến giai đoạn thảo luận cân nhắc vấn đề.  Đây là điểm thứ năm trong cách lựa chọn thứ nhất mà thánh I-Nhã trình bày trong Linh thao là sau khi đã suy nghĩ, cân nhắc về mọi khía cạnh và xem lý trí nghiêng về phía nào thì lựa chọn theo phía đó, chứ không theo sự thúc đẩy của tình cảm.

Qua quá trình cân nhắc và xem xét các lý do đã được nêu lên, lợi cũng như bất lợi, thì dần dần các bạn đã đi đến được kết luận “Cuối cùng nhờ Chúa ban ơn giúp sức, chúng tôi đã đạt được kết luận không phải là theo đa số phiếu nhưng là sự nhất trí tuyệt đối.  Chúng tôi vâng phục một người trong anh em, đó là điều rất đáng chọn và rất cần thiết cho chúng tôi”.  Vì ước muốn ban đầu của các bạn là hoàn thành ý Chúa trong mọi sự để phụng sự Chúa, phục vụ Hội Thánh vì họ thấy rằng nhờ lời khấn vâng phục và trở thành một dòng tu, họ sẽ có thể thực hiện tốt hơn và chính xác hơn.  “Đồng thời cũng bảo đảm hơn việc duy trì đoàn và sau hết chúng tôi có thể lo liệu khôn khéo hơn cho từng chi tiết của việc thường ngày về những mặt thiêng liêng cũng như thế tục”.

Đoạn cuối của biên bản cho chúng ta thấy:  họ hoàn toàn nhất trí với nhau đi đến quyết định về hai điểm chính, là chọn khấn vâng phục và trở thành dòng tu.  Nhưng sau đó họ còn phải tiếp tục bàn luận những vấn đề khác cụ thể và chi tiết hơn, tức là hình thành dòng mới này như thế nào?  Vậy họ vẫn cứ theo phương pháp đưa ra ý kiến thuận hoặc chống, rồi cân nhắc chọn lựa trong suốt thời gian gần ba tháng trời, từ giữa mùa Chay cho đến lễ thánh Gio-an Tẩy Giả, họ cùng nhau nhận định cộng đoàn, đặt ra từng điểm.  Nhưng ở những điểm sau đó thì họ không tìm sự nhất trí tuyệt đối nữa, mà họ bằng lòng với quyết định của đa số phiếu trong niềm vui và sự hòa hợp hoàn toàn của tâm hồn anh em.  Đây là sự cần thiết nhất trong cộng đoàn tu sĩ của chúng ta.  Nếu một cộng đoàn không có sự hòa hợp tâm hồn thì khó mà tránh được những rạn nứt.  Nhưng trước khi kết thúc, biên bản cũng nói rằng:  “Đi trước sự bàn định dứt khoát này, không thiếu những buổi canh thức cầu nguyện và những hy sinh, hãm mình”.  Tóm lại, họ đặt những phương thế siêu nhiên lên trên.  Khi nhận định ở cấp cộng đoàn, sự từ bỏ ý kiến riêng của mình cũng phải được đặt ra một cách dứt khoát.  Mỗi người và toàn thể cộng đoàn phải hoàn toàn sẵn sàng đón nhận điều Chúa sẽ thôi thúc là điều thích hợp nhất.  Mỗi người phải sẵn sàng chấp nhận quyết định cuối cùng, vì không phải là lúc nào cũng có thể đạt được tới sự nhất trí tuyệt đối.  Có lúc phải quyết định bằng đa số.  Nhưng thông qua việc cùng nhau nhận định thì lúc đó mọi người sẽ dễ dàng tuân phục hơn.  Và dĩ nhiên trong trường hợp này cũng đừng quên ý kiến của thiểu số cũng quan trọng, bởi vì nó sẽ làm cho quyết định chung được cân nhắc kỹ lưỡng hơn.  Phải làm sao để dù quyết định theo đa số nhưng mọi người đều đạt được niềm vui và sự hòa hợp hoàn toàn.  Sau khi đã quyết định, những người đưa ra ý kiến thiểu số tất nhiên phải từ bỏ ý riêng để chấp nhận ý kiến chung.

