THÁCH
ĐỐ CỦA NGƯỜI TU SĨ TRONG THỜI ĐẠI MỚI
Trong thời đại của chúng ta hôm
nay, nhìn tổng thể, xã hội loài người có nhiều thay đổi theo hướng tích cực
trong hầu hết mọi lãnh vực. Trong bối cảnh xã hội phát triển, cuộc sống con
người được mở ra với nhiều hy vọng, nhiều hứa hẹn, nhưng cũng nhiều thách đố và
không ít rủi ro. Chính vì thế, con người dù dư thừa vật chất, nhưng vẫn cảm
thấy buồn phiền, chán nản, lo âu, bất an… Có nhiều người rất thành công trong
sự nghiệp, lắm bạc nhiều tiền, cũng như có được một gia đình yên ấm, nhưng lại
cảm thấy trống vắng trong tâm hồn. Bên cạnh đó, cùng với phát triển kinh tế,
cuộc sống sung túc hơn thì đồng thời, con người cũng chạy theo lối sống thực
dụng, hưởng thụ và ích kỷ hơn.
Ra như mối tương quan tình thân
dễ bị lãng quên hơn. Lại nữa, con người ngày nay cũng có nhiều thay đổi trong
lối suy nghĩ, quan niệm sống và các giá trị tinh thần cũng đang được nhìn nhận
lại một cách tự do hơn, thông thoáng hơn. Đặc biệt trong đời sống tâm linh,
niềm tin vào các tôn giáo đang được con người đặt vấn đề. Họ nghi ngờ về một
sức mạnh nào đó từ bên ngoài tác động vào đời sống của con người.
Đứng trước thực trạng của một
xã hội mà con người muốn phủ nhận Thiên Chúa và chạy theo vật chất, giới trẻ
Công giáo nói chung và các tu sĩ (đặc biệt là tu sĩ trẻ) nói riêng sẽ gặp rất
nhiều những thách đố trong đời sống. Với cái nhìn chủ quan, bài viết nêu lên
những thách đố mà người tu sĩ sẽ phải đối diện khi sống giữa lòng xã hội hôm
nay. Những gì trình bày ở đây ra như tiêu cực, nhưng hy vọng đó là số ít, còn
thực tế thì phần nhiều là những gương sáng cho con người thời đại.
Thách đố khi hội nhập với xã
hội
Ngày nay, người tu sĩ được mời
gọi sống hội nhập để làm chứng cho niềm tin và những giá trị cao quý của Kitô
giáo. Họ được kêu gọi hãy dám từ bỏ những giá trị vật chất, là những gì đáng
được hưởng, để dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp hơn. Nói thế không phải phủ
nhận những giá trị vật chất đem lại cho đời tu. Thật thế, có rất nhiều phương
tiện hữu ích trong xã hội hiện đại đang phục vụ cho sứ mạng của người tu sĩ.
Vấn đề đặt ra là, người tu sĩ hội nhập với xã hội hay là bị hoà tan trong xã
hội – một xã hội hưởng thụ và tục hoá?
Trong thực tế, có không ít
người sống đời tu nhưng đã bị cuốn vào vòng xoay của lối sống thực dụng. Không
ít người chọn đời tu để mong thoát ra khỏi những khó khăn về đời sống vật chất.
Họ chọn nhà Dòng như là điểm dựa để tiến thân. Họ chạy theo thời đại với những
toan tính thiên về vật chất. Họ cũng cố gắng tìm cho mình những gì người khác
có. Về bằng cấp, họ cũng tìm kiếm như mọi người, nhưng không phải để phục vụ mà
là để khoe mẽ, để tiến chức. Về vật chất, nhiều vật dụng không cần thiết hoặc
chưa cần thiết cho cuộc sống thì họ cũng cố gắng phải có để bằng anh, bằng em.
