THƯ ĐỨC THÁNH CHA GIOAN-PHAOLÔ II

GỬI CÁC LINH MỤC

Thứ Năm Tuần Thánh 08.4.1979

Anh em linh mục rất thân mến,

1. Cho anh em, tôi là Giám mục ; cùng với anh em, tôi là linh mục.

Trong khi bắt đầu thừa tác vụ mới trong Giáo Hội (NOVO INCIPIENTE Nostro in Ecclesia ministerio), tôi cảm thấy rất muốn nói chuyện với tất cả anh em không trừ một ai, linh mục triều cũng như dòng, đều là những anh em của tôi do Chức Thánh. Trước hết, tôi muốn nói lên lòng tin của ôi vào ơn gọi đã kết hợp anh em với Giám mục của mình trong sự hiệp thông đặc biệt xây trên nền tảng bí tích và thừa tác vụ, và bởi sự hiệp thông này, Giáo Hội – Nhiệm Thể Chúa Kitô – được xây dựng. Ngay từ giây phút Chúa gọi tôi lên Tông Tòa này, nơi xưa kia Thánh Phêrô Tông Đồ đã dùng đời sống và cái chết để đáp lại câu hỏi : "Con có thương Thầy hơn những người này không ?" (x. Ga 21,15-17), từ giây phút đó, tư tưởng và tâm hồn tôi hướng về anh em tất cả là những người, do hồng ân đặc biệt và do sự tận hiến toàn thân cho Chúa Cứu Thế, đã "phải chịu đựng nắng nôi, khó nhọc suốt ngày" (x. Mt 20,12) trong khi thi hành những nhiệm vụ rất khác nhau của thừa tác vụ linh mục và hoạt động mục vụ.

Tôi không ngừng nghĩ đến anh em là anh em của tôi, cầu nguyện cho anh em, cùng với anh em đi tìm những con đường dẫn tới sự hiệp nhất thiêng liêng và sự cộng tác, do bí tích Truyền chức mà tôi đã lãnh nhận bởi tay vị Giám mục của tôi (Hồng y Adam-Etienne Sapieha, Tổng giám mục Cracovie). Hôm nay tôi muốn thích nghi những lời của Thánh Augustinô mà nói với anh em : "Cho anh em, tôi là Giám mục ; cùng với anh em, tôi là linh mục" ("Vobis enim sum episcopus, vobiscum Christianus" : Bài giảng 340, 1 : PL 38,1483). Thực vậy, hôm nay là dịp đặc biệt để tôi gửi tới anh em những tư tưởng trong thư này : đó là ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Đây là ngày lễ hằng năm kính chức linh mục của chúng ta, ngày quy tụ toàn thể anh em linh mục trong giáo phận quanh Đức giám mục của mình, để cùng cử hành hiến lề Tạ Ơn ; cũng là ngày lặp lại trước mặt Giám mục và cùng ngài nhắc lại lời hứa khi thụ phong linh mục, chính việc này cho phép tôi cùng với tất cả anh em của tôi trong hàng giám mục được liên kết với anh em trong sự hợp nhất đặc biệt, nhất là cho phép tôi cảm thấy mình được trở về trong chính tâm điểm mầu nhiệm Chúa Giêsu-Kitô mà tất cả chúng ta đều thông phần.

Công Đồng Vatican II đã làm nổi bật đặc tính đồng đoàn (collégialité) của hàng giám mục trong Giáo Hội. Công Đồng cũng đã ban một hình thức mới cho đời sống của các cộng đoàn linh mục liên kết với nhau bằng tình huynh đệ đặc biệt và hợp nhất với giám mục trong Giáo Hội địa phương. Trọn đời sống và tác vụ linh mục là phục vụ, để đào sâu và làm vững bền mối dây liên kết này ; tuy nhiên, các hội đồng linh mục có một trách nhiệm đặc biệt đối với những trách vụ khác biệt liên quan đến đời sống và tác vụ linh mục. Hội đồng linh mục theo tinh thần của Công Đồng và của Tự Sắc Ecllesiae Sanctae của Đức Phaolô VI (chương I, điều 15) phải thực thi vai trò của mình trong từng giáo phận. Tất cả những điều này nhằm giúp mỗi giám mục, hiệp thông với linh mục đoàn, phục vụ hữu hiệu hơn công cuộc cao cả là rao giảng Phúc Âm. Nhờ việc phục vụ này, Giáo Hội thực hiện sứ mạng và bản chất của mình. Những lời sau đây của Thánh Ignatiô thành Antiôchia đã xác định tầm quan trọng của sự hợp nhất giữa linh mục và giám mục của mình : "Anh em hãy lo lắng thực hiện tất cả trong sự đồng tâm thánh, dưới sự chủ tọa của giám mục thay mặt Thiên Chúa, của hàng trưởng lão (presbyterium) thay mặt cho hội nghị các Tông đồ, và các phó tế là những người rất thân yêu của tôi, họ mang gánh nặng phục vụ Chúa Giêsu-Kitô" (Ep. ad Magnesios, VI, 1 : Patres Apostolici I, éd. Funk, p. 235).

2. Tình yêu đối với Chúa Kitô và Giáo Hội hiệp nhất chúng ta.

Tôi không có ý nhắc lại ở đây tất cả những gì tạo thành sự phng phú của đời sống và tác vụ linh mục. Về điểm này, tôi xin mọi người hãy nhớ lại giáo huấn truyền thống của Giáo Hội và đặc biệt giáo huấn của Công Đồng Vatican II, trong các văn kiện khác nhau, nhất là Hiến chế Lumen gentium, sắc lệnh Presbyterorum OrdinisAd gentes. Tôi cũng xin gắn bó với Thông điệp Sacerdotalis caelibatus của vị tiền nhiệm của tôi, Đức Phaolô VI, và sau cùng tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của văn kiện De Sacerdotio ministeriali mà chính Đức Phaolô VI đã chấp nhận như là thành quả của Thượng-hội-đồng Giám mục năm 1971. Ngài đã gặp ở đó một bản trình bày có tầm quan trọng thiết yếu về khía cạnh chuyên biệt của đời sống và tác vụ linh mục trong thế giới hôm nay, cho dù theo ý của Thượng-hội-đồng khi soạn thảo, văn kiện chỉ có tính cách thao khảo mà thôi.