Ở trên chúng ta đã phân tích biên bản nhận định cộng đoàn của thánh I-Nhã và chín người bạn vào mùa Xuân 1539 đi đến quyết định thành lập Dòng Chúa Giê-su.  Sau đây chúng ta tóm tắt lại những yếu tố rút ra được từ kinh nghiệm của thánh I-Nhã và chín người bạn.  Chúng ta thử phác họa ra một sơ đồ tiến hành một cuộc nhận định cộng đoàn để đi tới điều mà trong bản báo cáo nói là “cùng nhau đón nhận ý kiến chính đáng nhất và coi đó như quyết định chung của cộng đoàn để rồi mọi người tuân theo”.  Trước khi đi vào việc rút tỉa kinh nghiệm này, chúng ta cần bổ sung một điểm nữa.  Trong phần phân tích chúng ta chưa đề cập đến, tức là trong phương pháp làm việc chọn lựa trong Linh thao gồm sáu điểm, thánh I-Nhã có nói trong điểm thứ sáu rằng:  “Khi đã làm xong việc lựa chọn hay quyết định ấy, người đã lựa chọn phải mau mắn đi cầu nguyện trước mặt Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và dâng cho Người lựa chọn đó, để Chúa chí tôn đoái nhận và xác chuẩn cho nếu điều ấy giúp phụng sự và ngợi khen Người hơn”.  Đây là xin sự xác chuẩn của Chúa, mặc dù suốt tiến trình đã cầu xin và suy nghĩ trước mặt Chúa để cho mình được đón nhận ánh sáng của Chúa.  Nhưng sau khi đã thấy rõ rồi thì một lần nữa lại cầu nguyện, vừa tạ ơn, vừa dâng chính điều mình đã quyết định đó cho Chúa, để xin Chúa cho mình cảm nghiệm được một sự bình an, một niềm an ủi, hân hoan nào đó như là dấu chứng Chúa chấp nhận lựa chọn của mình.

Vậy trong câu kết của biên bản cuộc nhận định, chúng ta thấy nói rằng:  “Hôm ấy mọi sự đã kết thúc dứt khoát trong niềm vui và sự hòa hợp hoàn toàn của tâm hồn anh em”.  Niềm vui và sự hòa hợp hoàn toàn của tâm hồn anh em ở đây chính là ơn an ủi Chúa ban để xác chuẩn chọn lựa của nhóm, vì chúng ta biết rằng trước đó nhóm đã ở trong một tình trạng khó khăn như thế nào.  Họ mò mẫm mà chẳng tìm ra một giải đáp nào, giống như một tâm hồn ở trong tình trạng sầu khổ thiêng liêng, cảm thấy khô khan, nguội lạnh, tối tăm, không còn hứng thú gì, không còn biết đường nào mà đi.  Trước đây tuy rằng họ xác tín về ơn gọi chung của họ, nhưng khi bàn đến vấn đề cụ thể, về phương thức sống, thì ý kiến họ rất khác biệt nhau.  Nhưng bây giờ họ đã đạt được sự đồng tâm nhất trí và được niềm hân hoan, sự hòa hợp hoàn toàn các tâm hồn.  Tuy bản báo cáo không nói rằng anh em đã kết thúc bằng cầu nguyện như thế nào, nhưng điều đó đương nhiên chúng ta phải hiểu thôi, vì đối với thánh I-Nhã và nhóm bạn này là những người rất nhuần nhuyễn với phương pháp Linh thao nên không thể nào họ bỏ qua điểm thứ sáu đó được.

Riêng thánh I-Nhã sau này trong tất cả những quyết định mà ngài phải đi tới trong công việc soạn thảo nội quy của Dòng thì ngài luôn luôn dựa vào sự nhận định theo những an ủi và sầu khổ trong khi ngài cầu nguyện và dâng thánh lễ.  Ngài dâng tất cả điều ngài phải quyết định và phải cân nhắc trước mặt Chúa.  Chính những ơn an ủi Chúa ban đã giúp cho ngài chọn lựa, chọn lựa xong ngài lại dâng cho Chúa và thường là ngài được an ủi nhiều thì ngài thấy đó là dấu Chúa chuẩn nhận điều ngài đã quyết định.

Như vậy chúng ta thấy trong cuộc nhận định cộng đoàn này, thánh I-Nhã và các bạn đã vận dụng đầy đủ phương pháp của thánh I-Nhã trong Linh thao về cách thức nhận định và chọn lựa.  Trong Linh thao thì phương pháp soạn để giúp cho chọn lựa cá nhân.  Còn trong thực tế của cuộc thảo luận mùa Xuân 1539 thì họ áp dụng ở cấp cộng đoàn.  Chúng ta cũng đã thấy cách họ thích ứng những điều soạn cho cá nhân vào hoạt động nhận định chung cả một cộng đoàn mười người như thế nào.  Và ở đó cũng đã có kinh nghiệm để đối phó với sầu khổ cũng như đã áp dụng cả cách lựa chọn thứ hai của thánh I-Nhã, tức là gồm bốn quy tắc, tuy ở đây chỉ vận dụng quy tắc thứ hai tức là để tìm được sự khách quan thì đặt mình ở trong tư thế là một người ở ngoài, không liên hệ gì tới nhóm để có thể bộc lộ ý nghĩ của mình cách khách quan hơn.