Khi bản thân hoặc gia đình họ không có điều kiện, họ cố gắng chạy chọt, xin xỏ
để đạt được những gì mình muốn. Có nhiều người đưa ra những lý luận rất hay để
biện minh cho những hành động chạy theo lối sống hưởng thụ của mình.
Thế còn những người mang nơi
mình một lý tưởng cao đẹp trong đời sống dâng hiến thì sao? Họ phải sống thế
nào trước một xã hội đề cao cái tôi cá nhân và sự hưởng thụ này? Có lẽ, người
tu sĩ trẻ cần hội nhập để cùng đồng hành và chia sẻ với con người, giúp họ và
giúp mình tìm được giá trị đích thực về đời sống con người. Người tu sĩ trẻ hội
nhập để chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của kiếp người. Họ hoà đồng mà không bị
hoà tan trong vũng bùn của cuộc đời nhiều tội lỗi. Người tu sĩ trẻ có thể đến
với những bóng đêm của cuộc đời để kéo con người trong đó ra ánh sáng, nhưng họ
không ở luôn trong bóng đêm ấy. Người tu sĩ trẻ có thể đến với những người yếu
đuối để nâng họ đứng lên, chứ không bị những yếu đuối ấy nhận chìm…
Thiết nghĩ, người chọn đời tu
vẫn đang sống trong xã hội này, không thể tách rời. Vì thế, họ cần tận dụng
những thuận lợi mà xã hội đem lại để phục vụ cho sứ mạng của mình. Đồng thời,
họ cần phát huy hơn nữa những giá trị tích cực mà cơ chế thị trường, xã hội thực
dụng, công nghệ – khoa học đem lại để phần nào làm hạn chế những điều tiêu cực
do chính cơ chế ấy gây ra. Hoà nhập được như thế thì thực trạng xã hội sẽ không
còn là một thách đố với người tu sĩ trẻ nữa, mà trở thành một phương tiện hữu
dụng để họ rao giảng sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa cho con người hôm nay.
Thách đố khi sống các nhân đức
Bên cạnh việc sống hội nhập với
xã hội, người tu sĩ còn được mời gọi thể hiện đời sống chứng tá của mình bằng
việc thực thi hoàn trọn các nhân đức, để làm gương sáng cho mọi người. Đây cũng
là một thách đố lớn đối với người tu sĩ trong một xã hội đang có quá nhiều
những cám dỗ bủa vây.
Các nhân đức hướng thần
Việt Nam là một đất nước đa tôn
giáo, trong đó có những tôn giáo đã được lưu truyền từ rất lâu, chẳng hạn như
Phật giáo và Nho giáo. Ảnh hưởng của những tôn giáo này rất lớn đối với người
Việt Nam, và đã ăn sâu vào trong tâm thức của nhiều người. Tư tưởng của các tôn
giáo đó thì bình dân, giản dị, dễ gần và phù hợp với người nông dân Việt Nam.
Trong khi đó, Công giáo với những ý tưởng thần học quá trừu tượng, quá cao siêu
không đủ sức nuôi tâm hồn những người tín hữu nói chung và người tu sĩ nói
riêng trong cuộc chiến đấu trước những thách đố, cám dỗ của đời thường. Từ đó,
người tu sĩ có thái độ gồng lên để chu toàn nghĩa vụ đầy công đức thiêng liêng
nhưng không cảm nhận được những nét đẹp cao quý khiến cho đời tu trở nên nặng
nề, ì ạch và “khó thở”.
Bên cạnh đó, họ lại thấy các
đấng xưa nay vốn là thần tượng của mình, lại có những hành xử quá ư là con
người. Bề trên thì chuyên quyền, người dưới thì luồn cúi… Họ ra sức tìm kiếm mà
chẳng thấy Chúa đâu. Họ kêu gào mãi mà Chúa vẫn lặng thinh. Thế là, Đức Tin
chao đảo, họ nghi ngờ không biết Chúa có thật hay không. Trong khi đó, khoa học
đang dần giải thích được hầu hết các hiện tượng mà xưa nay vẫn nghĩ là Chúa đã
làm. Chính những chán nản, căng thẳng, khủng hoảng trong đời tu làm cho người
tu sĩ trẻ trở nên tuyệt vọng không biết bám víu vào ai, dẫn đến những thách đố
về đức cậy.
