Thần Học Về Đời Sống Tận Hiến
Bài này trình
bày văn kiện của Đức Gioan Phaolô II về Đời sống Tận hiến Vita consecrata, ban
hành ngày 25/3/1996.
Đây là một tông huấn đúc kết những thành quả của Thượng
Hội đồng Giám mục họp hội vào tháng 10-1994. Trước hết cần ôn lại sự tiến triển
của thần học về đời tận hiến từ Công đồng Vatican II, cũng như những vấn đề được
Thượng hội đồng gợi lên, để từ đó dẫn nhập vào văn kiện của Đức Gioan Phaolô
II.
A. NHẬP ĐỀ
I. Thần học về đời sống tận hiến từ Công đồng
Vatican II
Chắc là có người sẽ lấy làm chói tai nếu nghe
nói rằng Thần học về Đời sống Tận hiến mới phát triển từ Công đồng Vatican
II! Thực ra thì đời tu trì đã xuất hiện từ lâu đời trong Giáo Hội, và văn
chương tu đức không thiếu những tác phẩm viết về đời tu. Tuy nhiên, vào thời
trước công đồng, đa số những sách viết cho các tu sĩ đều mang tính cách luân lý
và giáo luật, nhằm giải thích những bó buộc của lời khấn (khi nào thì việc vi phạm lời khấn
sẽ mắc tội trọng, khi nào thì chỉ lỗi lời khuyên).
Công đồng Vatican II đã mở ra một hướng mới
cho thần học về đời tu, khi trình bày nó không phải như một bộ luật các nghĩa vụ
phải giữ, nhưng như là một lý tưởng sống. Hiến chế về Hội Thánh đã lòng đời tu
trong ơn gọi nên thánh cũng như trong chiều kích cánh chung của Giáo Hội. Sắc lệnh “Đức ái trọn hảo” (Perfectae
caritatis) phân tích bản chất
đời tu với ý niệm đi theo Đức Kitô (sequela
Christi).
Sau công đồng, thần học về đời tu chú trọng tới
ý niệm tận hiến (consecratio).
Bộ Giáo luật 1983 đã thu nhận đường hướng đó, và đã trình bày các chiều kích của
sự tận hiến ở đ.573. Nội dung phong phú của ý niệm “tận hiến” được giải thích
tường tận trong văn kiện “Những
yếu tố cốt yếu của đời tu sĩ” (năm 1983).
Song
song với sự tiến triển thần học dựa trên ý niệm “tận hiến”, người ta ghi nhận một
chiều hướng khác, dựa trên ý niệm đoàn sủng (charisma).
Khuynh hướng này cho rằng ý niệm “tận hiến” nêu bật chiều kích thần bí của đời
tu, thích hợp cho các Dòng chiệm niệm hơn là cho các Dòng hoạt động tông đồ. Mặt
khác, ý niệm “tận hiến” hướng đến một mẫu số chung cho hết các Dòng tu, với
nguy cơ là bỏ qua tính cách đa dạng của đời tu. Đối lại, ý niệm “đoàn sủng” vừa
làm nêu bật tính cách năng động truyền giáo của đời tu, vừa nhấn mạnh tới tính
chất đa dạng của các Dòng. Thêm vào đó, ý niệm “đoàn sủng” đề cao tác động của
Chúa Thánh Thần, một nhân vật thường bị thần học lãng quên. Trong bài thuyết
trình khai mạc các cuộc trao đổi ý kiến tại Thượng Hội đồng năm 1994[1], Đức Hồng y Basil Hume cho thấy rằng thần học
về “đoàn sủng” áp dụng vào đời tu đã mang lại hai sắc thái sau đây:
- Đời tu một hồng ân mà Thánh Thần ban cho
Giáo Hội và nhân loại (chiều
kích ngôn sứ)
- Mỗi Dòng nhận được một căn cước riêng cần
phải bảo vệ đoàn sủng của mỗi Dòng bao gồm một sứ mạng, một linh đạo, một nếp
sinh hoạt, những yếu tố tạo nên gia sản tinh thần của Dòng.
II. Thượng Hội đồng Giám mục năm 1994
Thượng Hội đồng các Giám mục không phải là một
diễn đàn để thảo luận các vấn đề thần học. Tuy nhiên, trong đời sống của Giáo Hội,
không thiếu lần những tư tưởng đã gây tác dụng (tích cực hay tiêu cực) không nhỏ đến sinh hoạt của Giáo Hội.
Do đó, các cuộc bàn luận mục vụ không thể nào bỏ Thần học về sự “tận hiến” đã bị
tố giác vì tính cách hàm hồ của nó. Câu hỏi như thế này: sự “tận hiến” (hay “thánh hiến”) là một hành vi của con người hay là của
Thiên Chúa? Tất cả các Kitô hữu đều đã chẳng được thánh hiến trong bí tích rửa
tội đó sao? Như vậy, sự thánh hiến của các tu sĩ có thêm cái gì mới lạ khác thường
hay không? Thêm vào đó, tư tưởng “tận hiến” ra như chỉ nhấn mạnh tới chiều kích
thiêng liêng của đời tu chứ không thúc đẩy họ tham gia vào hoạt động tông đồ.
Ngoài nền tảng đạo lý, Thượng Hội đồng đã
đương đầu với những vấn đề hoặc thách đố cụ thể của đời tu. Chúng tôi sẽ trở lại
những vấn đề này khi phân tích nội dung tông huấn của Đức Gioan Phaolô II. Ở
đây chỉ nên ghi nhận vài nét đặc sắc của hội nghị này. Ngoài số 244 nghị phụ (được cử theo quy luật chung).
Đức Thánh Cha còn chỉ định 75 dự thính viên (51
nữ và 24 nam, thuộc về các Dòng tu, tu đoàn tông đồ, tu hội đời), 9 dự
thính viên thuộc các Giáo hội ngoài Công giáo, 20 chuyên viên (12 nam và 8 nữ). Hội nghị đã
khai mạc từ ngày 2/10 và bế mạc ngày 29/10. Cũng như những lần trước, thượng hội
nghị kết thúc với một sứ điệp gửi Dân Chúa, chứ không biểu quyết văn kiện nào.
