ĐỨC MARIA - MẸ CỦA HÀNG LINH MỤC

Một người không thể thiếu trong đời sống linh mục, đó là Đức Mẹ Maria, Mẹ của Hàng Giáo Sĩ, Mẹ của Hàng Linh Mục.

Mỗi người trong chúng ta đều mang trong mình những tiêu chuẩn để chọn lựa người mình yêu thích. Platon, triết gia Hy Lạp cổ có nói: "Hiểu biết là nhớ lại những gì trong kiếp trước". Phát biểu này không đúng trên phương diện tri thức, nhưng có phần sự thật nếu người ta muốn áp dụng trong lãnh vực con tim. Bởi lẽ tình yêu, thiện cảm bắt đầu bằng một ước mơ. Điều này có nghĩa là chúng ta thường có trong đầu óc những tiêu chuẩn, những mẫu người mình yêu chuộng. Những suy tư, những kiểu cách, những kinh nghiệm, những ước vọng mà ta có sẵn, giờ đây gặp một người hội đủ những điều mà ta đã có trước, bỗng nhiên ta thấy thiện cảm với người đó ngay.

Nói cách khác, người mà tôi ưa thích thường giống cha, giống mẹ hay giống những ai được tôi coi là tiêu biểu, là lý tưởng, cũng như nghe một bản nhạc quen thuộc, bao giờ cũng thấy thích thú hơn là nghe một bản nhạc hoàn toàn xa lạ. Người có tâm hồn yên tĩnh, thích những bản nhạc êm dịu, người có tâm hồn náo hoạt thì ưa thích nhạc kích động v.v... Một kiến trúc sư nào đó vạch sẵn trong con tim chúng ta những sơ đồ, những mẫu yêu, mẫu ghét, những lý tưởng cần phải đạt...

Thiên Chúa cũng vậy, Ngài đã có những kiểu mẫu trước khi tạo thành vũ trụ: nào là hoa, là chim, là cá, muôn loài, muôn vật, là mùa xuân, là ánh sáng.. Một đóa hoa hồng trở thành đóa hoa hồng là vì Chúa muốn thế. Nhưng khi tạo dựng con người, Chúa lại có hai hình ảnh: một hình ảnh cho con người nguyên sơ và hình ảnh thứ hai là lý tưởng con người cần phải đạt tới. Bản nhạc đã được chép sẵn nhưng đòi phải có nhạc công giỏi thực hiện, thì bài nhạc mới đạt được đỉnh cao của nghệ thuật. Thiên Chúa đã dành cho con người khả năng hiện thực những ước mơ Ngài đặt để nơi con người. Đi vào con đường Ngài vạch sẵn, chúng ta đạt đến chân hạnh phúc, đi trệch con đường ấy, là ôm mối bất hạnh. Đi ngoài chương trình kế hoạch của Thiên Chúa, quả là bi đát bởi lẽ làm như thế, có khác nào quả trứng lăn ra khỏi cánh gà mẹ, thiếu hơi nóng của tình Chúa ấp ủ, trở nên ung thối, không đạt được sự sống và triển nở xinh tươi. Do đó mà chúng ta phải luôn điều chỉnh cuộc đời, bằng cách đồ lại đời chúng ta theo những khuôn mẫu Chúa đã đặt để. Gương mẫu tuyệt vời nhất, là Chúa Kitô, Đấng mà chúng ta đã nhiều lần suy gẫm để rút ra căn tính của mình. Nhưng khuôn mẫu ấy đối với chúng ta quá lý tưởng, quá cao vời, nhiều khi chúng ta cảm thấy chới với. Do đó mà Chúa Quan Phòng ban cho chúng ta một gương mẫu khác, gần gũi chúng ta hơn, đó là Mẹ Maria. Nơi Mẹ, Thiên Chúa rất hài lòng vì Ngài đã gặp thấy mọi tiêu chuẩn Ngài đề ra. Đức Mẹ là tình yêu đệ nhất, tình yêu cao đẹp nồng thắm hơn hết mọi tình yêu ở trần gian này.