Trước một thế giới đầy biến
động, sự hy vọng tan vỡ mỗi ngày. Người tu sĩ thay vì phải trở nên dấu chỉ và
biểu hiện của niềm hy vọng cho người tín hữu, thì chính người tu sĩ lại đánh
mất đi niềm hy vọng vào Đức Giê-su Ki-tô. Mỗi khi thất vọng, đau buồn, họ không
còn tìm đến Chúa nữa. Bây giờ, họ xây đắp hy vọng của mình nơi những người có
thể cho họ được an toàn trong đời tu. Họ hy vọng vào mối quan hệ thân thiết với
các đấng trong Dòng, trong Giáo hội, để họ được ưu đãi, cất nhắc lên làm việc
này, việc kia. Họ hướng hy vọng của mình vào nơi chính quyền, nhà nước cốt làm
sao để đi tu dễ dàng, mau chóng được phong chức. Họ còn hy vọng vào những người
bảo trợ (cha bố, sơ mẹ), là những người bảo đảm tài chính sẽ chu cấp cho họ
được cuộc sống an nhàn, có phương tiện tối tân để làm việc. Nhưng khi nói tới
việc làm, thì sự dấn thân đã không còn gắn liền với người tu sĩ nữa. Ai cũng
muốn an phận, dính vào thêm mệt; bề trên giao việc thì từ chối, sợ không làm
được. Hình ảnh người tu sĩ dấn thân giữa đời, là người của tình yêu giờ không
còn nữa. Người tu sĩ được mời gọi trở nên giống Đức Kitô tình yêu, nhân từ, sức
mạnh và sự hiểu biết giờ còn đâu? Và đây cũng chính là thách đố về đức mến.
Trong thực tế, nhiều người trẻ
đi tu là để tìm kiếm một vị thế trong Dòng hoặc thể hiện mình trong các tổ chức
của Giáo hội. Đôi khi, ý tưởng khởi đầu đời tu là sự quý mến hay khâm phục một
tu sĩ đạo đức thánh thiện nào đó. Thế nhưng, khi đã vào tu thì họ lại mong
nhanh chóng được làm linh mục để hoạt động, để được nhiều người biết đến, để
được mọi người đánh giá bằng khả năng tổ chức sinh hoạt bên ngoài, chứ không
phải qua đời sống tâm linh thánh thiện. Họ thích xuất hiện trước cộng đồng hơn
là đọc kinh cầu nguyện. Họ thích phục vụ ư? Tốt đấy, nhưng họ lại không phục vụ
theo lòng mến giống như Chúa Kitô, mà chỉ vì mục đích vụ lợi, đạt được cái gì
đó cho bản thân. Trong đời sống chung, người tu sĩ trẻ chỉ biết sống với tinh
thần cạnh tranh thay vì giúp đỡ nhau; thay vì sống tình huynh đệ cộng đoàn thì
họ lại chỉ trích người này, tẩy chay người nọ. Họ thiếu lòng cảm thông và sự
chia sẻ cùng anh chị em trong cộng đoàn. Lòng mến Chúa và yêu thương huynh đệ
không còn nữa thì đời sống của người tu sĩ trở nên nặng nề và không còn ý nghĩa
nữa.