Bây giờ chúng ta thử lược tóm lại những bước đường phải đi như thế nào để thực hiện được một cuộc nhận định cộng đoàn.  Chúng ta có thể đi từ sự chuẩn bị, trước hết phải có ba điều kiện:

-  Điều kiện thứ nhất là cộng đoàn phải thấy mình có vấn đề cần cùng nhau giải quyết, bởi nếu không thì chẳng ai muốn ngồi vào mà suy nghĩ, cầu nguyện hay thảo luận làm gì.

-  Điều kiện thứ hai là cộng đoàn phải có sự đồng ý về mục đích chung mà mọi người phải nhắm tới, nếu không cuộc thảo luận sẽ không đạt kết quả.

-  Điều kiện thứ ba là các ý kiến chỉ khác nhau về phương thế cần sử dụng thôi, còn ai nấy phải có quyết tâm tìm ra con đường đưa tới đích.

Đó là ba điều tiên quyết đã xuất hiện rõ ràng ngay ở phần đầu của bản báo cáo.  Tuy ba điều kiện đó là tiên quyết, nhưng còn vấn đề khác cũng phải nói là tiên quyết tức là thái độ chung của cộng đoàn.  Trong phương pháp nhận định và chọn lựa cá nhân, điểm thứ nhất thánh I-Nhã nói là phải đặt mình trước vấn đề phải chọn lựa.  Nhưng vấn đề thứ hai là phải đặt mình trong trạng thái bình tâm, không có một quyến luyến lệch lạc nào.  Theo quan niệm của thánh I-Nhã, bình tâm không có nghĩa là dửng dưng.  Sở dĩ chúng tôi phải dịch chữ đó là “bình tâm” bởi vì chữ đó trong ngôn ngữ Âu Tây, trước thánh I-Nhã cũng không có nghĩa như là thánh I-Nhã dành cho nó đâu.  Chữ “bình tâm” của thánh I-Nhã không phải là sự dửng dưng, nhưng là thái độ của một con người đã hoàn toàn đứng về phía Thiên Chúa, cho nên đối với tất cả mọi thọ tạo thì con người ấy không bị cái gì lôi kéo hết, nhưng chỉ tìm điều duy nhất là làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn nhiều hơn, nhờ đó mà được tự do đối với tất cả mọi thọ tạo, mọi phương thế.  Sự tự do này là thứ tự do nội tâm, chỉ gắn bó với kế hoạch của Thiên Chúa.  Khi ứng dụng điều này vào một cuộc nhận định cộng đoàn thì phải thể hiện được sự tự do đó.

Chúng ta thấy trong bản báo cáo này các bạn chứng tỏ rằng họ có được sự tự do đó.  Họ gắn bó hoàn toàn với kế hoạch phổ quát của Thiên Chúa và với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho cộng đoàn.  Đối với từng thành viên tham dự cuộc nhận định cộng đoàn thì tất nhiên mỗi người đều được mời gọi đích danh với tất cả hiện tại và ân sủng mà họ đã lãnh nhận để thể hiện kế hoạch chung của Thiên Chúa.  Mỗi người được cộng đoàn chấp nhận như hiện tại của họ đang có.  Do đó, đòi hỏi cộng đoàn phải làm sao vượt qua được những nghi kỵ, những thành kiến để chấp nhận mỗi thành viên của mình.  Khi chúng ta tự bộc lộ mình trước cộng đoàn, thì chúng ta dễ có mối âu lo và sự thiếu an toàn vì sợ mình bị chê cười, bị xét đoán.  Chúng ta cũng bị thúc đẩy bởi ước ao tự nhiên là muốn được quý chuộng và yêu mến.  Cho nên sự tự do ở đây không những chỉ là đối với đối tượng của sự nhận định, mà còn là ngay thái độ đối với nhau.  Phải thoát khỏi mọi thành kiến nghi kỵ để chấp nhận nhau, tôn trọng nhau.  Nhận ra mỗi người đều được Chúa mời gọi và tất cả những thành viên của cộng đoàn đều được Chúa mời gọi ngồi lại với nhau trong cùng một ơn gọi của cộng đoàn dòng tu.