Các cuộc bản thảo được đúc kết thành 55 đề nghị (propositiones) trình lên Đức Thánh Cha. Đặc biệt, đề
nghị số 3 yêu cầu ngài xác định bản chất thần học của sự tận hiến tu trì.
Đức Gioan Phaolô II không những đã tham dự
các phiên họp của Thượng Hội đồng nhưng còn đóng góp tích cực cho thần học về đời
tu qua hai bài giảng Thánh lễ khai mạc (2/10) và bế mạc (30/10), cũng như một
loạt bài huấn giáo trong các buổi tiếp kiến chung hằng tuần từ ngày 28/9/1994
cho đến ngày 29/3/1995.
III. Tông huấn “Vita Consecrata”
Tông huấn này được ban hành ngày 25/3/1996 và
được giới thiệu cho báo chí ngày 28/3. Sau nhập đề (số 1-13), văn kiện được
chia thành 3 phần:
- Phần 1: Confessio
Trinitatis, bàn về sự tận hiến xét trong chiều kích đối thần (số 14-40)
- Phần 2: Signum
Fraternitatis, bàn về chiều kích thông hiệp của đời tận hiến (số 41-71)
- Phần 3: Servitium
Caritatis (số 72-103). Sau những lời hô hào kêu gọi, văn kiện kết thúc với
những kinh nghiệm hướng lên Chúa Ba Ngôi và Đức Maria (số 104-112)
Về cấu trúc của văn kiện, nên biết là từ “tài
liệu làm việc” (Instrumentum
laboris) cho tới bản danh mục
các đề nghị(propositiones), chúng ta đều thấy một thứ tự như nhau. Đời tận
hiến cần được nhìn dưới ba chiều kích: hướng thượng, hướng nội và hướng ngoại,
dưới ba chủ đề “Consecratio -
Communio - Missio” (Thánh hiến - Hiệp thông - Sứ mạng). Đây là một mô hình
Giáo Hội học đã trở thành quen thuộc kể từ Thượng Hội đồng Giám mục năm 1985.
Khi trình bày văn kiện cho báo chí, Đức Hồng y Martinez Somalo (Tổng trưởng Bộ Tu sĩ) còn thêm rằng 3 phần này đáp lại 3
khát vọng của thời đại mà các tu sĩ cần đáp ứng: khát vọng giá trị tinh thần;
khát vọng tình tương trợ; khát vọng bác ái vi lợi.
Văn kiện mang giọng văn của bài suy niệm và lời
khuyến khích. Trong phiên họp của Thượng Hội đồng, đã có nghị phụ yêu cầu Toà
Thánh hãy nghiêm khắc lên án những lệch lạc của các tu sĩ, nguyên nhân của sự
sa sút ơn gọi. Nhưng thay vì trách mắng, Đức Gioan Phaolô II chỉ nhẹ nhàng nhắc
tới các khó khăn thách đố của đời tu (số 2; 13), các chước cám dỗ (số 38). Ngài
muốn trình bày một viễn ảnh tích cực hơn, tạ ơn Chúa về hồng ân của đời tu,
khuyến khích các tu sĩ hãy can đảm nhìn về tương lai (số 2; 13). Đặc biệt ngài
đã trình bày vẻ đẹp (pulchritudo) của đời tu, và đây là một khía cạnh mới, lấy
từ thần học Đông phương, được tiêu biểu với nhà thần học Simeon (949-1022)
trích dẫn ở số 20. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp
(philocalia: số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt
rạng rỡ của Ngài (số 27), và đồng thời cố gắng tu bổ hình ảnh của Thiên Chúa đã
bị méo mó trên khuôn mặt của bao anh chị em đồng loại (số 75). Những ý tưởng vừa
nói được quảng diễn khi chiêm ngắm quang cảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi. Bức
tranh này được đặt làm sườn cho cả văn kiện (số 15), biến nó thành một cuộc đàm
đạo thiêng liêng, với những đề tài như là “lắng
nghe tiếng Chúa, ở kề bên Chúa”, cũng như những đề tài liên quan tới sứ vụ
truyền giáo. Thực vậy, liền sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa biến hình, các môn
đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75): họ còn phải trèo lên một núi
khác nữa, tức là núi Calvariô (số 14; 40). Đức Kitô cần phải qua núi Calvariô để
vào vinh quang thiên quốc. Trước đây, đời tu trì quen được ví với việc khắc kỷ
tu thân, vác thập giá để đi theo Chúa. Nhưng đó chỉ mới là cái nhìn của truyền
thống Latinh; còn truyền thống Đông phương thì muốn nêu bật sự biến dạng đổi
hình (Transfiguratio), từ
con người phàm tục sang con người thần thiêng khi đi theo Chúa. Đức Gioan
Phaolô II đã kết hợp cả hai cái nhìn về đời tu trong quang cảnh Chúa biến hình:
chủ để thập giá và vinh quang gắn liền với nhau trong mầu nhiệm Vượt qua của Đức
Kitô.
Nói chung văn kiện này mang hình thức của một
bài suy niệm, đặc biệt là ở phần thứ nhất. Dĩ nhiên, người đọc cần phải hòa đồng
vào bầu khí đó thì mới nhận ra được vẻ phong phú của nó.
B. CHIỀU KÍCH HƯỚNG THƯỢNG CỦA ĐỜI SỐNG TẬN
HIẾN
Tông huấn “Đời sống Thánh hiến” của Đức Gioan
Phaolô II được chia làm 3 phần, tương ứng với 3 chiều kích: hướng thượng, hướng
nội và hướng ngoại. Chương thứ nhất, mang tựa đề là “Confessio Triniatis” (tuyên xưng Ba Ngôi) là một chương phong phú nhất xét về thần
học đời tu. Xin tóm lại trong 3 điểm:
- Bản chất của đời thánh hiến
- Các khía cạnh của đời thánh hiến
- Giá trị của ba lời khuyên Phúc Âm
I. Bản chất của đời thánh hiến
Trên đây, chúng tôi đã tóm lại sự tiến triển
của thần học đời tu từ Công đồng Vatican II đến nay. Công đồng trình bày bản chất
đời tu, với ý niệm đi theo Đức Kitô (Sequela
Christi). Thần học sau công đồng dần dần phát triển thêm các ý niệm tận hiến (Consecratio) và đoàn sủng (Charisma). Trong thời gian họp
Thượng Hội đồng Giám mục (1994) đã có nhiều vấn nạn được nêu lên chung quanh từ
ngữ “tận hiến”:
- Tận hiến (hay
thánh hiến) là gì?