Chúng ta đều biết Mẹ Maria là Mẹ của nhân loại, Mẹ của Giáo Hội và là Mẹ của mọi người chúng ta. Đặc biệt từ khi Chúa trối Thánh Gioan cho Đức Mẹ, Mẹ đã trở nên, theo một ý nghĩa đặc thù, là Mẹ của hàng giáo sĩ, Mẹ của các linh mục, những Kitô thứ hai.

Đề cập đến nghĩa vụ và quyền lợi của hàng giáo sĩ, Giáo luật điều thứ 276 triệt 2, nố 5 có dạy: giáo sĩ phải sùng kính Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa.

Những người con hiếu thảo thường ra sức bắt chước mẹ mình trong mọi việc, nhất là luôn nghe lời mẹ chỉ dạy. Thánh Luy Montfort, vị thánh tôn sùng Đức Mẹ cách đặc biệt, đã cho chúng ta một suy tư thấu đáo và ngộ nghĩnh khi chú giải đoạn 27 sách Khởi Nguyên. Bài suy tư này phỏng theo sách nhan đề: "Luận về sự sùng kính chân thật Đức Trinh Nữ Maria", chương VI tựa đề "Rebecca và Giacob, nhân vật điển hình của đời sống tận hiến trong Kinh Thánh".

Khi Esau bán quyền trưởng nam cho em là Giacob, bà Rebecca, mẹ của Giacob, rất yêu quý người con này, nên đã lo liệu cho Giacob được hưởng quyền lợi của người con cả do một kế hoạch tuyệt hảo và bí nhiệm. Số là sau đó mấy năm, Ysaac thấy mình đã già, nên muốn chúc lành cho các con trước khi nhắm mắt. Ysaac gọi Esau, người con yêu của ông và bảo: "Con đi săn về dọn cho Cha một bữa ăn, để dịp này cha chúc phúc cho”. Bà Rebecca vội báo tin cho Giacob hay sự việc, rồi bảo Giacob bắt hai con dê tơ trong chuồng, cấp tốc, bà nấu dọn cho chồng món ăn mà ông ưa thích. Bà lấy áo con cả ướp thuốc thơm và mặc cho Giacob, lấy da dê quấn cổ, quấn tay con để cho Ysaac mù lòa, nếu có nghi ngờ về giọng nói, ông sẽ yên lòng khi sờ tay và cổ Giacob đầy lông và cho đó là Esau. Đúng vậy, khi nghe giọng nói, ông nghi là Giacob, liền kêu lại gần, ông sờ tay đầy lông, ông nói ngay: "Giọng nói thì của Giacob, mà tay là tay Esau". Ăn xong, ông cuối xuống hôn con, ông lại nghe áo con nực mùi hương thơm, ông không ngần ngại chúc phúc: cho sương trời đổ trên đồng phì nhiêu, đặt Giacob làm chủ tài sản ông để lại và chúc phúc như sau: "Ai chúc dữ con, người đó sẽ bị chúc dữ; ai chúc lành cho con, người đó sẽ được dồi dào ân phúc".

Ysaac vừa dứt lời, thì Esau bước vào, bưng món thịt rừng đã săn được, mời cha ăn và xin chúc phúc. Ysaac quá ngỡ ngàng, biết ngay việc gì đã xảy ra; nhưng lạ thay, ông không rút lời, trái lại, ông còn xác nhận việc chúc phúc vừa qua, vì thấy rõ có bàn tay phép tắc của Chúa can thiệp vào. Kinh Thánh thuật lại Esau tru trếu man dại, tố cáo Giacob là lường gạt và nài nỉ xin Cha mình một phép lành thừa. Động lòng trắc ẩn, Ysaac chúc cho Esau được phúc ở đời này, nhưng phải lụy phục Giacob. Thế là Esau căm thù Giacob và ta biết Giacob thoát chết là nhờ nghe và thi hành lời khuyên khôn ngoan của mẹ.