Nhắc lại các văn kiện trên đây mà anh em đều biết, tôi chỉ muốn đề cập trong Thư này về một vài điểm xem ra hết sức quan trọng cho giây phút này của lịch sử Giáo Hội và thế giới. Lòng mộ mến Giáo Hội khiến tôi phải nói lên như vậy với anh em và Giáo Hội chỉ có thể hoàn thành sứ mạng của mình đối với thế trần, nếu Giáo Hội sống với Chúa Kitô cách trung thành, mặc dầu bao nhiêu yếu hèn loài người. Tôi ngỏ lời với tất cả những ai được Chúa Kitô thương ban cho ơn gọi đặc biệt là hiến thân phục vụ Giáo Hội và, trong Giáo Hội, phục vụ cho con người, nhằm giải quyết những vấn đề rất quan trọng, và trước hết là những vấn đề liên quan đến phần rỗi đời đời.

Dầu ngay lúc khởi đầu những tư tưởng này, tôi đã nhắc đến một số văn kiện và tài liệu chính thức, nhưng tôi muốn nhắc dến trước hết một nguồn tài liệu sống động là tình yêu của chúng ta đối với Chúa Kitô và Giáo Hội. Tình yêu đó phát xuất từ hồng ân của ơn gọi linh mục, tình yêu đó là hồng ân cao cả nhất do Chúa Thánh Thần ban (x. Rm 5,5 ; 1Cr 12,31 ; 13).

3. Được chọn giữa loài người và được đặt lên để chuyển cầu cho loài người (Dt 5,1)

Công Đồng Vatican II đã đào sâu quan niệm về chức tư tế bằng cách trình bày nó trong toàn bộ giáo huấn của Công Đồng như biểu hiện của những sức mạnh nội tại, của cái động lực mà nhờ đó sứ mạng của toàn thể dân Thiên Chúa trong Giáo Hội được cạch rõ. Ở đây phải trở về với Hiến chế Lumen gentium và chăm chỉ đọc lại nhiều đoạn của Hiến chế. Sứ mạng của đoàn dân Thiên Chúa được thực hiện bởi việc tham dự vào ba vai trò và sứ mạng của chính Chúa Giêsu-Kitô. Như mọi người đều biết, đó là sứ mạng và vai trò tiên tri, tư tế và vương giả. Phân tích kỹ những văn kiện Công Đồng, người ta sẽ thấy cần phải nói đến ba chiều hướng của việc phục vụ và sứ mạng của Chúa Kitô hơn là nói tới ba vai trò khác nhau. Ba khía cạnh được liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ tương cho nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và soi sáng cho nhau. Vì thế, chính là nhờ sự duy nhất ba mặt này mà chúng ta được tham dự vào sứ mạng và vai trò của Chúa Kitô. Với tư cách là kitô-hữu, thành phần của dân Chúa, và sau đó với tư cách là linh mục tham dự vào phẩm trật, chúng ta bắt nguồn trong toàn bộ sứ mạng và vai trò của Thầy chúng ta là tiên tri, tư tế và là vua, để làm chứng về Ngài một cách đặc biệt trong Giáo Hội và trước mặt thế giới.

Chức tư tế mà chúng ta được tham dự vào là do bí tích Truyền Chức, một bí tích đã "in dấu" vĩnh viễn trong tâm hồn chúng ta, quen gọi là "ấn tích" ; (chức tư tế ấy) có tương quan với chức tư tế chung của các tín hữu, tức là những người đã chịu phép Thánh Tẩy, nhưng đồng thời giữa hai chức tư tế có "một sự khác biệt thiết yếu chứ không phải chỉ khác biệt cấp bậc” (x. Lumen gentium 10). Như thế, lời của tác giả thư gửi tín hữu Do thái về linh mục như là "người được chọn giữa loài người và được thiết lập để cầu bầu cho loài người" (Dt 5,1) bao gồm đầy đủ ý nghĩa.

Tốt hơn hết, chúng ta hãy đọc lại một lần nữa đoạn văn của Công Đồng Vatican II (Lumen gentium 10) nhằm nói lên những chân lý nền tảng về ơn gọi của chúng ta trong Giáo Hội :

"Chúa Kitô, Linh Mục Thượng Phẩm được chọn nơi loài người" (x. Dt 5,1-5), để làm cho dân mới thành một "vương quốc, thành những tư tế cho Thiên Chúa, Cha Người" (Kh 1,6; x. 5,9-10). Thực vậy, những người đã lãnh phép Thánh Tẩy, nhờ được tái sinh và xức dầu của Thánh Thần, được cung hiến để trở thành chỗ ở thiêng liêng và nhận chức tư tế thánh, hầu qua mọi hoạt động của con người Kitô hữu, dâng của lễ thiêng liêng và rao truyền những kỳ công của Ðấng đã gọi họ từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Ngài (x. 1Pr 2,4-10). Vì thế, tất cả các môn đệ của Chúa Kitô, trong khi kiên tâm cầu nguyện và cùng nhau ca tụng Thiên Chúa (x. Cv 2,42-47), họ phải dâng mình làm của lễ sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1), phải làm chứng về Chúa Kitô trên khắp mặt đất và trình bày niềm hy vọng về cuộc sống vĩnh cửu mà họ ôm ấp cho những ai đang khao khát. (x. 1Pr 3,15).

Chức tư tế cộng đồng của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về bản chất, nhưng cả hai bổ túc cho nhau. Thực vậy, cả hai đều tham dự vào chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình. Tư tế thừa tác, nhờ có quyền do chức thánh, đào tạo và cai quản dân tộc tư tế, trong tư cách Chúa Kitô, cử hành hy tế tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân chúng ; phần các tín hữu, nhờ chức tư tế vương giả, cộng tác dâng thánh lễ, và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực".