Nó là một hành vi của Thiên Chúa hay là của
con người? Sự thánh hiến của các tu sĩ có gì khác với sự thánh hiến của các tín
hữu trong Bí tích Thánh Tẩy hay không? Sự thánh hiến của đời tu là con đẻ của lịch
sử hay là nằm trong bản tính của Giáo Hội? Câu hỏi cuối cùng được đặt ra bởi vì
theo các học giả, đời tu trì xuất hiện vào thế kỷ thứ 3-4; như vậy nó thành
hình do hoàn cảnh lịch sử, chứ không nằm trong ý định của Đức Kitô khi thành lập
Giáo Hội. Thượng Hội đồng đã không nhất trí tìm ra câu giải đáp cho các vấn nạn
vừa nêu, và đã xin Đức Thánh Cha giải quyết khi soạn tông huấn (x. đề nghị số 3).
Đặt trong bối cảnh ấy, Tông huấn đã đánh dấu
một bước tiến trong thần học về đời tu, bởi vì đã tìm ra những chìa khóa để trả
lời cho các vấn nạn được Thượng Hội đồng Giám mục nêu lên. Tông huấn lấy lại ý
niệm “đi theo Đức Kitô” của Công đồng Vatican II và mở rộng đến
tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa: nội dung súc tích của sự thánh hiến được biểu
lộ khi đối chiếu với tác động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
1/. Xét trong tương quan với Thiên Chúa, sự
thánh hiến là một hồng ân phát xuất từ tình yêu của Chúa: Ngài đã kêu gọi con
người hãy tiến lên trên đường trọn lành qua việc đi theo Đức Kitô. Ơn kêu gọi
bao hàm sự tuyển chọn và thánh hiến. Khi đã nhận ra tiếng gọi đó, con người muốn
đáp lại bằng việc dâng hiến toàn thân cho tình yêu. Sự tận hiến ra trong khung
cảnh của giao ước tình yêu.
2/. Xét trong tương quan với Đức Kitô, tu sĩ
muốn họa lại nếp sống của Ngài, nếp sống hoàn toàn để phục vụ Thiên Chúa và tha
nhân.
Xét trong tương quan với Thánh Thần, đời tu
là một ân huệ do Ngài đã khêu gợi lên. Đành rằng tất cả các Kitô hữu đều đã được
thánh hiến cho Thiên Chúa qua Bí tích Rửa Tội, nhưng không phải tất cả các tín
hữu đều được kêu gọi để sống khiết tịnh, khó nghèo, vâng lời giống như Đức
Kitô. Cần có một ơn gọi đặc biệt để phát triển tất cả tiềm năng của ơn gọi Kitô
hữu. Vì lý do đó mà sự thánh hiến tu trì khác với sự thánh hiến của Bí tích Rửa
Tội: nó giả thiết một ơn gọi khác (số 30).
Tiện đây nên ghi nhận rằng Chúa Thánh Thần được
tông huấn nhắc đến ở rất nhiều nơi: Ngài đã ban ơn thúc giục các tín hữu đi
theo Đức Kitô; Ngài đã khêu gợi lên các đặc sủng khác nhau qua các vị Sáng lập
Dòng (số 5; 48); ngài là nguyên ủy của sự thông hiệp cộng đoàn (cố 41); ngài là
động lực của đức ái thúc đẩy các tu sĩ ra đi phục vụ nhân loại (số 73).
Nếu hiểu rằng bản chất của đời tu hệ tại việc
họa lại nếp sống của Đức Kitô, thì cần phải nhận rằng đời tu gắn liền với bản
chất của Hội Thánh (số 3). Hội Thánh có nhiệm vụ thông truyền Đức Kitô cho nhân
loại, không phải chỉ thông truyền những lời giảng của Ngài mà thôi nhưng còn phải
thông truyền cả nếp sống của Ngài nữa. Vì vậy, tuy dù các hình thức, tu trì có
biến đổi theo bản tính (họa lại
nếp sống của Đức Kitô) gắn chặt
với sức sống của Hội Thánh: nếu thiếu đời tận hiến thì Hội Thánh sẽ chỉ là hình
hài thoi thóp, bởi vì sẽ chỉ là một tổ chức xã hội như bao tổ chức nhân loại
khác, khi không còn được trang điểm bởi các nhân đức thánh thiện nữa. Chính vì
đời sống tận hiến làm hiển hiện nếp sống cụ thể của Đức Kitô trong Hội Thánh (số
32). Nói như thế không có nghĩa là hạ giá các giáo sĩ hay các giáo dân. Mỗi bậc
sống có một sứ mạng riêng, và cần được bổ túc cho nhau trong việc kiến tạo Giáo
Hội: các giáo sĩ bằng việc giảng Lời Chúa, cử hành bí tích, điều hành cộng
đoàn; các giáo dân bằng việc đem các giá trị Phúc âm vào các thực tại trần thế;
các phần tử đời tận hiến bằng chính đời sống thánh thiện (số 33).
II. Các khía cạnh của đời thánh hiến
Có thể vạch ra ít là 6 khía cạnh của đời
thánh hiến; Kitô, Tam vị, Giáo hội, Truyền giáo, Cánh chung, Maria.
1/. Kitô
Đây là khía cạnh được quảng diễn rộng hơn cả.
Từ chỗ đi theo Đức Kitô (số 15; 18), họa lại nếp sống của Ngài, đời tận hiến tiến
tới chỗ “đồng hóa hiện thân” (số 16: assimilatio conformativa) với Ngài. Ngoài
việc họa lại nếp sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục của Đức Kitô, đời
thánh hiến còn diễn tả mầu nhiệm thập giá và phục sinh của ngài nữa (số
23-24).