Các giáo phụ và các nhà chuyên môn Kinh Thánh đã đồng ý cho rằng Giacob tiêu biểu cho Chúa Giêsu và các linh mục, những người tận hiến, còn Esau tượng trưng cho kẻ dữ. Esau có thân hình lực sĩ, có biệt tài bắn cung, săn được nhiều thú rừng, sống phiêu lưu, ít về nhà, ỷ lại tài sức của mình, không bao giờ giúp việc nhà, không cần biết đến mẹ là bà Rebecca, không bao giờ để ý làm vui lòng mẹ già. Tham ăn đến nỗi đổi quyền trưởng nam lấy dĩa cháo đậu.

Đây đúng là những hành vi của kẻ dữ: họ tin tưởng nơi sức lực của mình, cậy tài khôn tài khéo, rất sáng suốt trong chuyện đời, nhưng lại yếu đuối và mù mờ trong việc đạo đức. Do đó họ ít ở nhà, không chịu đi vào nội tâm, không ẩn mình nơi cung thẳm của lòng mình, của linh hồn mình, không chịu noi gương Chúa Giêsu, Đấng luôn ở trong Thiên Chúa Cha. Kẻ dữ không thích đời nội tâm, mà lại làm náo động nội tâm người khác. Họ cho những người sống âm thầm đạo đức là những kẻ có đầu óc hẹp hòi, kém xã giao, ngớ nghếch. Kẻ dữ không nghĩ đến việc tôn sùng Mẹ Maria. Họ tự hào là mình giao thiệp trực tiếp với Thiên Chúa, coi việc sùng kính Đức Mẹ như việc đàn bà trẻ con.

Trái lại Giacob, người sinh sau, thân hình mảnh mai, hiền lành, ôn hòa, luôn ở nhà hầu hạ mẹ. Có ra khỏi nhà cũng là do lệnh mẹ, không ỷ tài khôn khéo, luôn vâng lời mẹ, hoàn toàn tin yêu phó thác vào kế hoạch của mẹ.

Người lành, những ngời con yêu của Mẹ Maria, các linh mục cũng xử sự như thế đối với Mẹ Maria: thích ở nhà, ưa tĩnh tâm, ưa sống đời sống nội tâm, chuyên chăm cầu nguyện. Chúng ta biết hầu hết các linh mục sa ngã đều khởi sự từ việc bơ thờ trong đời sống nội tâm, dần dần thấy lạt lẽo trong lời cầu và sau đó là lăn xuống triền dốc.

Hãy so chiếu đời mình với đời Mẹ. Ở Nazareth hay ở Cana, Mẹ vẫn luôn gắn bó với Chúa và luôn cầu nguyện, luôn tham khảo ý kiến Chúa Giêsu. Những linh mục chân chính không ham quyền chức, địa vị, không tìm kiếm vinh quang bên ngoài, mà chỉ thích sống đời ẩn dật như chính Mẹ Maria, như chính Chúa Giêsu lúc còn ở Nazareth, phục tùng Mẹ Maria và thánh cả Giuse.

Trên đây là một vài nét chú giải của Thánh Luy Montfort giúp chúng ta so chiếu đời chúng ta với Giacob. Đa số chúng ta là những người cao tuổi, không còn được tình mẹ trần gian ấp ủ. Đáng lẽ chúng ta là những người bất hạnh, nhưng chúng ta có một người mẹ trên trời là Đức Maria. Để hiểu được sự quý báu của người Mẹ ấy, chúng ta có thể đi từ những tình mẹ thông thường để rồi kết thúc nơi tình mẫu tử thiêng liêng và nồng thắm của Mẹ Maria.

Tục ngữ Việt Nam chúng ta có câu: "Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ lót lá mà nằm". Ai trong chúng ta lại không xót xa khi thấy một em bé mồ côi mẹ? Mất mẹ là mất một kho tàng quý báu nhất trên đời. Biết bao lời ca tụng mẹ trong văn chương, trong văn nghệ, trong đời sống thường nhật, trong trái tim của mỗi người con hiếu thảo. Người ta còn bảo nhiều người trước khi tắt thở lìa cõi đời này, đã ứa nước mắt kêu lên tiếng "mẹ ơi".