Chính sự quý trọng nhau trước mặt Chúa làm cho các thành viên khám phá ra cách Chúa Thánh Thần dẫn đưa mỗi người.  Nhóm mười người bạn mà chúng ta nói đến ở đây thì ngay từ đầu bản báo cáo đã nhấn mạnh rằng họ là những người thuộc quốc tịch khác nhau và tính tình thật là khác nhau.  Nhưng họ ý thức rằng tất cả đã được mời tham dự cùng một ơn gọi, nên họ tôn trọng nhau, chấp nhận nhau, để cho mỗi người được hoàn toàn tự do phát biểu và lắng nghe nhau.  Không ai thành kiến với ai, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt trình độ.  Tất cả đều được tự do phát biểu, vì tất cả đều được Chúa Thánh Thần tác động.  Từ đó chúng ta thấy thái độ bộc lộ của mỗi người phải là trung thực với mình và với mọi người, tức là phải được phát biểu trong một tư thế hoàn toàn thư giãn, phát biểu cách đơn giản, tránh những phát biểu phức tạp và phải bình tĩnh.  Phải được tạo điều kiện để có thái độ phát biểu bình thản, bởi vì lúc đó có cảm thấy mình được ai nấy lắng nghe, người phát biểu mới khỏi bị lúng túng.  Vậy có thể nói đây là chỗ để rèn luyện tình huynh đệ sâu xa và chân thành, chấp nhận nhau hoàn toàn trước mặt Chúa để có thể lắng nghe nhau.

Nhưng muốn được thế, mỗi người cũng phải chấp nhận bị thử thách nhằm đạt tới sự hài hòa với mọi người, chấp nhận mình bị lộ chân tướng, bị đối kháng, bị đặt thành vấn đề, cả tới mức cảm thấy  mình bị tấn công và thương tích.  Vì đây là một cuộc nhận định cộng đoàn, nên đã gọi là nhận định cộng đoàn thì mỗi người phải đóng góp với tất cả những gì Chúa cho mình, đem tất cả con người của mình đến trước mặt Chúa trong trách nhiệm đối với cộng đoàn và bộc lộ cho cộng đoàn tất cả những gì mình cảm nghiệm thấy như Chúa tác động nơi mình.  Qua đó, tất nhiên phải bộc lộ cả con người thật của mình, điều này đòi một sự khiêm tốn ở phía mỗi thành viên của cộng đoàn.  Tất cả các thành viên đều phải lắng nghe Chúa Thánh Thần dạy bảo, bởi vì đã gọi là nhận định thiêng liêng tức là nhận định theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần và chính Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng ta tới sự hiệp nhất ngang qua những khác biệt cá nhân.  Bởi lẽ Chúa Thánh Thần là nguồn duy nhất của mọi đoàn sủng nhằm thể hiện kế hoạch chung của Thiên Chúa.  Mỗi cộng đoàn dòng tu có một ơn riêng là đặc sủng của dòng đó, cho nên trong việc nhận định cộng đoàn chính là Thánh Thần hướng dẫn chúng ta thể hiện ơn Người đã ban, nên ai nấy đều phải lắng nghe Chúa Thánh Thần.

Như vậy, chúng ta thấy đòi hỏi căn bản là mỗi cá nhân cũng như toàn thể cộng đoàn phải đạt được sự tự do nội tâm, không để điều gì lôi kéo mình, không để thành kiến nào chi phối mình.  Sự tự do này là thành quả của lòng khao khát muốn tìm biết ý Chúa. Muốn thành công trong việc tìm biết ý Chúa thì lại đòi phải có lòng khao khát tìm biết ý Người.  “Ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ được mở cho” (Lc 11:10).  Nếu mỗi người không có sự khao khát tìm biết ý Chúa thì sẽ chẳng thể nào đem hết lòng đi tìm ý Chúa.  Muốn hết lòng đi tìm ý Chúa phải có sự sẵn sàng làm theo điều mình tìm thấy.  Tin tưởng vào Chúa chưa đủ, còn phải tin tưởng vào sự chân thành của các thành viên trong cuộc nhận định đó.  Bởi vì, nếu không tôn trọng tự do, không tin ở sự thành thật của nhau thì cũng không thể có một cuộc nhận định cộng đoàn.  Chúng ta thấy các lý do liên kết nhau như những mắt xích.  Tin tưởng vào Chúa thì tất nhiên cũng phải nhận thức rằng Thánh Thần của Chúa như gió muốn thổi đâu thì thổi và thổi lúc nào thì thổi, cho nên cũng phải phó thác cho Chúa về vấn đề thời gian, đừng nghĩ rằng Chúa sẽ cho mình thấy ngay lập tức, nhưng phải có thời gian để mọi sự trở nên rõ ràng.