2/. Tam vị
Sự hòa đồng với nếp sống của Đức Kitô đương
nhiên bao hàm tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa: Đức Kitô sống trọn tình con thảo
với Chúa Cha. Khía cạnh tam vị của đời tận hiến được quảng diễn cách riêng khi
bàn tới các giá trị của các lời khuyên Phúc âm (số 21), của đoàn sủng (số 36)
và sự thông hiệp cộng đoàn (số 41). Trước khi kết thúc văn kiện, một kinh nguyện
đã được dâng lên Ba Ngôi (số 111).
3/. Giáo Hội
Đời thánh hiến nằm trong bản chất thánh thiện
của Giáo Hội. Giáo Hội có sứ mạng chuyển thông Đức Kitô cho nhân loại; nhưng Đức
Kitô không thể chỉ được chuyển thông bằng ý niệm nhưng còn bằng cả lối sống nữa
(số 3; 29). Ngoài ra, đời thánh hiến biểu lộ mối tình chung thủy của Giáo Hội
dành cho Đức Kitô, hôn phu của mình (số 34).
4/. Truyền giáo (số 25) và cánh chung
(số 26)
Việc họa lại nếp sống của Đức Kitô đương
nhiên cũng kèm theo việc họa lại trót tâm tình của ngài, tận hiến cho việc phục
vụ Nước Thiên Chúa (số 18; 22; 25; 27; 72). Phần thứ ba của tông huấn được dành
cho đề tài này. Đời tận hiến loan truyền và thể hiện Phúc Âm sống động (số 25).
Đời tận hiến tiên báo các thực tại cánh chung của Nước Chúa (số 27; 32).
5/. Maria
Đức Maria được trình bày như mẫu gương của đời
thánh hiến (số 28):
- Mẫu gương trong việc đáp lại tiếng Chúa gọi
- Mẫu gương trong việc đi theo Chúa
- Mẫu gương trong việc thông dự vào mầu nhiệm
Vượt qua (số 23)
- Mẫu gương cho tình yêu phong nhiêu (số 34)
Ngoài ra, Đức Maria còn là mẹ của các người tận
hiến, cầu bầu cho họ trung thành với ơn gọi. Tông thư đã kết thúc với lời nguyện
dâng lên Đức Maria (số 112).
III. Giá trị của 3 lời khuyên Phúc Âm
Tông thư đã trình bày 3 lời khuyên Phúc Âm được
nhìn dưới nhiều khía cạnh. Tiên vàn 3 lời khuyên nhằm họa lại nếp sống của Đức
Kitô (số 18). Từ đó, tông thư khai triển các giá trị phong phú của 3 lời
khuyên, khi đặt trong mối tương quan với Ba Ngôi (giá trị tuyên xưng), khi đối
chiếu với các khuynh hướng nhân bản (giá
trị giải phóng).
1/. Ba lời khuyên Phúc Âm mang giá trị tuyên
xưng Đức Kitô trong tương quan với Chúa Cha (số 16):
- Sự khiết tịnh bắt chước tình yêu thanh khiết
của Đức Kitô, và tuyên xưng Ngài là Con một, hoàn toàn hợp nhất với Chúa Cha.
- Sự khó nghèo tuyên xưng Đức Kitô là Con,
lãnh nhận hết mọi sự từ Chúa Cha.
- Sự vâng phục tuyên xưng Đức Kitô là Con rất
yêu dấu của Chúa Cha, tìm hết cách để làm vui lòng Cha.
Ba lời khuyên Phúc Âm còn là biểu lộ tình yêu
của Chúa Con đối với Cha trong sự hợp nhất của Thánh Thần (số 21).
- Sự khiết tịnh phản ảnh tình yêu liên kết Ba
Ngôi Thiên Chúa, tình yêu mà Chúa Cha đã tỏ ra khi ban Con mình cho nhân loại;
tình yêu được Thánh Thần đổ xuống tâm hồn ta.
- Sự khó nghèo tuyên xưng sự giàu sang tuyệt đối
của Thiên Chúa, Đấng đã phân phát dồi dào các hồng ân của Ngài cho vạn vật cho
tới mức hủy diệt mình vì chúng.
- Sự vâng lời tuyên xưng tình yêu hỗ tương giữa
Ba Ngôi, một sự vâng phục hiếu thảo chứ không phải nô lệ.
2/. Ba lời khuyên Phúc Âm thăng tiến các
khuynh hướng tự nhiên của con người, gắn liền với phái tính, chiếm hữu tài sản
và tự do tự quyết (số 87-92).
Sự khiết tịnh nêu bật giá trị của tình yêu
trao hiến. Sự khó nghèo mở rộng con tim đến tình liên đới chia sẻ với những
thành phần xấu số trong xã hội. Sự vâng lời cho thấy thế nào là sự tự do đích
thực: tự do được hướng dẫn bởi chân lý.
Trên đây là sơ lược những nét chính của thần
học về đời tu. Đức Gioan Phaolô II đã trình bày chúng khi chiêm ngắm quang cảnh
Đức Kitô biến hình trên núi, để cho thấy tất cả vẻ đẹp của nó. Việc chiêm ngắm
đó đưa tới những hệ luận cho cuộc sống: cố gắng sống cho xứng với lý tưởng đồng
hóa với Đức Kitô, cách riêng trong tâm tình tri ân hiếu thảo với Chúa Cha, cũng
như trong tâm tình phục vụ đến mức trao hiến mạng sống.
C. CHIỀU KÍCH HƯỚNG MỘI CỦA ĐỜI SỐNG TẬN HIẾN
Chương thứ hai của tông huấn “Vita
Consecrata” mang tựa đề là “Signum Fratemitatis” (dấu chỉ của tình huynh đệ),
bàn về chiều kích hướng nội của đời sống tận hiến. Đời sống tận hiến bắt nguồn
từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính khi chiêm niệm nguồn gốc của mình, các phần tử tận
hiến cũng tìm thấy một mô hình kiểu mẫu để tổ chức đời sống cộng đoàn của mình:
mô hình thông hiệp và huynh đệ (số 41). Từ đó, đời sống tận hiến trở thành dấu
chỉ của sự thông hiệp của Giáo hội (số 42) và trở thành men bột để phát triển
tình huynh đệ đại đồng của nhân loại, mục tiêu của công cuộc truyền giáo (số
47).