4. Linh mục là hồng ân Chúa Kitô ban cho cộng đoàn

Cần suy rộng không những trên phương diện lý thuyết mà cả phương diện hiện thực cái ý nghĩa của mối tương quan giữa chức tư tế phẩm trật và chức tư tế phổ quát của các tín hữu. Nếu giữa hai chức tư tế có một khác biệt cốt yếu chứ không chỉ vì cấp bậc, đấy là do sự phong phú đặc biệt của chức tư tế của chính Chúa Kitô, trung tâm và nguồn duy nhất cho sự tham dự riêng biệt của tất cả các tín hữu cũng như cho sự tham dự thứ hai nhờ một bí tích khác là bí tích Truyền Chức. Anh em thân mến, bí tích này là phần riêng của chúng ta, là kết quả của ân sủng đặc biệt, hàm chứa trong tiếng gọi Chúa dành cho chúng ta và là nền tảng của chân tính chúng ta. Chính bí tích ấy, do bản chất và do tất cả những gì nó phát sinh trong đời sống và hoạt động của chúng ta, là phương tiện giúp các tín hữu ý thức được chức tư tế phổ quát của họ và giúp họ thi hành chức tư tế ấy (x. Ep 4,11-12). Bí tích ấy nhắc các tín hữu luôn nhớ mình là đoàn dân Thiên Chúa và làm cho họ trở nên xứng đáng "dâng những của lễ thiêng liêng" (x. 1Pr 2,5), nhờ đấy chính Chúa Kitô làm cho chúng ta trở nên của lễ đời đời (x. 1Pr 3,18) dâng lên Chúa Cha. Điều đó thực hiện trước tiên khi linh mục "dùng Quyền thánh chức … trong tư cách Chúa Kitô (in persona Christi) mà cử hành hy tế tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân chúng" (LG 10), như đã thấy trong bản văn nói trên.

Chức linh mục của chúng ta vừa là "phẩm trật" vừa là "thừa tác". Nó cấu tạo nên một tác vụ đặc biệt, nghĩa là một "dịch vụ" đối với cộng đồng tín hữu. Nó không phát nguồn từ cộng đồng này, cũng như không phải cộng đồng "kêu gọi" hoặc "đề cử" chúng ta, nhưng thực sự chức tư tế của chúng ta là một hồng ân cho cộng đồng và do chính Chúa Kitô ban, do sự sung mãn của chức tư tế của Chúa Kitô. Sự sung mãn này được biểu hiện qua việc Chúa Kitô, khi làm cho mọi người trở nên xứng đáng dâng của lễ thiêng liêng, thì cũng chọn một số để làm thừa tác viên cử hành Hy tế Thánh Thể : tất cả các tín hữu đều tham dự vào việc hiến dâng hy tế này trong đó có hàm chứa mọi của lễ thiêng liêng của Dân Chúa.

Ý thức như vậy, chúng ta hiểu vì sao chức tư tế của chúng ta là "phẩm trật" nghĩa là kết liền với quyền đào luyện và hướng dẫn dân tư tế (x. LG 10), và vì vậy, cũng là chức tư tế "thừa tác". Chúng ta chu toàn tác vụ này, nhờ đó Chúa Kitô phục vụ Chúa Cha trong việc cứu chuộc nhân loại. cả cuộc đời linh mục thấm nhuần và phải được thấm nhuần tinh thần phục vụ, nếu chúng ta muốn chu toàn Hy tế tạ ơn trong tư cách Chúa Kitô.

Chức linh mục đòi một cuộc đời và một dịch vụ nguyên vẹn. sự nguyên vẹn này rất xứng hợp với chân tính linh mục. đồng thời nó cũng biểu hiện sự cao cả của chức vị chúng ta và thái độ sẵn sàng phục vụ của chúng ta : đây là thái độ của kẻ sẵn sàng đón nhận với lòng khiêm tốn các ơn Chúa Thánh Thần, rồi thông ban cho người khác những hoa quả của tình yêu và bình an, và đem lại cho họ đức tin vững chắc, hầu có thể am tường sâu xa ý nghĩa của cuộc đời con người và có khả năng đem trật tự luân lý vào cuộc đời cá nhân và các môt trường nhân thế.

Chức linh mục đã được ban cho chúng ta để luôn luôn phục vụ người khác, như Chúa Kitô đã làm. Chúng ta không thể từ khước vì những khó khăn có thể gặp, hoặc do những hy sinh phải chịu. như các Thánh Tông Đồ, chúng ta đã từ bỏ tất cả để đi theo Chúa Kitô (x. Mt 19,27), thì cũng phải bền chí theo sát bên Chúa cho tới Thập giá.

5. Phục vụ cho Mục Tử Nhân Lành

Anh em thân mến, khi viết những dòng này cho anh em thì lại xuất hiện trước mắt và trong tim tôi những lãnh vực hết sức bao la và khác biệt của đời sống con người mà anh em được sai đến để phục vụ như những thợ vườn nho Chúa (x. Mt 20,1-16). Nhưng hình ảnh về đoàn chiên (x. Ga 10,1-16)cũng có giá trị đối với anh em, vì do ấn tích tư tế, anh em tham dự vào đoàn sủng mục vụ. Đó là dấu hiệu của một mối tương quan đặc biệt làm cho anh em giống Chúa Kitô, Mục Tử Nhân Lành. Anh em mặc lấy đặc tính đó cách hết sức đặc biệt, cho dù sự chăm sóc phần rỗi người khác cũng là và phải là trách vụ của mỗi thành phần trong cộng đồng dân Chúa lớn lao, và như vậy cũng là của hết thảy các anh em chị em chúng ta – Công Đồng Vatican II nói nhiều về đề tài này ở chương II Hiến chế Lumen gentium –, nhưng người ta chờ đợi nơi anh em là linh mục một sự chăm sóc, một sự dấn thân lớn hơn, khác biệt hơn là của một giáo dân thường ; sự tham dự của anh em vào chức tư tế của Chúa Kitô so với sự tham dự của người giáo dân là khác biệt "về bản chất chứ không chỉ về cấp bậc" (LG 10).