Sự tự do như đã nói là giữa các thành viên với nhau phải thoát ra khỏi mọi thành kiến, mọi nghi ngờ, để chấp nhận nhau.  Và trong khi thảo luận đòi hỏi mỗi người luôn luôn kiểm điểm chính mình, kiểm điểm những thái độ, kiểm điểm chính việc cầu nguyện của mình để giữ cho tâm hồn mình tự do mà không buông theo những xung động nhất thời.  Trong khi chúng ta suy nghĩ, chúng ta nghe ý kiến người khác thì chúng ta phải giữ được sự tự do trong tâm hồn.  Có thể nói đó là những thái độ nền tảng vì nếu thiếu sự tự do nội tâm, thiếu sự chấp nhận nhau, thiếu sự lắng nghe nhau, thì không thể có nhận định cộng đoàn.

Đã gọi là nhận định cộng đoàn thì không có thể loại trừ nhau được.  Một cộng đoàn không thể có nhận định cộng đoàn nếu mỗi người chỉ muốn người khác là đàn cừu để mình dẫn dắt.  Ngược lại, cộng đoàn cũng không thể cùng nhau nhận định nếu một số thành viên vẫn cảm thấy rằng nhận định làm chi, điều gì rồi Bề trên cũng quyết định hết, nhận định cho có hình thức thôi.  Nếu trong cộng đoàn còn sống với cảm tưởng đó, thì cũng không thể có nhận định cộng đoàn.  Tóm lại, phải làm sao tạo được một bầu khí thật sự huynh đệ, yêu thương, kết hợp trong Chúa, tin tưởng nhau thì mới có thể là một cuộc nhận định cộng đoàn.

Sau đây chúng ta nói đến việc chuẩn bị đặt vấn đề.  Câu hỏi được đặt ra dưới hình thức đưa đến việc chọn điều này hay điều kia, tức là câu hỏi phải được đặt ra rõ ràng, chọn một trong hai.  Và câu hỏi cũng phải được đặt ra trong một ngôn ngữ của tự do, không có bắt buộc, tức là có nên chọn điều này hơn điều kia chăng.  Bởi vì nếu nói điều này chứ không phải điều kia, thì lúc đó đặt người ta dưới một áp lực tinh thần rồi.  Như thánh I-Nhã nói trong những điều chúng ta có thể chọn lựa là những điều hoặc không tốt không xấu, hoặc là tốt, thì về phương diện đời sống cộng đoàn cũng vậy, làm sao để việc chọn lựa thực sự khách quan, có thể chọn phía này hoặc phía kia.  Nếu câu hỏi đặt ra làm cho các thành viên bắt buộc phải chọn phía này hoặc phía kia, thì khỏi cần phải nhận định cộng đoàn nữa.  Vậy cần phải so sánh nên chọn bên nào hơn và câu hỏi phải có ba điều kiện:

-  Phải chính xác như là các bạn của thánh I-Nhã đã đặt ra ở đây.

-  Phải được mọi người hiểu cho đúng, bởi vì nếu tất cả mọi người không cùng hiểu câu hỏi hay vấn đề như nhau thì cuộc thảo luận cũng sớm đi đến chỗ ông nói gà bà nói vịt.

-  Câu hỏi phải thuộc về việc nhận định thiêng liêng, tức là nó không dửng dưng với công trình của Thiên Chúa trên thế giới.

