CẤU TRÚC QUẢN TRỊ
Từ
khi khoa Quản Trị học thành hình và được đem vào các đại học đường như một bộ môn
chủ yếu bên cạnh các môn học truyền thống, và nhất là từ khi nền kinh tế thế giới
thay hình đổi dạng sau Thế Chiến II, các quản trị viên, cố vấn, và lý thuyết
gia khoa Quản Trị Học đã không ngừng nghiên cứu và tìm kiếm một khuôn mẫu lý tưởng
về cấu trúc quản trị. Nhiều cấu trúc đã ra đời và đã thành công; nhưng những thành
công của mỗi cấu trúc chỉ có giá trị trong một hoàn cảnh, một môi trường cá biệt,
hay một giai đoạn. Vì vậy, việc tìm kiếm một cấu trúc như một kiểu mẫu đúng đắn
và phổ quát cho các tổ chức trên thế giới hôm nay vẫn còn là một thách đố và khó
khăn.
Lý
do đơn giản và dễ hiểu là nền kinh tế thế giới hôm nay mang tính phổ quát – liên
lục địa. Những tổ chức lớn nhỏ ngày nay đều có tư cách pháp nhân (legal entity)
với những mục tiêu và đối tượng bao trùm cả một nền kỹ nghệ trên thế giới. Nhất
là từ khi kỹ nghệ tin học ra đời và không ngừng phát triển, tính phổ quát lại càng
mang tầm mức quan trọng hơn. Do đó, việc điều hành không chỉ gói ghém trong một
khu vực địa lý hay quốc gia, nhưng là giữa các Châu. Giáo sư Sérieyx (1993) gọi
đó là những “làng tinh cầu” (planetary village). Tính phổ quát của các tổ chức
này đã làm đảo ngược những nguyên tắc của cấu trúc quản trị và đột biến những
nguyên tắc tổ chức, mới được coi là thành công trước kia, nay đã thành cổ điển.
Một
lý do khác có tầm ảnh hưởng quan trọng không kém là thế giới không ngừng thay đổi.
Sự thay đổi không chỉ trong lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, hay học đường,
nhưng là cả lối sống của con người. Sự thay đổi về lối sống dĩ nhiên bao hàm cả
sự không ngừng biến thiên về tâm sinh lý. Vì vậy, cung cách sống và sự mong đợi
được đối xử giữa con người với nhau đã khác xa những gì là mẫu mực và tiêu chuẩn
mà một vài thập niên trước đây người ta vẫn nghĩ là đúng. Việc thay đổi về tâm
sinh lý này ảnh hưởng lớn lao đến khoa Quản Trị học. Người lãnh đạo ngày nay rất
cần khả năng phân tích tinh tế và bén nhạy khi đối diện với cấp trên, đồng nghiệp,
hay nhân viên. Robert Waterman trong tác phẩm “What American Does Right”, xuất
bản năm 1994, đã khẳng định rằng những quan tâm tuyệt đối vào công việc như chìa
khoá của sự thành công trước kia, nay đã lỗi thời. Ngày nay, người ta nói đến
con người và quan hệ. Một tổ chức chỉ có thể thành công nếu những nhu cầu của
con người trong tổ chức được quan tâm. Dĩ
nhiên, khi nói đến nhu cầu, điều đó bao hàm cả sự động viên và tất cả những vấn
đề liên hệ đến văn hoá, hệ thống, cấu trúc, và khả năng của người lãnh đạo nữa.
Chương
Chọn Lựa Cấu Trúc Quản Trị này không hề có tham vọng đem ra một khuôn vàng thước
ngọc trong vấn đề tổ chức, nhưng nhằm mục đích giúp các quản trị viên và những
người đang thi hành công tác lãnh đạo trau dồi kiến thức và đem vào thực hành nếu
thích hợp. Điều cần nhớ là không có cấu trúc nào tuyệt đối hoàn hảo và lại càng
không có cấu trúc nào là kiểu mẫu cho mọi hoàn cảnh. Sự thành công tùy thuộc vào
sự nhận thức (Insight) và linh động (flexibility) của người lãnh đạo khi áp dụng.
Những
năm đầu của thập niên 1990, là những năm sôi động trong ngành Quản Trị Học. Chỉ
trong ba năm 1992, 1993, và 1994, bốn trường phái lớn về cấu trúc một tổ chức đã
hình thành. Tất cả bốn trường phái này đều thu hút nhiều tổ chức lớn với tầm vóc
quốc tế sử dụng, hoặc toàn thể hay từng phần. Không một nhân viên nào trong tổ
chức có thể hình dung trọn vẹn cơ cấu của tổ chức mình, kể cả người nắm giữ quyền
hành cao nhất trong tổ chức (CEO-Chief of Executive Officer). Mỗi bộ phận hay
ban ngành có thể áp dụng một phần hay toàn thể một kiểu mẫu tùy theo nhận thức
và sự linh động của người lãnh đạo bộ phận hay ban ngành đó. Mặc dù vậy, sự nhất
thống của một tổ chức vẫn không suy hao hay rối loạn. Đó mới là điều đặc biệt của
lề lối tổ chức trong khoa Quản Trị Học Hiện Đại.