Thực vậy, chức tư tế của Chúa Giêsu-Kitô là nguồn đầu tiên của sự thể hiện lòng chăm sóc liên lỉ và hữu hiệu cho phần rỗi chúng ta. Chính nhờ sự chăm sóc đó mà chúng ta có thể nhìn về Ngài như Vị Mục Tử Nhân Lành. Những lời "Vị Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình choo đoàn chiên" (Ga 10,11) há chẳng nhắc đến Hy tế Thập giá, đến hành động quyết định của chức tư tế của Chúa Kitô đó sao ? Chúng ta là những người đã được tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô do bí tích Truyền chức thánh, những lời phúc âm kia há chẳng vạch ra cho chúng ta con đường phải đi sao ? Lời ấy chẳng nói cho chúng ta biết rằng ơn gọi của chúng ta là chăm lo đặc biệt cho phần rỗi tha nhân và sự chăm sóc đó là một lý do đặc biệt cho đời sống linh mục chúng ta, đồng thời làm cho đời sống ấy có một ý nghĩa đó sao ? Chẳng phải là nhờ sự chăm sóc đó, chúng ta mới có thể tìm được ý nghĩa trọn vẹn của đời sống, của sự trọn lành, của sự thánh thiện của chúng ta sao ? Chủ đề này được lặp đi lặp lại nhiều lần trong sắc lệnh Optatam totius về việc đào tạo linh mục (x. số 8-11 và 19-20).

Tuy nhiên, vấn đề này được hiểu rõ hơn dựa vào những lời của chính Vị Thầy của chúng ta đã phán : "ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35). Đó là những lời bí nhiệm và dường như nghịch lý. Nhưng nếu cố gắng đem ra thực hành, thì những lời đó sẽ không còn là bí nhiệm nữa. Lúc ấy điều nghịch lý cũng biến mất và ý nghĩa đơn sơ và sâu xa của nó được biểu lộ hoàn toàn. Xin Chúa ban ơn này cho tất cả chúng ta trong đời linh mục và trong việc phục vụ đầy nhiệt thành.

6. Hướng dẫn các linh hồn là nghệ thuật của các nghệ thuật (Thánh Grêgôriô Cả : Regula pastoralis I, 1 : PL 77,14)

Sự chăm sóc đặc biệt cho phần rỗi tha nhân, cho chân lý, cho tình thương, cho sự thánh thiện của toàn dân Chúa, cho sự hợp nhất thiêng liêng của Giáo Hội, một sự chăm sóc đã được Chúa Kitô trao phó cho chúng ta cùng lúc với quyền chức linh mục, sự chăm sóc đó được thực hiện bằng nhiều cách. Anh em thân mến, chắc chắn có nhiều cách để anh em chu toàn ơn gọi linh mục : người thì phục vụ trong việc mục vụ giáo xứ thông thường, người khác đi xa đến những xứ truyền giáo, người thì dấn thân trong lãnh vực giảng dạy, trong việc thông truyền kiến thức và giáo dục giới trẻ, đồng thời làm việc trong những tổ chức và môi trường khác biệt, để cùng đồng hành với sự phát triển đời sống xã hội và văn hóa, lại có người hoạt động bên cạnh những người đau khổ, bệnh tật hoặc bị bỏ rơi ; đôi khi chính anh em lại là những bệnh nhân "quằn quại" trên giường bệnh. Những con đường đó hết sức khác biệt đến mức không thể xướng danh tất cả cách đặc biệt. Những con đường đó cần phải có nhiều và khác nhau, vì sự đa dạng trong cơ cấu đời sống con người, trong cơ cấu những truyền thống lịch sử, gia sản các nền văn minh và văn hóa khác nhau. Nhưng ít nhất là, trong sự đa dạng này, anh em luôn là những người mang một ơn gọi riêng biệt : anh em là những người mang lấy ân sủng của Chúa Kitô, Linh Mục đời đời, và đặc sủng của Vị Mục Tử nhân lành. Anh em không bao giờ được quên điều này, cũng không bao giờ được khước từ ; anh em phải thể hiện điều đó trong mọi nơi, mọi lúc và bằng mọi cách. Đó, chúng ta thấy "nghệ thuật của mọi nghệ thuật" mà Chúa Kitô đã mời gọi anh em thực hiện, nó hệ tại điểm nào ? Từ lâu Thánh Grêgôriô đã viết : "Hướng dẫn các linh hồn là nghệ thuật của mọi nghệ thuật".

Vì thế, mượn lời của Thánh Grêgôriô Cả, tôi nói với anh em : anh em hãy cố gắng trở nên "các nghệ nhân" của công việc mục vụ. Trong lịch sử Giáo Hội đã có rất nhiều nghệ nhân như thế. Có cần kể tên họ ra đây không ? Chẳng hạn Thánh Phanxicô Salêsiô, Thánh Vinh Sơn Phaoô, Thánh Anphongsô Liguôri, Thánh Gioan Maria Vianney – cha sở họ Ars, Thánh Gioan Boscô và Chân phước Maximilianô Kolbê và còn bao nhiêu vị khác đang nhắn nhủ chúng ta. Vị này khác vị kia : mỗi vị là con người của thời đại và biết "thích ứng" với thời đại. Những "thích ứng" của mỗi vị đều là những đáp ứng đặc biệt của Tin Mừng cho chính thời đại đó ; những thích ứng đó phát xuất từ sự thánh thiện và lòng nhiệt thành. Không có luật nào khác ngoài bộ luật này, để đời sống và hoạt động của linh mục thích ứng với thời đại và với các biến cố của thế giới. Chắc rằng những dự phóng khác nhau cũng như những thử nghiệm nhằm "tục hóa" đời sống linh mục không thể nào được coi như là một "thích ứng" đúng nghĩa.