Trong chương hai, tông huấn đề cập đến những
cấp độ khác nhau của sự thông hiệp:
- Thông hiệp huynh đệ trong cộng đoàn (số
42-45);
- Thông hiệp với Giáo Hội toàn cầu cũng như
Giáo hội địa phương (số 46-51);
- Thông hiệp giữa các dòng tu với nhau (số
52-53);
- Thông hiệp với các giáo dân (số
54-56).
Bên cạnh những giá trị có tính cách hằng cửu,
tông huấn bàn đến một vài vấn đề cụ thể mà Thượng Hội đồng các Giám mục năm
1994 đã nêu ra. Một cách cụ thể hơn, có 3 vấn đề mà chính thức Đức Gioan Phaolô
II cho biết là sẽ thiết lập ủy ban để cứu xét, đó là:
- Nội vi của các dòng kín (số 59)
- Các tu sĩ không có chức thánh có thể làm bề
trên trong các Dòng hỗn hợp (số 61)
- Các hình thức tu trì mới chẳng hạn như mở rộng
cho những người đã lập gia đình (số 62)
- Phần chót của chương hai bàn về việc tuyển
mộ ơn gọi và đào tạo (số 63-71)
Xét vì các vấn đề quá nhiều và phức tạp, nên
tông huấn quy chiếu về những văn kiện của Toà Thánh đã ban hành trước đây, đặc
biệt là 3 văn kiện sau:
1/. Về đời sống huynh đệ, Vita fraterna in communitate,
do bộ tu sĩ ban hành ngày 2-2-1994
2/. Về tương quan giữa các giám mục và tu sĩ, Mutuae relationes, do Bộ Giám mục
và Bộ Tu sĩ đồng ban hành ngày 14-5-1978
3/. Về việc đào tạo, Potissimum insitutioni, do Bộ
Tu sĩ ban hành ngày 2-2-1990
Chúng ta hãy rảo qua nội dung của chương hai,
tóm lại trong hai mục chính: những cấp độ thông hiệp và việc đào tạo.
I. Những cấp độ thông hiệp
Như đã nói, mẫu mực của sự thông hiệp là Ba
Ngôi Thiên Chúa (số 41). Sự thông hiệp của các phần tử tận hiến cũng còn có giá
trị tuyên xưng Ba Ngôi nữa: tuyên xưng Chúa Cha muốn quy tụ hết mọi người vào một
gia đình; tuyên xưng Chúa Con đã nhập thể để thu thập những người lạc lối về
làm một; tuyên xưng Thánh Thần là nguyên ủy của sự hiệp nhất của Giáo Hội (số
21). Ngoài mẫu mực từ Chúa Ba Ngôi, tông huấn còn trình bày một mẫu mực khác từ
cộng đoàn các Kitô hữu ở Giêrusalem (số 45; xc. 41). Cảm hứng từ những khuôn mẫu
đó, đời sống tận hiến muốn họa lại và xây dựng các cấp độ thông hiệp giữa các
phần tử trong cộng đoàn, rồi từ đó mở rộng ra tới cộng đoàn Giáo Hội và xã hội
nhân loại.
1/. Đời sống huynh đệ
Văn kiện của Bộ Tu sĩ năm 1994 (số 3) đã ghi
nhận sự khác biệt giữa đời sống
huynh đệ (Vita frate) và đời sống chung (Vita in conmmuni): đời sống huynh
đệ là cái hồn, biểu lộ của tình yêu thương, đời sống chung là cái xác, nhằm bảo
vệ và phát triển cái hồn. Luật lệ có thể truyền buộc tuân giữ đời sống chung (tham gia vào sinh hoạt cộng đoàn);
nhưng chưa đủ để tạo ra đời sống huynh đệ. Sự phân biệt này được lặp lại ở số
42; xét về mặt pháp lý, chỉ có các phần tử của các dòng tu và của các tu đoàn
tông đồ mới buộc phải giữ đời sống chung; còn đời sống huynh đệ là một yêu sách
của hết các người tận hiến (dù
là thành viên tu hội đời). Những yếu tố xây dựng đời sống huynh đệ là Lời
Chúa, Bí tích Thánh Thể và hòa giải, sự cầu nguyện, đoàn sủng của dòng, công hội
các bề trên cũng có vai trò then chốt để xây dựng sự thông hiệp cộng đoàn (số
43). Số 44 dành cho những phần tử yếu đau già lão, một thực tại của nhiều cộng
đoàn hiện nay bên Âu Mỹ.
2/. Sự thông hiệp trong Giáo Hội
Đời sống tận hiến gắn chặt với bản tính của
Giáo Hội; vì vậy mà các phần tử của đời tận hiến cũng cần cảm thấy gắn bó với
Giáo Hội[2]. Trong mối tương quan của đời tận
hiến với Giáo Hội, tông thư bàn tới hai cấp độ:
- Giáo Hội toàn cầu
- Giáo Hội địa phương
Mối tương quan với Giáo Hội toàn cầu được biểu
lộ qua sự thông hiệp với Toà Thánh, và qua việc phục vụ các miền truyền giáo
trên toàn thế giới (số 47). Mối tương quan với Giáo Hội địa phương được xét dưới
nhiều khía cạnh.
- Tương quan giữa các tu sĩ với các giám mục.
Ngoài việc quy chiếu về Văn kiện “Mutuae relationes”, Tông huấn đưa ra vài đề
nghị cụ thể: sự hiện diện của đại biểu các bề trên dòng tu cạnh Hội đồng Giám mục;
và sự hiện diện của đại diện Hội đồng Giám mục cạnh Hiệp hội các Bề trên Thượng
cấp (số 50). Sự đối thọai không chỉ dừng lại ở cấp độ quốc gia, nhưng còn phải
tiếp nối ở cấp độ giáo phận, đặc biệt là trong việc phối hợp các kế họach tông
đồ. Giám mục không được phép cưỡng bách một dòng tu phải đảm nhận một công tác
trái ngược với đặc sủng của họ; đối lại, một dòng tu cũng không được phép nại tới
đặc ân miễn trừ để không cần đếm xỉa tới các kế họach tông đồ của giáo phận.