Tình mẹ không thể nào thiếu vắng trong đời người, bởi vì nó bao la như biển Thái Bình, nghĩa mẹ lai láng như nước trong nguồn chảy ra. Mẹ chẳng những cần cho sự hiện hữu và sinh tồn của cuộc đời, như sữa, như đường, như cơm, như bánh, mà còn như những món ăn đặc sản, mang lại hương vị mặn mà thơm ngon cho cuộc sống, như chuối, như mật, như gia vị...

Nếu là một điều tối cần thì tình mẹ phải được lý tưởng hóa để muôn đời con người chiêm ngưỡng, bắt chước và tri ân. Trong Phật giáo tình mẹ được kết tụ nơi Quan Thế Âm Bồ Tát. Tinh thần ấy cũng ảnh hưởng rất nhiều nơi các bà mẹ Á Đông.

Lúc xảy ra chiến tranh Trung - Nhật, một số người Triều Tiên tham gia kháng chiến, có một trường hợp đáng thương. Người mẹ Triều Tiên có một đứa con bị thương nặng tại chiến trường: tai điếc, mắt mù, miệng liên tục kêu gào, xin cho gặp được mẹ trước khi chết. Đường từ nhà anh thương binh sang chiến trường phải đi mất tám ngày mới tới. Trong những ngày đầu, bất cứ người nữ y tá nào đến gần anh cũng tưởng là mẹ mình, nên chụp lấy, nhưng lúc nào cũng bị tháo gỡ, chối từ. Nên cuối cùng, anh đã nản lòng. Những ngày sau, anh không còn tin mẹ mình có thể đến được nữa, nên đã gào thét thảm thiết và đành sống trong tuyệt vọng, chờ đón tử thần. Sau cùng, bà mẹ đã đến, bà vội ôm con vào lòng, nhưng người thương binh cứ tưởng là cô y tá nào đó, nên đã hất tung mẹ anh ra. Trước cảnh thương tâm đó, mọi người đều nghẹn ngào, mọi phương tiện đều đi đến bế tắt, vì anh vừa điếc lại vừa đui, làm sau nghe được lời phân giải, làm sao thấy được ngươi mẹ bằng xương bằng thịt đứng trước mặt anh. Nhưng tình mẹ đã phát minh một phương cách diệu kỳ. Không xấu hổ, ngại ngùng trước một tập đoàn đông đảo bác sĩ, y tá, bà vạch áo, đặt vú mình vào miệng anh. Người con trai yêu của bà lúc này đã hiểu, chỉ có bà mẹ mới can đảm làm như vậy, và anh thương binh đã ôm chồm lấy mẹ, mặt mày rạng rỡ, tràn đầy niềm vui pha lẫn hy vọng trước thương tích hầu như vô phương cứu chữa. Bà mẹ Triều Tiên này quả đã phát minh phương thức cứu sống con trai bà.

Chúng ta cũng có một người mẹ tuyệt vời, không thể thiếu được và vẫn luôn đồng hành với chúng ta, đó là Đức Mẹ Maria. Đây không phải là bà mẹ trong các tiểu thuyết hay trong các kịch bản, mà là một bà mẹ trong lịch sử, trong cuộc đời, bà mẹ đầy đau khổ đã ngậm nuốt muôn nghìn đắng cay, đặc biệt trên đồi Canvê, dưới chân thập giá, chứng kiến cái chết tủi nhục của người Con duy nhất của mình.

Thánh Gioan trong Phúc Âm thứ tư, đoạn 19 từ câu 25 đến hết câu 27, có thuật lại: "Thấy thân mẫu và tông đồ mình thương đứng bên cạnh, Chúa Giêsu nói với Mẹ Người "Thưa bà này là con bà" và nói với môn đệ "Đây là mẹ con".