7. Người phân phát và làm chứng

Đời sống linh mục được xây dựng trên nề tảng bí tích Truyền chức, một bí tích in vào linh hồn ấn tích không thể phai nhòa. Ấn tích này được in vào tận thâm sâu của hữu thể con người, tích chứa sức mạnh xây dựng "nhân cách" (personnalisante). Nhân cách của linh mục đối với mọi nguời phải là một dấu hiệu và là dấu chỉ rõ ràng và trong sáng, đó là điều kiện đầu tiên trong đời mục vụ của chúng ta. Người đời mà, từ giữa họ chúng ta đã được chọn ra và được thiết lập cho họ (x. Dt 5,1) mong muốn thấy ở nơi chúng ta cái dấu hiệu và dấu chỉ này, và họ có quyền mong chờ như vậy. Đôi khi có thể xảy ra là dường như chúng ta thấy rằng họ không muốn như vậy, hoặc họ mong muôn chúng ta trở nên "như họ" trong mọi sự ; cũng có thể xảy ra là cả họ dường như đòi chúng ta điều đó. Chính lúc này, chúng ta cần phải có "tinh thần đức tin sâu xa", cần đến "ơn biết biện biệt". Thật vậy, chúng ta rất dễ bị những dáng bóng bên ngoài chi phối và như vậy trở nên nạn nhân của một ảo tưởng trầm trọng. Những người đòi hỏi một sự tục hóa đời linh mục và vỗ tay hoan hô những hình thức biểu hiện khác nhau của sự tục hóa đó, chắc chắn sẽ là những người bỏ rơi chúng ta khi chúng ta lỡ sa ngã. Lúc đó chúng ta sẽ không còn là cần thiết và không còn là người của đại chúng nữa. thời đại chúng ta có nhiều hình thức "xách động" và "lợi dụng" con người, nhưng chúng ta không thể nào nhường bước cho bất cứ hình thức xách động nào. "Chúng ta đừng lầm tưởng rằng chúng ta phục vụ Tin Mừng, nếu chúng ta đang cố gắng làm 'tan loãng' đoàn sủng linh mục (diluer notre charisme sacerdotale) bằng cách để tâm thái qua vào những lãnh vực bao la của những vấn đề thế tục. Chúng ta đừng tưởng là mình biết phục vụ phúc âm, nếu chúng ta muốn 'tục hóa' hay nói cách khác, chúng ta muốn tục hóa cách sống và hành động của mình, nên cũng muốn xóa bỏ những dấu chỉ bên ngoài của ơn gọi linh mục. Chúng ta phải duy trì ý nghĩa của ơn gọi đặc biệt của mình, và 'đặc tính' đó phải được biểu lộ qua cả y phục bên ngoài. Chúng ta đừng xấu hổ về điều này" (Diễn từ cho Giáo sĩ Rôma ngày 09/11/1978). Đúng vậy, chúng ta sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian. Cuối cùng, mẫu người linh mục luôn luôn cần thiết cho loài người chính là người có ý thức về ý nghĩa đầy đủ của chức tư tế : người linh mục có đức tin sâu xa, biết can đảm tuyên xưng đức tin, biết cầu nguyện sốt sắng, biết giảng dạy với xác tín, biết phục vụ và thực hiện trong đời sống chương trình của "tám mối Phúc thật", biết yêu thương cách vô vị lợi, biết gần gũi hết mọi người, đặc biệt những người nghèo khổ.

Hoạt động mục vụ đòi chúng ta gần gũi với con người và những vấn đề của họ : vấn đề cá nhân, gia đình và xã hội. Nhưng hoạt động mục vụ đòi chúng ta khi sống gần gũi với mọi người và với tất ả những vấn đề trên, thì phải gần gũi với tư cách "một linh mục". Chỉ như thế, chúng ta mới còn là mình giữa tất cả những vấn đề này. Vậy nếu chúng ta thực sự phục vụ con người trong những vấn đề như thế, đôi khi lại là những vấn đề khó giải quyết, thì chúng ta sẽ duy trì được chân tính của chúng ta và thật sự sống trung thành với ơn gọi của mình. Chúng ta cần phải sáng suốt để cùng với mọi người đi tìm chân lý và công bình mà chiều hướng đich thực và vĩnh viễn chỉ có thể gặp trong Tin Mừng, nhất là trong chính Chúa Kitô. Phận sự của chúng ta là phục vụ cho chân lý và công bình dưới các khía cạnh của cuộc sống con người "ở đời này", nhưng chúng ta cũng phải luôn luôn nhìn các giá trị ấy trong viễn tượng của ơn cứu độ đời đời. viễn tượng đó cũng biết lưu ý đến những thành đạt trần thế của trí tuệ con người trong lãnh vực hiểu biết cũng như luân lý, như Công Đồng Vatican II đã nhắc trong Hiến chế Lumen gentium (x. số 38-39 và 42). Nhưng ơn cứu độ đời đời không đồng hóa với những thành đạt kia và, thực sự mà nói, nó vượt hẳn lên trên : "Điều mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe … đó là điều mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho tất cả những ai yêu mến Ngài" (1Cr 2,9). Các anh em trong đức tin cũng như những người không tin đang chờ đợi nơi chúng ta có đủ sức để chỉ cho họ viễn tượng này. Họ chờ chúng ta trở nên những chứng nhân đích thực, trở nên những người phân phát ơn Chúa, kẻ phục vụ cho Lời Chúa. Họ mong chờ chúng ta trở nên những con người cầu nguyện.

Trong hàng linh mục chúng ta, cũng có những anh em liên kết ơn gọi linh mục của mình, một cách đặc biệt, với một đời sống chuyên cần cầu nguyện và sám hối, trong những Dòng Tu hoàn toàn chiêm niệm. Ước gì các anh em đó nhớ rằng : tác vụ linh mục của họ, ngay dưới hình thức đó, cũng hướng về sự chăm sóc cao cả của Vị Mục Tử nhân lành, đó là sự chăm sóc cho phần rỗi của mọi người. hết thảy chúng ta hãy nhớ rằng : không ai được phép mang danh hiệu là người "làm thuê gánh mướn", nghĩa là "kẻ mà đàn chiên không thuộc về mình, nên khi thấy sói đến anh bỏ đàn chiên mà chạy, vì anh là kẻ làm thuê không thiết gì đến chiên" (Ga 10,12-13). Người Mục Tử nhân lành ý tứ lo cho con người "được sự sống và sống dồi dào" (Ga 10,10), ngõ hầu không một ai phải hư mất (x. Ga 17,12), nhưng được sống đời đời. Hãy làm sao để sự chăm sóc này thấm nhập vào tâm hồn chúng ta. Hãy cố gắng sống với sự chăm sóc đó. Ước gì sự chăm sóc đó là dấu hiệu đặc biệt của nhân cách chúng ta và làm nền tảng cho chân tính linh mục của chúng ta !