Trong quá trình nhận định có những lúc phải vận dụng những quy tắc phân biệt thần loại trong Linh thao, cụ thể là các bạn đã áp dụng những quy tắc để đối phó trong trường hợp gặp sầu khổ thiêng liêng, gặp tối tăm thử thách.  Vậy trong phần chuẩn bị, sau khi đặt được câu hỏi rõ ràng cũng cần phải thâu thập các dữ kiện, nhất là đối với việc canh tân thích nghi đời tu.  Những dữ kiện chúng ta phải thâu thập có thể là những gì người ta gọi là dấu chỉ của thời đại, nhờ đó chúng ta biết được nhu cầu của con người thời nay là gì, họ khát vọng gì, chờ đợi gì.  Và vấn đề chúng ta đặt ra có liên quan gì với họ.  Chẳng hạn như một cộng đoàn dòng tu muốn đặt lại vấn đề phải phục vụ họ đạo như thế nào, nên phục vụ theo hướng trước kia, chủ yếu là coi phòng thánh, giúp hội đoàn hay có một hướng nào mới mà mình nhận ra được từ nhu cầu cụ thể của địa phương đó.  Khi đã tìm hiểu nhu cầu của họ, ta đem đối chiếu với ơn gọi của ta, rồi phải đặt vấn đề vào bối cảnh ơn cứu độ phổ quát, tức là cốt làm sao để phục vụ tốt hơn cho kế hoạch của Thiên Chúa.

Như vậy không chỉ là tìm kiếm những dữ kiện bên ngoài, mà còn phải thông qua suy nghĩ, cầu nguyện, chiêm ngắm mầu nhiệm Nhập Thể và đường lối của Chúa Giê-su, để đặt mình hoàn toàn vào bối cảnh của ơn cứu độ.  Như chúng ta thấy các bạn của thánh I-Nhã đặt vấn đề làm sao để tìm hứng thú trong vâng phục hơn là có quyền ra lệnh, và chúng ta đã phân tích rõ ràng mục đích sâu xa để hướng tâm hồn về sự vâng phục chính là để nên giống Chúa Giê-su.  Cũng phải đặt vấn đề trong sự liên đới với lịch sử của cộng đoàn, vấn đề của cộng đoàn nêu lên hôm nay phát sinh từ đâu, nó triển nở như thế nào để trở thành một đề tài thảo luận.  Điều này nghĩa là bao giờ cũng phải đặt trong viễn tượng đặc sủng của dòng, ơn gọi của dòng.  Ơn gọi của dòng là như thế nào và tại sao bây giờ chúng ta phải đặt vấn đề này.  Nếu khi đối chiếu với ơn gọi của dòng, vấn đề đã bị loại trừ rồi thì khỏi cần phải đặt ra nữa.  Chỉ có thể nhận định cộng đoàn khi một vấn đề được đặt ra vẫn ở trong phạm vi phương thế để thi hành ơn gọi của cộng đoàn thôi.

Sau khi đã chuẩn bị như thế, tức là chuẩn bị thái độ nội tâm, thái độ đối với nhau trong cộng đoàn, thì lúc đó có thể chính thức tiến tới giai đoạn nhận định.  Chúng ta thấy trong giai đoạn nào cũng phải có cầu nguyện, và trong giai đoạn chính thức của việc nhận định thì việc cầu nguyện lại càng trở nên khẩn thiết hơn, bởi lẽ mỗi người chỉ phát biểu những gì mình đã cảm nghiệm trong cầu nguyện thôi, những gì mình đã nhận định trước mặt Chúa trong cầu nguyện, những gì mình thấy Chúa đánh động mình trong cầu nguyện.  Phần này chúng ta cũng dễ theo, bởi vì trong biên bản nói khá dài về cách thức nhận định:  Bước thứ nhất là tìm những lý do nghịch.  Bước thứ hai là tìm những lý do thuận.  Bước thứ ba và thứ tư sẽ là suy nghĩ và liệt kê những bất lợi và những thuận lợi...  Chúng ta luôn luôn đặt ra hai con đường để chọn lựa mà ở đây chúng ta gọi là A và B.  Nếu chọn A hoặc nếu chọn B thì gặp những bất lợi và những thuận lợi nào. Sau khi đưa hết các lý do đó ra, bây giờ đến bước quan trọng là cân nhắc, phê phán, đánh giá những lý do đó, bởi vì không phải lý do nào cũng đáng quan tâm.  Khi đã đánh giá xong thì chỉ giữ lại những lý do nào được coi là chính đáng.  Việc cân nhắc xem xét các lý do đó sẽ dần dần đưa người ta tới sự hoán cải nào đó về tư tưởng và trí tuệ.

Nhưng đây chính là lúc cần cầu nguyện và bầu khí bác ái để có thể dám bộc lộ những chuyển động diễn ra trong tâm hồn mỗi người.  Cuộc thảo luận về các lý do đã được kể ra, bất lợi và lợi, nghịch và thuận, dần dần sẽ làm cho cán cân nghiêng về bên nào đó tùy sự đánh động của Chúa.  Luôn luôn trong cuộc thảo luận mỗi tham dự viên phải giữ được sự bình tâm hoàn toàn đối với việc chọn điều này hay điều kia.  Bình tâm trong việc cùng nhau nhận định có nghĩa là không muốn điều này hơn điều kia, bao lâu chưa cảm thấy vì vinh danh Chúa và phải sẵn sàng nhận quyết định của cộng đoàn làm quyết định của mình.