Cứ thường tình thì việc một người sắp đi xa, trối người mình thương mến cho người khác là phải lẽ. Trường hợp ở đây, ai cũng hiểu là Đức Maria không còn người con nào ngoài Chúa Giêsu, nên sau cái chết của Chúa, Mẹ sẽ không có ai phụng dưỡng và do đó mà Chúa trối Mẹ lại cho người tông đồ Chúa yêu là Gioan. Nhưng có điều lạ là tại sao Chúa không trối Đức Mẹ lại cho người họ hàng, mà lại trối cho người dưng; hơn nữa thứ tự trối trăn lại đảo lộn: trối thánh Gioan trước cho Đức Mẹ, rồi mới trối Đức Mẹ lại cho thánh Gioan; lại còn dùng từ ngữ trịnh trọng: "Thưa bà". Ngần ấy yếu tố đã đủ để cho các nhà Kinh Thánh và thần học chú giải cách khác với quan niệm thông thường và cổ điển.

Từ thế kỷ thứ XII, và nhất là thế kỷ thứ XV, các nhà Kinh Thánh và thần học thấy rằng khi nói: "Thưa Bà, này là con bà", Chúa Giêsu đã chính thức đặt Đức Maria làm Mẹ thiêng liêng cho toàn thể nhân loại; đặc biệt qua Gioan, Mẹ làm mẹ của hàng giáo sĩ. Quả thật, người môn đệ đứng bên cạnh mẹ không phải chỉ là Gioan, mà là người đại diện cho toàn thể nhân loại, đại diện cho các linh mục, mà Chúa Giêsu đã muốn phó thác vào cánh tay hiền mẫu của Mẹ.

Nếu muốn gởi gắm Mẹ mình cho Gioan, việc gì Chúa phải nói: "Thưa Bà, này là con Bà?". Chúa chỉ cần nói: "Gioan, đây là Mẹ con" và nói với Đức Mẹ: "Thôi Mẹ ở lại, có Gioan lo".

Ở đây, Chúa lại dùng thành ngữ "Thưa Bà" làm ta nhớ lại bữa tiệc cưới Cana, hôm đó, Chúa cũng nói với Đức Mẹ: "Thưa Bà, giờ tôi chưa đến". Đức Mẹ xin Chúa làm phép lạ, tức là hối thúc Chúa sớm tỏ mình ra, sớm sống đời công khai và sớm hoàn thành công trình cứu chuộc nhân loại, nên Chúa mới trịnh trọng thưa Bà; giờ đó đã điểm trên Đồi Canvê, và một lần nữa, Chúa lại nói: "Thưa Bà". Lần này, Chúa giao nhân loại, giao tất cả chúng ta cho Đức Mẹ, để từ đây, Đức Mẹ chính thức là mẹ chúng ta, mẹ của nhân loại, trong cuộc chiến chống lại rắn dữ và ma quỷ, điều Thiên Chúa đã tiên báo trong Tiền Phúc Âm Sách Khởi Nguyên đoạn 3 câu 15: "Ta sẽ đặt người đàn bà đối chọi với ngươi. Dòng dõi Người sẽ đạp đầu ngươi và ngươi sẽ rình cắn gót chân Dòng dõi ấy”. Dòng dõi này, trước tiên là Chúa Giêsu, sau là nhân loại, mà Mẹ là người mẹ toàn năng trong lời cầu, là Đấng Đồng Công cứu chuộc, là trung gian các ơn...

Quả thật như xưa Adam và Evà dưới cây trái cấm đã lỗi phạm, đưa nhân loại vào cảnh điêu linh, Evà đã trở thành mẹ kẻ chết, thì nay Adam mới bị treo trên cây trường sinh là cây thập giá, và Mẹ Maria là Evà mới, mẹ của những người sống, mẹ của nhân loại, mẹ của chúng ta.

Nhưng chúng ta đừng tưởng rằng chỉ đến giây phút quyết liệt trong đời Chúa, Đức Mẹ mới trở thành Mẹ nhân loại. Không, Mẹ đã thụ thai nhân loại ngay từ lúc nói tiếng "xin vâng" ở Nazareth, khi sứ thần truyền tin, bởi lẽ Đức Mẹ bằng lòng mang nhân tính đến cho Chúa Giêsu và suốt những năm dài tại thế, Mẹ đã cưu mang nhân loại trong khổ đau, từ biến cố Bêlem đến Núi Sọ,và giờ đây trên đồi Canvê, Mẹ chính thức được truy nhận.