- Tương quan giữa các dòng tu (số 52-53). Sự
thông hiệp khởi đầu từ những dòng có cùng một linh đạo cần tiến tới hết tất cả
các dòng, trong việc giúp nhau thi hành ơn gọi tận hiến. Sự hợp tác có thể diễn
ra nhiều cách: qua các cơ quan (Hiệp
hội các Bề trên Thượng cấp), qua việc tổ chức các cơ sở đào tạo, qua việc
thông tin chia sẻ để nâng đỡ tinh thần trong những hoàn cảnh khó khăn của đất
nước.
- Tương quan giữa các tu sĩ và các giáo dân
(số 54-56). Sự hợp tác có thể diễn ra trong nhiều lĩnh vực: hợp tác trong các
công tác tông đồ: chia sẻ về tu đức linh đạo.
II. Công cuộc đào tạo
Sau khi đã nói tới việc cầu nguyện và tuyển mộ
ơn gọi (số 64), tông huấn đã dành các số 65-71 cho công cuộc đào tạo. Các chi
tiết đã được mô tả trong văn kiện của Bộ Tu sĩ “Potissimum institutioni” ban hành năm 1990. Ở đây chỉ cần ghi
nhận vài nét chính.
- Mỗi dòng tu cần phải soạn thảo một
chương trình đào tạo (số 68). Ngoài ra, cần phải để ý tới việc huấn luyện các
huấn luyện viên nữa (số 66).
- Sự đào tạo được hướng dẫn bởi hai tiêu chuẩn
chính: trung thành với ơn gọi tận hiến, trung thành với đặc sủng của dòng (số
65; 71). Vì vậy sự đào tạo bao hàm nhiều khía cạnh: nhân bản, đạo đức, tri thức,
chuyên nghiệp. Cách riêng số 98 đã khuyến khích các tu sĩ hãy chuyên cần học
hành. Sự học hành không những trau dồi kiến thức mà còn là phương thế khổ chế nữa.
- Sự đào tạo kéo dài suốt đời. Tiếp theo sựd
đào tạo khởi thủy (hướng tới
việc nhận ra ơn gọi và dấn thân vĩnh viễn trong Dòng tu) là sự đào tạo liên tục, cần được nhấn
mạnh vào những thời điểm thường gây ra khủng hoảng, được kể ra ở số 70: những
năm đầu va chạm với thực tế: khi công việc trở thành máy móc: khi bản lĩnh đồng
nghãi với ích kỷ: khi rút lui về hưu dưỡng: lúc sắp tạ thế.
Tạm Kết: Những vấn đề linh tinh
Có 3 vấn đề được trao cho ủy ban cứu
xét.
1/. Nội vi của các dòng kín (số 59). Có lẽ vấn
đề được đặt ra không phải là cho phép các chị dễ đi ra cho bằng là cho phép người
ngoài để đi vào. Nói cách khác, có nên để cho các chị nhà kín cũng được đảm nhận
vài công tác tông đồ: mở trường học, trung tâm cấm phòng tại tu viện…
2/. Trong những dòng “hỗn hợp” (Instituta
mixta, số 61), nghĩa là gồm bởi những tu sĩ không có chức thánh. Theo Giáo luật
hiện hành, chỉ có những ai có chức thánh mới có thể nắm quyền cai quản. Vài
dòng đã yêu cầu cho hết tất cả mọi người, bất luận có chức thánh hay không,
cũng đều có thể làm bề trên. Nên biết là vấn đề chỉ được đặt ra cho các dòng hỗn
hợp theo nghĩa chặt, nghĩa là vào hồi nguyên thủy chưa có sự phân biệt giữa tu
sĩ và giáo sĩ (thí dụ: Dòng Biển Đức, Phan Sinh). Còn những dòng nào đã được định
nghĩa là “tu huynh” (frères, thí dụ Dòng Bệnh viện, Sự huynh Lasan) hoặc “giáo
sĩ” (Dòng Đaminh, Dòng Tên) thì khác (số 60).
3/. Những hình thức tu trì mới (số 62). Đừng
kể những tu viện “kép” (nam nữ
ở cạnh nhau), có nơi còn thâu nhận cả những phần tử đã lập gia đình vào tu
nữa.
Riêng về mối tương quan giữa giáo dân với các
tu sĩ, thiết tưởng không nên bỏ qua những gợi ý ở các số 54-55. Trước đây, chỉ
có những dòng cổ (chẳng hạn: Biển Đức, Phan Sinh, Đa Minh, Cát Minh) mới có
dòng ba; nhưng gần đây nhiều dòng mới lập cũng có những hiệp hội tương tự giành
cho những giáo dân muốn chia sẻ linh đạo của mình. Hơn thế nữa, có những dòng
còn chấp nhận cho những giáo dân thiện nguyện được kết nạp một thời gian, và
cũng được tham gia vào các hoạt động của dòng.
Sau cùng, một câu chuyện khá sô nổi trong thời
gian họp Thượng Hội đồng là vai trò của nữ giới. Tông thư đã dành hai số 57-58
để tri ân các phụ nữ, cũng như mời gọi họ đào sâu thêm thiên chức của mình, tựa
như: dấu chỉ của khuôn mặt dịu dàng âu yếm của Thiên Chúa, dấu chỉ của Giáo Hội
vừa trinh khiết vừa hôn thê và mẹ. Bao nhiêu môi trường đang chờ đợi sự góp phần
của các nữ tu: rao giảng Tin Mừng, giáo dục thanh thiếu niên, đào tạo chủng
sinh và tu sĩ, linh hoạt các cộng đoàn tín hữu, linh hướng, thăng tiến nhân phẩm,
bảo vệ sự sống và hòa bình.
D. CHIỀU KÍCH HƯỚNG NGOẠI CỦA ĐỜI SỐNG TẬN HIẾN
Chương 3 của Tông huấn “Vita Consecrata”,
mang tựa đề Servitium caritatis (Phục
vụ Bác ái). Có thể coi đấy như chiều kích hướng ngoại của đời tận hiến tham
gia vào sứ mạng của Giáo Hội.