8. Ý nghĩa của độc thân

Xin cho tôi được đề cập đến vấn đề độc thân linh mục ở đây. Tôi chỉ bàn cách tổng quát vì vấn đề đã được bàn sâu rộng và đầy đủ trong các kỳ họp của Công Đồng, và sau đó, trong Thông điệp Sacerdotalis caelibatus, rồi cuối cùng tại khóa họp Thượng-hội-đồng Giám mục năm 1971. Những suy tư này đã tỏ ra cần thiết để trình bày vân đề cách kỹ lưỡng hơn và cũng để chứng minh sâu xa hơn cái ý nghĩa của quyết định mà Giáo Hội latinh đã đưa ra bao thế kỷ qua và hôm nay vẫn cố gắng trung thành, cũng như ước muốn trung thành mãi mãi trong tương lai. Tầm quan trọng của vấn đề thật lớn lao, dây liên lạc giữa vấn đề với ngôn ngữ Tin Mừng chặt chẽ, đến nỗi trong cụ thể, chúng ta không thể suy nghĩ theo những phạm trù khác với phạm trù của Thượng-hội-đồng giám mục và của Đức Phaolô VI. Chúng ta chỉ có thể tim hiểu sâu rộng hơn để trả lời cách ý thức hơn, vừa để giải thoát chúng ta khỏi những vấn nạn thường xuyên – như hiện nay vẫn còn – đang đặt ra chống lại sự độc thân của linh mục, vừa giải thoát ta khỏi những lối cắt nghĩa dựa vào các tiêu chuẩn xa lạ với Tin Mừng, với Truyền Thống và với Huấn Quyền của Giáo Hội, các tiêu chuẩn mà tầm chính xác và nền tảng "nhân học" tỏ ra đáng nghi ngờ và có giá trị rất tương đối.

Đàng khác chúng ta đừng sửng sốt trước những vấn nạn và chỉ trích đã gia tăng trong thời hậu-Công-đồng, nhưng nay dường như đã bắt đầu suy yếu dần ở đây đó. Sau khi đã trình bày với các môn đệ vấn đề từ khước hôn nhân "vì Nước Trời", Chúa Giêsu đã chẳng nói thêm một cách rất ý nghĩa : "Ai hiểu được thì hiểu" (Mt 19,12) đó ư ? Giáo Hội công giáo latinh theo gương chính Chúa Giêsu và tuân theo lời các Tông Đồ, cũng như tất cả truyền thống của mình, đã muốn và hiện nay vẫn còn muốn những ai lãnh bí tích Truyền chức đều phải từ khước "vì Nước Trời" như vậy. Tuy nhiên, truyền thống này vẫn đi song song với sự kính trọng các truyền thống khác nhau của các Giáo Hội khác. Thực vậy, truyền thống này cấu thành một đặc điểm, một điều riêng biệt, một phần gia tài của Giáo Hội công giáo latinh : Giáo Hội này đã được nhờ rất nhiều về quyết điịnh này, và sẽ tiếp tục trên con đường này, bất chấp những khó khăn mà Giáo Hội có thể gặp, bất chấp những triệu chứng yếu đuối và khủng hoảng ở một số linh mục. Chúng ta hết thảy ý thức là đang mang kho tàng này trong những bình sành (x. 2Cr 4,7), nhưng chúng ta vẫn biết là một kho tàng.

Vì sao là một kho tàng ? Có phải chùng ta muốn làm giảm giá trị của hôn nhân và của ơn gọi đời sống gia đình chăng ? hay là chúng ta muốn rơi vào cái tệ khinh thường thân xác và các công việc của thân xác ? Có phải chúng ta muốn hạ giá tình yêu của những người nam-nữ đi đén hôn nhân và đến sự phối hợp thân xác để "trở thành một xương thịt" (x. St 2,24 ; Mt 19,6) ? Làm sao có thể nghĩ và lý luận như vậy được, khi mà chúng ta biết, chúng ta tin và chúng ta tuyên bố như Thánh Phaolô, rằng hôn nhân là "một mầu nhiệm cao cả", vì có hệ tới Chúa Kitô và Giáo Hội (x. Ep 5,32) ? Đàng khác, không một nguyên do nào trong các lý do đôi khi người ta nêu lên để "thuyết phục" chúng ta về sự bất tiện của đời độc thân là hợp với chân lý mà Giáo Hội tuyên xưng và tìm cách thực hiện trong đời sống nhờ sự dấn thân mà linh mục đã chấp nhận trước khi thụ phong. Trái lại, ta thấy rằng nguyên do thiết yếu, riêng biệt và tương xứng đã được tích chứa trong chân lý mà Chúa Kitô đã công bố khi nói về sự từ khước hôn nhân "vì Nước Trời" và sau đó Thánh Phaolô lại tuyên xưng khi viết : "Mọi người trong Giáo Hội lãnh một ơn riêng" (x. 1Cr 7,7). Đời độc thân chính là một "ơn do Thánh Linh ban". Còn ơn gọi sống tình yêu chân thực và trung tín của vợ-chồng, trong khuôn khổ cao cả của bí tích Hôn phối, cũng bao gồm một ơn tương tự, tuy có khác biệt. ai cũng biết ơn này là nền tảng để xây dựng đại cộng đồng Giáo Hội, tức là Dân Chúa. Nhưng nếu cộng đồng này muốn đáp lại đầy đủ ơn gọi của mình trong Chúa Giêsu-Kitô, thì theo tỷ lệ cân xứng, trong cộng đồng cũng cần một "ơn" khác, tức là độc thân "vì Nước Trời" (Mt 19,12).