Mọi tình mẫu tử kỳ diệu trên trần gian này đều cô đọng nơi Đức Maria. Trong biến cố truyền tin, Mẹ đã nói lên tiếng xin vâng với lòng tin yêu phó thác, mặc dầu Mẹ rất thiết tha với Đức Trinh Khiết. Trong cuộc sống âm thầm ở Nazareth, Mẹ đã hy sinh rất nhiều để nuôi dưỡng Chúa Giêsu, nguyên nhân cứu rỗi đời đời cho nhân loại. Ngày cuối cùng của đời Chúa, Mẹ đã can đảm dâng con trọn vẹn vì nhân loại. Là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, Mẹ đã là Mẹ chúng ta khi sinh chúng ta ra trong đau khổ của Mẹ, để ban cho chúng ta đời sống ân sủng, và ngày nay, Mẹ vẫn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta bằng những ơn Mẹ đã lãnh được qua trung gian của Mẹ.

Trong khi suy gẫm về tình mẹ của Mẹ Maria, chúng ta phải tự hỏi mình đã làm gì để tỏ ra là những người con hiếu thảo của Mẹ. Hãy noi gương các nhân đức của Mẹ, hãy bắt chước Mẹ cách trung thành và hãy làm chứng cho mọi người thấy tình ân mẫu của Người.

Để kết thúc bài suy niệm này, tôi xin kể ra đây một câu chuyện đơn sơ nhưng nhiều ý nghĩa.

Một chú bé nghèo khổ, quần áo tả tơi, không biết chữ o tròn hay méo, lê đôi chân gầy đi đến một khu phố nghèo nàn ở Paris, thủ đô nước Pháp. Chú ấy tên la Gioan, 6 tuổi, đi tìm một ông lão tên là Bouin, cũng nghèo, sống bằng nghề viết thư mướn. Chú bé vào nhà, lễ phép cúi chào cụ già, chú làm gọn, vì cả chiếc mũ đội đầu chú cũng không có. Ông già hỏi chú: "Cháu muốn gì?" Chú lễ phép thưa: "Cháu muốn viết một lá thư". Ông già bảo chú trả 10 xu. Chú bé ngập ngừng rồi thưa: "Xin lỗi cụ, cháu không có tiền". Nói xong chú thất thểu ra đi. Ông già ngó theo thương hại, kêu ngược lại: "Ê bé, mày không có 10 xu sao? Mày con ai?" Chú từ tốn đáp: "Dạ cháu là con của mẹ cháu". Ông già nói: "Vậy là ta hiểu rồi, cháu không có 10 xu, mẹ cháu cũng không có, vậy thì viết thư để xin chút cháo phải không?" Chú bé khẽ gật đầu. Ông già nói tiếp: "Được rồi, vào đây ông viết hộ cho". Ông Bouin thầm nghĩ, hy sinh chút mực, nửa tờ giấy thì cũng chẳng làm mình nghèo thêm đâu. Ông lấy giấy ra, cầm bút, chấm mực, viết chữ thật đẹp: “Paris, ngày tháng năm... Kính thưa ông...”, ông đọc lại cho chú bé nghe và bảo muốn viết gì thì nói để ông viết tiếp. Chú bé ấp úng: "Dạ không phải ông". Ông lão gạn hỏi: "Không phải ông, thì bà?" Chú bé thưa: "Dạ Bà, mà cũng không phải". Ông Bouin thấy bực mình, ông bắt đầu cáu gắt: "Đã không biết ai để gởi, mà lại còn đòi viết thư". Chú bé lấy hết can đãm thưa: "Cháu muốn viết thư cho Đức Mẹ Maria". Không cười nữa, ông già nghiêm nghị nói: "Ta không cho là mày muốn chế nhạo lão già này, hãy ra khỏi cửa, xéo đi gấp". Chú bé ngoan ngoãn bước ra khỏi cửa, đôi chân đầy bụi và rướm máu. Thấy chú bé quá hiền, ông già động lòng trắc ẩn gọi chú trở lại và quan sát nét mặt chú bé. Ông lùng bùng: "Chà! lắm kẻ nghèo đói ở Paris này". Ông hỏi chú bé: -"Tên cháu là gì?" -"Dạ, tên cháu là Gioan". "Gioan gì nữa ?" - "Dạ Gioan thôi ạ". "Nhưng cháu muốn thưa gì với Đức Mẹ?" - "Dạ, cháu muốn thưa với Người là má cháu đã ngủ từ bốn giờ chiều hôm qua, xin Người đến đánh thức má cháu dậy, cháu không làm sao gọi má cháu dậy được".