Như vậy, quyết định cuối cùng sẽ là quyết định của tình yêu đáp lại tình yêu, sự chọn lựa nào cũng đòi từ bỏ, tức là có sự hy sinh đi kèm, không thể bắt cá hai tay, và khi tôi nhận lấy quyết định của cộng đoàn thì có cái gì đó ở trong tôi phải chết đi.  Tôi chết đi cho cái tôi khi tôi phó mình cho quyết định chung của cộng đoàn, dù quyết định đó là thế nào, hợp ý tôi hay không hợp ý tôi thì tôi vẫn cứ vâng theo.

Đến đây chúng ta có thể cùng nhau suy nghĩ về một vài hình thức ứng dụng của việc nhận định này.  Trước tiên nói về phương pháp nhận định và lựa chọn ở trong Linh thao thì dĩ nhiên là nó có thể áp dụng cho những người tìm hiểu ơn gọi, những người đang được huấn luyện trong dòng để họ nhận định và chọn lựa cho đúng với ơn gọi của họ mà không để cho một động lực nào không chính đáng thúc đẩy họ.  Đây là điều nhiều khi chúng ta không quan tâm đủ và có thể là nguồn phát sinh ra những khó khăn cho cộng đoàn, tức là khi nhận một người, điều chính yếu phải quan tâm trước tiên là xét đến động lực sâu xa nào thúc đẩy người đó xin vào tu.  Động lực đó có thực sự hướng về Thiên Chúa, về đời sống tông đồ không?  Nói cách khác là họ có thực sự bình tâm, nghĩa là họ chỉ nhắm mục đích duy nhất là phụng sự Chúa, phục vụ Hội Thánh khi họ chọn đời tu hay không.  Việc này dĩ nhiên là đòi hỏi một quá trình thanh tẩy tâm hồn, thanh tẩy những suy nghĩ của mỗi người, và mỗi người phải thành thật với chính mình, trước mặt Chúa trong bầu khí tĩnh tâm.  Nếu người ta sống hoàn toàn trước mặt Chúa thì lúc đó người ta có thể đạt được mức bình tâm cần thiết để chọn lựa cho chính đáng.

Việc ứng dụng nhận định cộng đoàn rất đa dạng và rất hữu ích, chẳng hạn khi phải nhận định một đường hướng tông đồ nào đó phù hợp với ơn gọi của dòng, nghĩa là cần thích nghi với thời đại bằng nhiều phương thế khác nhau, nhưng luôn luôn trung thành với đặc sủng của dòng.

Như vậy chúng ta cũng có thể dùng việc nhận định cộng đoàn để tạo nên sự hòa hợp giữa các tâm hồn.  Bởi vì trong chính cuộc nhận định đó mỗi người phải thoát ra khỏi chính mình để tập chấp nhận người khác, lắng nghe người khác và tôn trọng người khác.  Hãy thực hiện những điều chúng ta nói về một cuộc nhận định cộng đoàn, thì chúng ta thấy sự hòa hợp các tâm hồn sẽ là kết quả của tất cả những bước tiến đó.  Việc chọn lựa cũng có thể đúng và cũng có thể sai, nhưng nếu có vài thành viên trong cộng đoàn lại cho là sai và nhất định bảo thủ ý kiến của mình thì sao?  Trong trường hợp này, đòi hỏi mỗi người phải có tự do đối với ý kiến phán đoán của chính mình, tìm ý Chúa bằng cách sẵn sàng phê phán và chấp nhận để người khác phê phán những ý kiến của mình.  Khi đạt được thái độ tự do và tôn trọng nhau trong cộng đoàn, lúc đó mới có thể trao đổi với nhau một cách thẳng thắn, nhưng không phải để tranh luận hơn thua.  Để đạt được sự tự do, sự cởi mở với Chúa Thánh Thần và với nhau thì trước hết phải khao khát mãnh liệt trong cầu nguyện, khao khát được biết sự thật, được hiểu và lớn lên trong sự thật mà không sợ hãi, cũng không mong muốn gì khác.