Vì sao Giáo Hội công giáo latinh nối liền hồng ân "độc thân" không nguyên với đời sống của những người chấp nhận một chương trình nhiệm nhặt của các lời khuyên phúc âm trong các Hội Dòng, mà còn liên kết với ơn gọi lên chức tư tế phẩm trật và thừa tác nữa ? Giáo Hội làm như vậy vì sự độc thân "vì Nước Trời" không nguyên là dấu chỉ cánh chung, nhưng còn mang ý nghĩa xã hội quan trọng để phục vụ Dân Chúa trong đời sống hiện tại. nhờ sống độc thân, linh mcụ trở nên "người cho kẻ khác" một cách khác với người nam đã phối hợp với người nữ trong hôn nhân để làm chồng, làm cha và như thế cũng là "người cho kẻ khác", nhất là trong khuôn khổ gia đình, nghĩa là người đàn ông đã kết bạn thì trở thành người của vợ mình, và cùng với vợ trở thành người của các con cái mà họ sinh ra. Khi từ khước làm cha theo kiểu đôi bạn, linh mục đi tìm một thiên chức làm cha theo kiểu khác và hầu như cũng làm mẹ nữa, theo ý nghĩa lời Thánh Tông Đồ khi nói về những người con mà ngài đã sinh ra trong đau khổ (x. 1Cr 4,15 ; Gl 4,19). Đây là những người con tinh thần, những người con mà Vị Mục Tử nhân lành đã trao cho ngài chăm sóc. Những người con này rất nhiều, nhiều hơn số một gia đình thường có. Ơn gọi của các linh mục thật lớn lao và Công Đồng dạy rằng đó là một ơn gọi phổ quát, vì phục vụ toàn Giáo Hội (x. Presbyterium ordinis 3, 6, 10, 12) và cũng là ơn gọi thừa sai. Thông thường nó gắn liền với việc phục vụ một cộng đoàn Dân Chúa rõ rệt, trong đó mỗi người phải được lưu ý, quan tâm, lo lắng và yêu thương. Để sẵn sàng phục vụ, quan tâm, lo lắng và yêu thương như thế thì cõi lòng của người linh mục phải tự do. Đời độc thân là dấu chỉ của sự tự do để phục vụ. theo dấu này, chức tư tế phẩm trật hay thừa tác trong Giáo Hội công giáo latinh lại càng liên hệ chặt chẽ với chức tư tế phổ quát của các tín hữu.

9. Thử thách và trách nhiệm

Người ta có thể coi như hậu quả của một sự hàm hồ nếu không muốn nói là ác ý, cái ý kiến khá phổ biến cho rằng đời độc thân của linh mục trong Giáo Hội công giáo latinh chỉ là một quy đinh đơn thuần do Giáo Hội đã áp đặt cho những người lãnh nhận bí tích Truyền Chức. Mỗi người chúng ta đều biết là không đúng như vậy. Tất cả những ai lên chịu Chức thánh đều cam kết giữ độc thân, một cách hoàn toàn ý thức và tự do, sau nhiều năm chuẩn bị, suy nghĩ và cầu nguyện. Họ chỉ quyết định sống độc thân sau khi xác tín rằng Chúa Kitô đã ban cho mình "hồng ân" này vì lợi ích Giáo Hội và để phục vụ nguời khác. Lúc ấy họ mới dấn thân giữ độc thân trọn đời. thật hiển nhiên là quyết định này không những buộc vì "luật" Giáo Hội đã ra, nhưng cũng vì trách nhiệm bản thân. Đó là trung thành trong lời hứa với Chúa Kitô và Giáo Hội. Sự trung thành với lời hứa còn là nhiệm vụ và là một trắc nghiệm về sự trưởng thành bên trong của linh mục, nói lên phẩm giá bản thân. Sự trung thành với lời hứa cùng Chúa Kitô và Hội Thánh, qua việc dấn thân ý thức và tự do vào đời độc thân vĩnh viễn, lại càng sáng tỏ hơn khi gặp thử thách gian nan, hoặc bị cám dỗ, vốn là những điều không miễn trừ cho con người linh mục, cũng như cho bất cứ người nam hay người tín hữu nào. Lúc ấy phải tìm sự nâng đỡ trong lời cầu nguyện sốt sắng hơn. Nhờ cầu nguyện, ta gặp lại trong thâm tâm lòng khiêm tốn và thành thực trước mặt Chúa và với lương tâm, vì chính nhờ đó sẽ có sức mạnh để chống đỡ những gì đang lung lay. Lúc ấy sẽ nảy sinh trong ta lòng tin tưởng như Thánh Phaolô : "Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi" (Pl 4,13). Những chân lý này được chứng minh bởi kinh nghiệm của nhiều linh mục và bởi những thực tại của đời sống. Sự chấp nhận ở độc thân là nền tảng cho lòng trung thành đích thực với chính bản thân, với phẩm giá và tư cách làm người của mình. Phải suy như vậy, nhất là trong cơn khủng hoảng, thay vì chạy đi xin ơn chuẩn theo "đường lối hành chánh", coi như không phải là vấn đề quan trọng của lương tâm và một trắc nghiệm minh chứng sự trưởng thành. Thiên Chúa có quyền đòi mỗi người trong chúng ta phải minh chứng điều đó, dù quả thực cuộc sống trần gian là một thời thử thách đối với tất cả mọi người. Nhưng Thiên Chúa cũng muốn chúng ta khải hoàn trong cơn thử thách đó, và Ngài ban sức mạnh cần thiết để ta chiến thắng.