Con tim cụ già nhói lên trong lồng ngực vì ông sợ phải hiểu sự gì đã xảy ra. Ông hỏi tiếp: -"Mà tại sao lúc nãy cháu bảo viết thư xin chút cháo?" Chú bé trả lời: -"Dạ đúng như vậy, trước khi ngủ, má cháu cho cháu miếng bánh cuối cùng. -"Còn mẹ cháu ăn gì?" -"Đã hai ngày rồi, má cháu không ăn gì, má cháu nói má không đói." -"Như vậy trước giờ khi cháu muốn gọi má cháu dậy thì cháu làm gì?" -"Dạ cháu chỉ ôm má cháu". -"Nhưng lần này thì cháu thấy sao ?" -"Má cháu lạnh lắm, nhà cháu cũng lạnh lắm, hai tay má cháu bất động và đang chắp trên ngực, mặt má cháu trắng bệch."...

Ông già thầm nghĩ: chà, tôi đang thu tiền, tôi đang ăn no, tôi đang uống ngon, mà bên cạnh tôi, lại có người đàn bà chết đói.

Ông gọi đứa bé lại bên ông, đặt nó ngồi trên gối và nói hết sức dịu dàng: -"Cháu ơi, thư cháu đã được viết rồi, được gởi đi rồi và đã được nhận rồi. Hãy dẫn ông đến nhà má cháu". -"Được, cháu sẽ dẫn ông tới, nhưng tại sao ông lại khóc? Gioan ngạc nhiên hỏi cụ già như thế. Ông già trả lời: "Ông đâu có khóc". Nhưng ông ôm ghì đứa bé vào lòng, nước mắt tràn trụa chảy xuống trên nó. Đàn ông ai lại khóc? Ông đứng lên và dường như ông đang nói với người vô hình: "Bà mẹ đáng thương ơi, bà hãy vui lên. Các bạn tôi có nhạo cười, tôi cũng mặc. Bà ở đâu, tôi muốn đi thăm và dẫn đứa bé này về, thiên thần bé nhỏ đáng thương này, nó sẽ không bao giờ lìa xa tôi nữa, bởi vì lá thư không được viết kia có hai kết quả: là cho cháu bé một người cha và cho tôi một tấm lòng"

Câu chuyện đến đây là hết, chúng ta không biết người đưa thư nào đã mang những loại thư chưa viết này đi, nhưng lá thư ấy đã thấu tới trời, đến tận ngai tòa Đức Trinh Nữ Maria, nên đã có kết quả thật cảm động như chúng ta vừa nghe. Chớ gì mỗi người chúng ta để cho Mẹ đánh động con tim và thực thi bác ái như cụ già Bouin đối với bất cứ Gioan nào chúng ta gặp trên cuộc đời đầy gian lao đau khổ này. Chớ gì Mẹ Maria luôn là nguồn bác ái đối với chúng ta, như bà mẹ ruột tuy ở xa, nhưng lại gần.

Chớ gì tình cảm và lòng sùng kính của chúng ta đối với Mẹ mãnh liệt, thiết tha, nồng thắm như tình cảm của Đức Hồng Y Wyszinski đối với mẹ ruột của Ngài, như có lần Ngài bày tỏ: "Tôi đây đã tám mươi tuổi, mà mỗi lần kêu đến tên mẹ, là tim tôi hồi hộp, miệng tôi run lên".

 

+ GM Phêrô Nguyễn Soạn

VietCatholic News (28/02/2005)


 

 

Năm Linh Mục