I. Tận hiến và sứ mạng
Từ sau Công đồng Vatican II, thần học về đời
tu chia ra hai khuynh hướng chính.
- Một khuynh hướng muốn nhấn mạnh tới chiều
kích hướng thượng và định nghĩa đời tu như là sự tận hiến cho Thiên Chúa. Đời
tu không phải được đánh giá qua những công tác tông đồ cho bằng qua tình yêu
dâng hiến.
- Khuynh hướng thứ hai thì cho rằng ý niệm tận
hiến chỉ đúng cho các dòng đan tu chiêm niệm, chứ không áp dụng cho các dòng
tông đồ; đa số những dòng này được thành lập nhằm để thi hành một công tác bác
ái nào đó (từ mục vụ giáo xứ,
truyền giáo cho tới việc giáo dục thanh niên hoặc săn sóc bệnh nhân, người
nghèo…). Theo khuynh hướng này, căn cước của đời tu được biểu lộ qua “sứ mạng”
(missio) hay “đặc sủng” (charisma) của mỗi dòng.
Xem ra Đức Gioan Phaolô II nghiêng về khuynh
hướng thứ nhất, bởi vì đã dùng ý niệm “tận hiến” để định nghĩa căn cước của đời
tu (Vita consecrata). Trên thực tế, tông huấn đã muốn gắn chặt hai khía cạnh “tận
hiến” và “sứ mạng” với nhau. Sự tận hiến bao hàm sứ mạng: việc hòa đồng với nếp
sống của Đức Kitô cũng kèm theo việc tham gia vào sứ mạng của ngài. Đức Kitô đã
được Chúa Cha thánh hiến và sai đến trần gian (Ga 10,36) để mặc khải tình yêu của
Thiên Chúa cho nhân loại. Mặt khác, chính đời sống tận hiến cho Thiên Chúa là một
công việc truyền giáo hùng hồn hơn cả, bởi vì không những nó trình bày cho thế
giới một bằng chứng của Phúc Âm diễn tả thành cuộc sống, nhưng nó còn biểu lộ
thành quả ưu tú nhất của công cuộc truyền giáo, đó là con tim đã được Đức Kitô
chiếm đoạt trọn vẹn (số 25). Đời sống huynh đệ cũng là một hậu quả của sự thông
hiệp hòa giải của ơn cứu chuộc, khi mà những con người với cá tính khác biệt đã
biết đối xử với nhau như anh em vui sống êm ấm một nhà (số 72).
Nhận xét tổng quát vừa kể đưa tới hia hệ luận
sau đây:
Thứ nhất, tất cả
các tu sĩ đều có nhiệm vụ tham gia vào công cuộc truyền giáo (kể cả các dòng
kín), bởi vì tất cả các tu sĩ đều muốn đi theo Đức Kitô trong việc mang tình
yêu của Chúa đến cho nhân loại.
Thứ hai, tất cả các tu sĩ cần thâm tín rằng
công tác truyền giáo độc đáo nhất của họ là chính việc sống 3 lời khuyên Phúc
Âm, bởi vì nhờ đó mà cuộc đời của Đức Kitô được truyền bá không phải như là những
hàng chữ chết mà đã trở nên hiện thực.
Khi muốn diễn tả chiều kích hướng ngoại của đời
tận hiến, tông huấn đã sử dụng những ý niệm: sứ mạng (missio), dấu chỉ
(signum), chứng tá (testis), ngôn sứ (vaticinium, indoles prophetica) xc. số
15; 25; 35; 73; 84.
Sau khi bàn đến sứ mạng của đời tận hiến nói
chung, tông huấn bước sang các hình thức đặc thù của các hoạt động của mỗi Dòng
tùy theo đặc sủng của họ. Danh từ “đặc sủng” (Charisma) được nhắc đi nhắc lại
nhiều lần trong những bối cảnh khác nhau, chẳng hạn như khi nói tới sự đa dạng
của đời tu (số 5b; 19; 32), chiều kích Ba Ngôi (số 36), việc đào tạo (số 68),
linh đạo (số 37; 93), tổ chức nội bộ và hoạt động tông đồ (số 48; 63; 72), hội
nhập văn hóa (số 80). Mỗi Dòng cần phải biết trung thành bảo vệ đặc sủng của
mình (số 36); sự trung thành không đồng nghĩa với bảo cổ, nhưng là “trung thành
sáng tạo” (fidelitas efficiens, actuosa, số 37; 74) biết đáp ứng với những đòi
hỏi của thời đại. Chúng ta không thể tự mãn với lịch sử đã qua nhưng còn phải
viết lên những trang sử mới (số 110).
Riêng về các hình thức tu trì và hoạt động
tông đồ, chúng ta thấy có những sự phân loại đại cương như sau:
1/. Xét theo dòng lịch sử (từ số 5-11): đan
tu, hành trình nữ, ẩn sĩ, goá bụa; dòng thuần tuý chiêm niệm; dòng tông đồ, tu
hội đời, tu đoàn tông đồ.
2/. Xét theo những hình thức phục vụ bác ái
(số 32); các tu sĩ sống đời chiêm niệm họa lại Đức Kitô cầu nguyện trên núi;
các tu sĩ hoạt động bày tỏ Đức Kitô loan báo Nước Trời cho đám đông, hoặc chữa
lành những kẻ thương tích bệnh tật và giúp các tội nhân đổi mới cuộc đời, chúc
lành các nhi đồng, làm việc từ thiện cho hết mọi người; các thành viên tu hội đời
muốn tiêm nhiễm tinh thần Phúc Âm vào thực tại trần thế.