1.
Kiểu Mẫu Cơ Cấu (structural): Hammer và Champy qua tác phẩm
“Reengineering the Corporation” (1993), đã sử dụng các nguyên tắc quản trị truyền
thống của các nhà máy sản xuất tiền Thế Chiến, phối hợp với các nguyên lý rút
ra từ khoa Xã Hội học và khoa Quản Trị học hiện đại, phác họa một khuôn mẫu mới
trong cách tổ chức gọi là kiểu mẫu Cơ Cấu. Kiểu mẫu Cơ Cấu nhấn mạnh đến mục tiêu,
khả năng chuyên môn, và những quan hệ chủ-thợ mang nặng tính hình thức. Kiểu mẫu
này đặt trọng tâm vào cơ cấu quyền lực hàng dọc, do đó, các nguyên tắc thi hành
công tác, nội qui, và luật lệ được thiết lập. Nhiều vấn đề sẽ nảy sinh một khi
việc áp dụng kiểu mẫu không phù hợp với tổ chức.
2.
Kiểu mẫu Nhân Sự (human resources): Năm 1994, Waterman hướng các tổ chức vào
kiểu mẫu Nhân Sự trong tập sách nghiên cứu của ông “What America Does Right”.
Qua cách lập luận của ông, ông chú trọng đặc biệt vào quan hệ giữa tổ chức và
nhân viên. Kiểu mẫu này đặt cơ sở trên phân tâm học và coi tổ chức như một gia đình
thứ hai của một nhân viên sau gia đình riêng tư của họ. Vì là một gia đình, mỗi
nhân viên cần được quan tâm đến nhu cầu, tình cảm, phán đoán, chuyên môn và giới
hạn. Mỗi người có một khả năng thiên phú riêng biệt, vì vậy, cần dùng họ vào đúng
chỗ và đúng lúc. Chiều kích đặc biệt của kiểu mẫu này là gia giảm cách áp dụng các
kiểu mẫu quản trị trong tổ chức sao cho thích hợp với từng cá nhân liên hệ, để
nhân viên cảm thấy thoải mái và hãnh diện về công việc mình làm.
3.
Kiểu mẫu Chính Trị (political): Pfeffer qua cuốn sách nổi tiếng của ông
“Managing with Power”, xuất bản năm 1992, đã trình bày một khuôn mẫu mới cũng đã
thu hút được nhiều giới lãnh đạo và được nhiều tổ chức áp dụng. Đó là kiểu mẫu
Chính Trị. Kiểu mẫu này đặt cơ sở trên khoa Chính Trị học, và coi tổ chức như một
đấu trường đầy cạnh tranh và hỏa mù. Mỗi nhóm người hay mỗi cá nhân có một sở
thích, một quan điểm để theo đuổi. Để đạt được mục tiêu, họ ra công tiến thủ, đề
bạt hay ứng cử vào những chức vụ uy quyền để phát huy quan điểm cá nhân hay đảng
phái của mình. Trong các tổ chức theo kiểu mẫu này, những vấn đề đụng chạm về
quyền lực, cạnh tranh, và chính trị là những ý niệm rõ nét và chủ yếu. Người lãnh
đạo trong lối tổ chức này phải rất khôn khéo dung hoà các thế lực và phải biết đâu
là nguyên tắc chủ yếu của tổ chức để dẫn dắt ý kiến đám đông về một mối duy nhất.
4.
Kiểu mẫu Biểu Tượng (Symbolic): Năm 1992, xuất hiện một cuốn sách có tựa
đề ngộ nghĩnh, nhưng lại rất bắt mắt giới quản trị. Đó là “Leadership Jazz” của
DePree. DePree phát huy một kiểu mẫu mới gọi là kiểu mẫu Biểu Tượng. Kiểu mẫu
này nhấn mạnh đến các hình thức mang tính biểu tượng như truyện, danh từ hoa mỹ,
và âm nhạc, vv… đặt trên cơ sở xã hội, văn hoá, và khảo cổ học. Kiểu mẫu này đòi
hỏi tổ chức chú trọng đến vấn đề văn hoá, lễ nghi, truyện kể, những huyền thoại,
và anh hùng, vv… như là một dẫn nhập vào truyền thống làm việc và quan hệ. Tổ
chức phải được giới thiệu đến nhân viên như một sân khấu phản ánh trọn vẹn những
nét rất người của mọi người. Chính qua cung cách sinh hoạt như vậy, người lãnh đạo
sẽ dựng một niềm tin nơi nhân viên, phát huy những vẻ đẹp của mục tiêu và ý nghĩa
của việc đóng góp công sức của nhân viên để thành công.