Các nhân đức nhân bản
Hơn bao giờ hết, thế giới này
là một thế giới “bầm dập” vì những chuyển biến, đang cần những chứng nhân thành
tâm thiện chí sống động. Chính vì thế, hơn ai hết, người tu sĩ phải thể hiện sự
trưởng thành trong đời sống nhân bản của chính mình. Họ cần phải có những động
lực để thúc đẩy tham dự vào những bước tiến vĩ đại của nhân loại, bằng việc
sống ơn gọi đích thực, bằng việc huấn luyện lương tâm, cảm thức về những giá
trị đạo đức và tinh thần, nhất là làm chứng tá cho những giá trị luân lý. Đứng
trước thực trạng đó, người tu sĩ trẻ làm sao kiện toàn lý trí trong điều khiển các
hành vi? Làm sao tập trung ý chí trong việc chu toàn nghĩa vụ đối với tha nhân?
Vững vàng không tháo lui trước những gian nguy và kiểm soát được cảm xúc không
chiều theo bản năng mù quáng? Đây chính là thách đố về luân lý cho người tu sĩ
trẻ.
Trước tiên, họ cần sự khôn
ngoan để đọc ra được các dấu chỉ của thời đại theo ý định Thiên Chúa như Phúc
Âm đã từng nói đến “Khôn ngoan như con rắn, đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16). Đó
là sự khôn ngoan trong tương quan với Thiên Chúa. Thế nhưng, người tu sĩ trẻ
ngày nay dường như tìm kiếm một sự khôn ngoan mà nói như thánh Phaolô là sự
khôn ngoan của thế gian, là khôn ngoan danh vọng và chức quyền. Sự khôn ngoan
đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của người tu sĩ. Họ dùng để phân
biệt điều tốt và điều xấu, nhưng hiện nay sự phân biệt đó xem ra rất chủ quan.
Họ còn dùng sự khôn ngoan nhằm nắm bắt cơ hội cho bản thân mà không màng đến
quyền lợi của người khác, gây nên những bất công trong đời sống cộng đoàn.
Kế đến, sự công bằng cũng là
thách đố cho người tu sĩ khi mà cá nhân chủ nghĩa được đề cao. Mối tương quan
giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đoàn cũng đòi hỏi sự công bằng,
nhưng là đòi hỏi theo cách cá lớn ép cá bé, hay bề trên cho anh xe gắn máy thì
phải cho tôi vi tính hoặc cái gì đó tương đương.
Thêm nữa, bước vào đời tu,
người trẻ phải lì, phải liều để dấn thân. Thiên Chúa không để ai bị thiệt hay
chịu đựng quá sức mình: “Ơn Thầy đủ cho con vì sức mạnh Thầy biểu lộ trong sự
yếu đuối” (2Cr 12,9). Đó là lòng can đảm và sức mạnh Chúa ban để chúng ta vượt
qua chông gai thử thách. Tuy nhiên sự can đảm không chỉ có thế, mà đôi khi phải
chịu đựng gian khổ nữa. Thử hỏi bây giờ có mấy người dám dấn thân vào những nơi
cực khổ? Ngay trong cộng đoàn, họ dùng sự can đảm để từ chối, để rút lui trước
những khó khăn, dùng sức mạnh để đối đầu anh em mình.
Cuối cùng, dù sống giữa đời
thường hay trong đời sống tu trì, thì việc giữ chừng mực trong hết mọi hành
động vẫn là điều quan trọng. Hơn nữa, là người tu sĩ thì chúng ta phải làm
gương, nếu không chúng ta sẽ giảng dạy như thế nào khi mà cuộc sống chúng ta
chẳng ra làm sao. Người tu sĩ cần phải kìm hãm những nhu cầu tự nhiên trong
khuôn khổ chừng mực.
Thách đố khi sống ba lời khuyên
Tin mừng
Trong một xã hội, đang khi con
người đề cao tiền bạc, vật chất, thì đời sống tu trì lại mời gọi người tu sĩ
sống lời khấn khó nghèo triệt để; đang khi con người sống hưởng thụ, thì người
tu sĩ lại được mời gọi sống khiết tịnh vì Nước Trời; đang khi con người đề cao
cái tôi cá nhân, thì người tu sĩ lại được mời gọi sống vâng phục tuyệt đối theo
gương Đức Ki-tô, “Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl
2,8). Đó chính là thách đố khi người tu sĩ giữ ba lời khuyên Tin mừng.