II. Vài vấn đề khẩn trương
Nguồn gốc của đời tận hiến nói chung và của từng
dòng nói riêng là một hồng ân mà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội. Vì thế, Giáo
Hội và các dòng cần phải biết bảo tồn hồng ân đó. Mặt khác, Thánh Thần vẫn còn
tiếp tục tác động trong dòng lịch sử. Việc trung thành với Thánh Thần đòi hỏi cả
việc trung thành nhận ra tiếng gọi của Ngài hôm nay, qua những dấu chỉ thời đại
hoặc những thách đố (số 73). Thực ra, điều này đòi hỏi sự phán đoán siêu nhiên (iudicium, tiếng Ý: discernimento),
bởi vì không thể nào đồng hóa “dấu chỉ” với “mốt” của thời đại; lắm lần thời
trang là con đẻ của tinh thần thế gian chứ không phải của tinh thần tận hiến.
Các tu sĩ cần thâm tín rằng việc sống theo 3 lời khuyên Phúc Âm trái ngược với
não trạng của thế gian, ham chuộng khóai lạc, hưởng thụ, bóc lột (số 87-92). Đời
tu cần được hội nhập vào văn hóa, nhưng đồng thời cũng cần phải tiêm nhiễm văn
hóa của Phúc Âm (số 98).
Trong những môi trường khẩn trương đang thách
đố sự dấn thân của các tu sĩ, Đức Gioan Phaolô II đã liệt kê: việc truyền giáo
cho lương dân (số 76-78); việc hội nhập văn hóa (số 79-80); phục vụ người nghèo
và những thành phần bị bỏ rơi (số 82); săn sóc các bệnh nhân (số 83); giáo dục
(số 96-97); truyền thông xa hội (số 99), đối thọai đại kết (số 100-101); đối thọai
liên tôn (số 102).
III. Từ sứ mạng đến tận hiến
Tông huấn “Vita Consecrata” đi từ đề tài “tận
hiến” ở chương một để phát triển sang đề tài “sứ mạng” ở chương ba. Như đa nói
trên đây, hai đề tài đó gắn liền với nhau. Để kết luận, ta có thể nói rằng đề
tài sứ mạng lại dẫn về đề tài tận hiến. Lý do dễ hiểu: nếu thiếu đời sống nội
tâm phong phú, thì bao nhiêu công tác tông đồ sẽ chẳng mang lại kết quả gì hết
(số 84). Hơn thế nữa, công tác tông đồ quan trọng hơn cả mà giáo hội mong đợi
nơi các tu sĩ và chứng tá của sự thánh thiện (số 33-35). Vì thế, không lạ gì,
chính trong phần cuối của tông thư, Đức Gioan Phaolô II đã đề cập tới “linh đạo”
của đời tận hiến. Ở số 93, linh đạo được định nghĩa cách tổng quát như là đời sống
tinh thần (Vita Spiritalis),
nghĩa là sống theo hướng dẫn của Thánh Thần để đồng hóa sát với Đức Kitô hơn và
yêu mến phục Giáo Hội hơn. Theo nghĩa chặt, linh đạo của một dòng (Modus Singularis Spiritalitatis) được coi như là một chương trình cụ thể
về tương quan với Thiên Chúa và khung cảnh, chú trọng tới vài nét cá biệt về đạo
đức hay hoạt động.
Thực ra, linh đạo của đời tận hiến đã được
trình bày trong suốt văn kiện, ngay từ những trang đầu tiên. Linh đạo ấy được
diễn tả với nhiều đặc trưng:
- Linh đạo tận hiến (số 3), nghĩa là thuộc trọn
về Chúa, với tình yêu không chia sẻ, tựa như hiến lễ toàn thiêu (số 17). Tình
yêu dâng hiến đáp lại tình yêu tuyển chọn của Thiên Chúa, và diễn ra tình yêu
dành cho tha nhân.
- Linh đạo biến hình đổi dạng với Đức Kitô (số
14: christiformis), đồng hóa với Đức Kitô (số 16: conformation), với tâm tình,
nếp sống và hoạt động của Ngài: linh đạo của các chân phúc (số 33).
- Linh đạo thông hiệp, huynh đệ (số 46: 51).
- Linh đạo tông đồ (hành động), nghĩa là
“nhìn Chúa trong hết mọi sự và nhìn hết mọi sự trong Chúa” (số 74): linh đạo của
ngôn sứ, từ cảm nghiệm mật thiết với Chúa đến chỗ trở thành tiếng nói của Chúa
(số 84-85).
- Linh đạo phục vụ (số 75), trao hiến tất cả,
không dè sẻn, bất vụ lợi, theo gương cô Maria Bêtania (số 104), theo gương các
anh hùng tử đạo (số 86).
Đức Gioan Phaolô II không dừng lại ở những lời
hay ý đẹp. Ngay từ chương thứ nhất, ngài đã nhắc nhở các tu sĩ về con đường phải
đi để có thể biến hình với Chúa, đó là sự cầu nguyện và từ bỏ mình, chiến đấu với
các chước cám dỗ, trong đó phải kể cả chước cám dỗ đi tìm hiệu quả việc làm dựa
trên tiêu chuẩn của thế gian (số 38). Sang chương 3, tông huấn đi sâu hơn vào
những phương thế giúp cho đường thiêng liêng được tăng trưởng: lắng nghe Lời
Chúa (số 94), cử hành phụng vụ và các bí tích (số 95), nếp sống khiêm tốn đạo bạc
(số 82), thống hối và cải hóan (số 103).
Kết luận
Ngay từ đầu (số 2), ra như Đức Gioan Phaolô
II đã muốn cho thấy cung giọng của tông huấn là một bài ca tạ ơn Thiên Chúa vì
hồng ân của đời sống thánh hiến ban cho Giáo Hội. Dù nhận biết rằng đời tu trì
đang trải qua cơn khủng hoảng, nhưng mà thay vì trách móc thì tông huấn muốn
thôi thúc hy vọng hướng về tương lai (số 13). Vào cuối văn kiện (số 109-100), Đức
Thánh Cha mời các tu sĩ hãy hợp giọng trong bài ca ấy, bằng cách để cho hồng ân
của Chúa chiếu rực trong cuộc đời của mình, làm sao cho nhân loại thấy họ biến
hình, nghĩa là có thể nhận thấy Đức Kitô nơi khuôn mặt và cuộc sống của họ.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
catechesis.net
---------------------------
[1] Relatio ante disceptationem, no. 8-14
[2] Sentire cum Ecclesia, số 46.