Phải bớt tin tưởng vào trí khôn của con người.  Ngược lại, đặt hết sự tin tưởng vào Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn dắt chúng ta vào tất cả sự thật mà chúng ta cần biết, lại phải đặt tin tưởng vào những thành viên khác cũng dấn thân vào nỗ lực này, phải tin tưởng họ là những con người có thiện chí tìm kiếm sự thật một cách lương thiện với sự cởi mở đối với Thánh Thần và đối với người khác.  Phải sẵn sàng lắng nghe và trình bày khiêm tốn, cởi mở, đơn sơ.  Phải thoát khỏi lòng ao ước muốn tỏ ra mình đúng, còn những người khác sai, lại sẵn sàng vui mừng khi tìm ra được sự sai lầm của mình nếu người khác đúng.  Phải có sự tự do đối với những thành kiến trong mức độ mỗi người có thể đạt được.  Tiếp theo là phải tin tưởng rằng nếu các thành viên chuẩn bị hết sức tốt thì Thánh Thần sẽ giúp họ soi sáng lẫn nhau, để mỗi người đều cho và nhận được ánh sáng.  Đó là sự chuẩn bị tâm hồn, chuẩn bị cho mối tương quan với nhau.  Điểm then chốt ở trong toàn bộ phương pháp “nhận định cộng đoàn” khác với cách thức đối thoại, trong đó mỗi người lắng nghe nhưng không bao giờ thực sự thử tìm cách chấp nhận và bảo vệ quan điểm khác với quan điểm của mình.  Nếu mỗi người cố gắng bênh vực quan điểm của người khác thì dần dần tất cả mọi người thấy rõ hơn.  Tục ngữ có câu:  “Hãy chui vào bộ da của người khác trước khi đòi người khác chui vào bộ da của mình”, tức là hãy thử nhận lấy ý kiến của người khác trước khi đòi người khác nhận lấy ý kiến của mình.  Tại sao cứ đòi người khác phải theo ý kiến của tôi mà tôi không cố gắng theo ý kiến của người khác.  Để trao đổi có kết quả tốt phải tránh những cuộc gặp gỡ dồn dập.

Như kinh nghiệm nhóm bạn của thánh I-Nhã đã làm là chia ra từng cuộc gặp gỡ.  Chẳng hạn trong cuộc gặp gỡ để nói lên những lý do bênh vực quan điểm chọn việc khấn vâng phục và trở thành một dòng tu, những lý do phải được ghi và đọc lại cho mọi người nghe.  Sau đó mỗi người có thể bổ túc ý kiến.  Nhưng trong một buổi họp, mọi người đều cố gắng bênh vực cùng một quan điểm.  Sau khi kết thúc buổi họp đó, mọi người tiếp tục cầu nguyện, suy nghĩ về những lý do, những giải thích đã đưa ra trong cuộc họp trước.  Sau đó lần lượt có những cuộc họp để nói về những quan điểm khác và bênh vực những quan điểm đó.  Nên chú ý trong những buổi họp này, phần bổ sung chỉ có giải thích, không đưa ra những lý do bênh vực.  Nếu không làm như vậy thì sẽ lại khởi đầu một cuộc tranh cãi.  Ở đây phải tránh tranh cãi, chỉ lắng nghe những lý do.  Trong các buổi họp cứ xen kẽ thời gian cầu nguyện, suy nghĩ, dần dần các lý do đó sẽ quy kết với nhau trong tâm trí mỗi người, làm cho mỗi người thay đổi dần dần và đi tới sự hòa hợp với nhau.  Điểm then chốt nữa là tất nhiên không nên quyết định bằng bỏ phiếu chọn quan điểm này hay quan điểm kia, vì đây không phải vấn đề đi đến quyết định mà là đi đến sự hòa hợp với nhau.  Vậy mục đích chủ yếu là cố gắng hiểu quan điểm của nhau, thấy điều hay, điều đúng của nhau và nhờ đó đi đến sự hòa hợp trong cộng đoàn.  Còn những quyết định nếu có gì sai thì dĩ nhiên phải sửa, không cần phải đặt vấn đề gay gắt.

Đó là một hình thức áp dụng phương pháp nhận định cộng đoàn, được coi là có thể hữu ích.  Phương pháp này sẽ giúp các cộng đoàn của chúng ta, nhất là những cộng đoàn chừng 5 – 7 người tạo được sự hòa hợp, một yếu tố quan trọng cho hạnh phúc của cộng đoàn và phát sinh hiệu năng tông đồ của cộng đoàn đó nữa.

 


Trang Mục Vụ