KHÓ NGHÈO
Không ai trong chúng ta muốn
sống nghèo, nhất là trong xã hội mà người ta đang đề cao tiền bạc, hưởng thụ và
cái nghèo bị coi là điều bất hạnh. Người tu sĩ trẻ cũng đang bị cuốn vào vòng
xoáy đó và đây là một thách đố. Thực tế, nếu người tu sĩ trẻ tự nguyện sống
nghèo, sống giản dị thì cũng rất khó, bởi những tác động của nội cảnh và ngoại
cảnh. Nhìn ra xã hội, chúng ta thấy đủ loại hình thức quảng cáo, tiếp thị
khuyến khích người trẻ hưởng thụ những tiện nghi vật chất, nhưng lại hạ thấp và
quên đi những giá trị tinh thần cao đẹp của con người. Nhìn vào bạn bè cùng lứa
tuổi thì họ đã có sự nghiệp, gia đình ổn định, còn mình thì chẳng có gì cả. Từ
những so sánh tính toán đó, người tu sĩ trẻ dễ rơi vào những cám dỗ về phương
tiện vật chất. Họ nghĩ muốn học hành, phục vụ cần phải có vi tính xách tay, xe
gắn máy thật “xịn” để dễ dàng di chuyển chỗ này chỗ kia, làm cho được việc. Ban
đầu, ý tưởng có đủ điều kiện vật chất để thi hành công việc là một điều tốt.
Thế nhưng sau đó, ý hướng này đã bị lạm dụng bởi những nhu cầu không chính
đáng. Những tài sản có được do khéo xin xỏ thì ai cũng bo bo giữ cho riêng
mình, không dám chia sẻ cùng anh chị em trong cộng đoàn. Cứ thế, người tu sĩ bị
bao phủ bởi những vật chất có được, khó lòng từ bỏ. Lời khấn khó nghèo trở nên
nặng nề hoặc có thể bị xuyên tạc để trở nên dễ dàng hơn.
VÂNG PHỤC
Thế hệ trẻ ngày nay tỏ ra đầy
tính cách duy lý, họ tìm cho mình một lập trường và có thể tự cho rằng đã đủ để
mạnh dạn phê bình người khác. Nhiều tu sĩ trẻ dựa theo lập trường, theo kiến
thức, sự hiểu biết của mình mà không chịu nhận mình sai sót. Có nhiều người còn
lợi dụng tinh thần tự do dân chủ để phản đối lại những quyết định của bề trên.
Họ lẩm bẩm kêu ca khi bị truyền phải vâng phục, “bằng mặt mà không bằng lòng”.
Họ quên rằng, lời khấn vâng phục mà họ đã tuyên khấn là vâng phục Thiên Chúa,
và bề trên chỉ là người thay mặt. Một cách nào đó, mọi người, đặc biệt các vị
bề trên cũng đã có cái nhìn cởi mở hơn trong khi thực hiện quyền bính trên các
người trẻ. Họ tôn trọng những giá trị riêng biệt của từng cá nhân. Họ lắng nghe
người trẻ một cách tích cực và cảm thông hơn. Thế nhưng, không vì thế mà các tu
sĩ trẻ quá coi thường, thiếu sự tôn trọng.
KHIẾT TỊNH
Khi cuộc sống tu trì gặp khủng
hoảng, căng thẳng, không còn niềm vui, mà cộng đoàn không thể chia sẻ thì người
tu sĩ trẻ dễ đi tìm sự khoả lấp từ bên ngoài. Khi tâm hồn trống vắng, họ sẽ tìm
đến với những niềm vui mà chính họ cũng không nghĩ là sẽ gặp trong cuộc đời.
Bên cạnh đó, các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, Internet…
truyền tải những hình ảnh độc hại, nội dung đồi truỵ dễ lôi kéo người tu sĩ trẻ
vào việc thoả mãn những nhu cầu tâm sinh lý khi đang khủng hoảng. Họ không còn
cảm nhận được niềm vui khi phục vụ người khác, đặc biệt những người bất hạnh.
Họ không thấy được hạnh phúc khi đến với tha nhân, khi sống cùng cộng đoàn. Họ
coi cộng đoàn là địa ngục, tha nhân là gánh nặng. Họ vùng vẫy trong đam mê,
trong yếu đuối của xác thịt. Lời khấn khiết tịnh đã trở nên gánh nặng, đè bẹp
cuộc đời đáng ra rất hạnh phúc của họ.
Tạm Kết
Cuộc sống chúng ta luôn có
những thách đố và khủng hoảng. Hành trình làm con Chúa cũng tồn tại nhiều nghi
ngờ và e ngại. Dấn thân theo Đức Kitô, để trở thành người môn đệ đích thực của
Người cũng thật chông gai và nhiều cam go. Chúng ta luôn mong tìm được một
hướng đi nào đó thích hợp, bớt được những khó khăn thì mãn nguyện và hạnh phúc.
Thế nhưng, điều này còn nhiều bước cản, vì con người thì giới hạn mà khát vọng
lại vô cùng.
Vì thế, người tu sĩ trẻ ngày
nay cần phải đọc ra được những dấu chỉ của thời đại. Họ cần đọc được ý Chúa
muốn nói với mình điều gì qua những biến cố, những sự kiện của bản thân, của
những người xung quanh, cũng như những sự kiện của xã hội. Nếu con người không
thể sống thiếu cơm bánh, thì có thể nói người tu sĩ trẻ cũng không thể sống
thiếu Lời Chúa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời
miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4). Nhờ Lời Chúa, người tu sĩ sẽ biết được sự
yếu đuối của bản thân, để biết cậy dựa, tin tưởng vào một mình Chúa mà thôi.
Cuối cùng, người tu sĩ trẻ cần
thực hiện ba điểm chính yếu của đời tu, đó là: tìm kiếm Thiên Chúa, sống tinh
thần hiệp thông huynh đệ và phục vụ người khác. Những người sống trong ơn gọi
tu trì hãy cố gắng làm chứng cho mọi người thấy rằng, ai cũng được mời gọi nên
thánh. Đồng thời, họ phải là gương sáng cho người Kitô hữu lẫn người ngoài Kitô
giáo về lòng yêu thương tha nhân, nhất là những anh chị em gặp nhiều đau khổ
trong xã hội. Trong một thế giới không còn ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện của
Thiên Chúa nữa, thì người tu sĩ phải trở thành chứng nhân đầy sức thuyết phục
về một Thiên Chúa Tình Yêu và về đời sống vĩnh cửu mai sau.
Trong đời sống cộng đoàn, người
tu sĩ phải làm chứng về các giá trị của tình huynh đệ và sức biến đổi của Tin
Mừng. Tất cả những ai bước vào đời tu đều được mời gọi trở thành người đi đầu
trong việc tìm kiếm Chúa, một sự tìm kiếm luôn làm dao động lòng người và được
bày tỏ hết sức rõ ràng bằng nhiều hình thức tu đức và đời sống tâm linh. Sống
cộng đoàn, làm chứng trong thinh lặng và bình an là hình thức thôi thúc mọi
người xây dựng một sự hòa hợp lớn hơn trong xã hội. Sống nghèo khó và từ bỏ
trong thinh lặng, sống thanh khiết và chân thành, sống quên mình trong tuân
phục, tất cả những điều ấy trở nên lời chứng hùng hồn cho bối cảnh ngày nay.
Lm.
Giuse Nguyễn Xuân Quang, SDB
Trưởng
Ban Điều Hành Liên Tu Sĩ Giáo Hạt Bảo Lộc