Ở đây có lẽ phải thêm, và không thiếu lý do, để thêm rằng : sự dấn thân để sống trung thành trong đời sống vợ-chồng, do bí tích hôn nhân, cũng tạo nên những bó buộc như vậy theo mức độ riêng của bậc này, nhiều khi cũng là mảnh đất thử nghiệm và thử thách tương tự cho đôi bạn, vợ hay chồng : những "thử lửa" này cũng là phương thế để biết giá trị đích thực của tình yêu. Quả thực, tình yêu không chỉ là một tiếng gọi, nhưng còn là một nghĩa vụ. Cũng nên thêm rằng : các anh chị em sống bậc hôn nhân có quyền chờ đợi nơi chúng ta, các linh mục và mục tử, một gương sáng và chứng tá về sự trung thành với ơn gọi cho đến chết, chính là sự trung thành với ơn gọi mà ta vẫn theo đuổi khi lãnh nhận bí tích Truyền chức, cũng như họ phải trung thành với ơn gọi mà họ theo đuổi khi chịu phép hôn phối. Cả trong khuôn khổ và trong ý nghĩa này, chúng ta phải hiểu chức tư tế thừa tác của chúng ta như một sự "lệ thuộc" vào chức tư tế phổ quát của các tín hữu, nhất là của những người sống đời hôn nhân và gia đình. Như thế, chúng ta góp phần "xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô" (Ep 4,12) ; chẳng vậy, chúng ta làm cho cơ thể thiêng liêng bị suy yếu, thay vì góp phần xây dựng. Việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô liên kết thực sự với sự phát triển nhân phẩm của mỗi tín hữu – cũng như của mỗi linh mục theo múc độ ân sủng của Chúa Kitô. Sự tan rã cơ thể thiêng liêng của Giáo Hội chắc chắn không góp phần phát triển nhân phẩm, cũng không là bắng chứng của nhân phẩm này.

10. Hoán cải mỗi ngày

"Chúng ta phải làm gì ?" (Lc 3,10). Anh em thân mến, có lẽ hôm nay anh em hỏi như vậy, như xưa nhiều lần các môn đệ và những người nghe lời các ngài đã hỏi Chúa Kitô. Giáo Hội phải làm gì trong khi xem ra thiếu linh mục, nhất là ở một số quốc gia hoặc một ít miền trên thế giới ? Chúng ta phải đáp lại bằng cách nào đây trước những nhu cầu lớn lao trong công cuộc loan báo Tin Mừng ? Bằng cách nào ta có thể làm no thỏa những người đang đói khát Lời Chúa và Thánh Thể ? Giáo Hội quyết tâm duy trì sự độc thân linh mục như hồng ân đặc biệt vì Nước Thiên Chúa, thì cũng tuyên xưng niềm tin và nói lên niềm hy vọng vào Vị Thầy là Đấng Cứu Thể và là Phu Quân, đồng thời cũng hướng lòng tin cậy vào "Chủ mùa gặt" và là "Đấng ban phát ơn lành" (Mt 9,33 ; x. 1Cr 7,7). Quả thật, "mọi ơn lành và phúc lộc hoàn hảo đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú" (Gc 1,17).

Về phần mình, chúng ta không thể làm suy yếu lòng tin cậy này bằng sự nghi ngờ hay hèn nhát của chúng ta. Vì thê, chúng ta cần hoán cải mỗi ngày. Chúng ta biết : đây là một đòi hỏi cơ bản mà Tin Mừng đã nhắn nhủ mọi người (x. Mt 4,17 ; Mc 1,15) và hơn ai hết, chúng ta phải coi như nhắn nhủ chính mình. Nếu chúng ta có nhiệm vụ giúp đỡ người khác hoán cải, thì càng phải làm như vậy đối với đời sống riêng, nghĩa là phải hoán cải không ngừng. ghoán cải có nghĩa là trở lại với ân sủng Chúa đã ban cho ta khi Ngài gọi ta, suy gẫm lòng nhân hậu và tình thương vô biên của Chúa Kitô đã nỏ lời với từng người bằng cách gọi đích danh chúng ta : Hãy theo Thầy ! Chúng ta hoán cải, nghĩa là "trả lẽ" về việc phục vụ, về lòng nhiệt thành, về sự trung tín, trước mặt Chúa của lòng chúng ta, vì chúng ta là "tôi tờ của Chúa Kitô và có phận sự quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa" (1Cr 4,1). Chúng ta hoán cải, nghĩa là "trả lẽ" về những sơ suất và tội lỗi, những hèn nhát, về đức tin và đức cậy yếu kém, về những suy tưởng hoàn toàn "theo thế gian" mà không "theo ý Thiên Chúa". Về điểm này, hãy nhớ lời Chúa Kitô cảnh giác chính Thánh Phêrô (x. Mt 16,23). Chúng ta hoán cải, nghĩa là đi tìm lại ơn tha thứ và sức mạnh bởi Thiên Chúa trong bí tích giao hòa và cũng là không ngừng bắt đầu lại để tiến lên mỗi ngày, để làm chủ bản thân, thưc hiện những chinh phục thiêng liêng, cho đi cách vui vẻ, vì "Thiên Chúa yêu thương những người cho đi cách vui lòng" (2Cr 9,7).

Chúng ta hoán cải, nghĩa là "cầu nguyên liên lỉ, không mỏi mệt" (Lc 18,1). Một cách nào đó, việc cầu nguyện là điều kiện tiên quyết và tối hậu của sự hoán cải, của sự tiến đức, của sự thánh thiện. trong những năm gần đây – ít là ở một số môi trường – người ta bàn tán có khi thái quá về chức tư tế, về "chân tính" của linh mục, về giá trị sự hiện diện của linh mục trong thế giới hôm nay, và ngược lại, có lẽ người ta đã ít cầu nguyện. Thiếu sự hăng say để thi hành chính chức linh mục nhờ lời cầu nguyện, để làm cho động lực Tin mừng có kết quả, để củng cố chân tính linh mục. Chính việc cầu nguyện xác định phong cách chính yếu (style essentiel) của chức linh mục ; thiếu cầu nguyện, phong cách ấy sẽ méo mó và biến dạng. Việc cầu nguyện giúp ta luôn luôn tìm lại ánh sáng mà ngay từ ngày đầu của đời linh mục đã hướng dẫn ta, và còn tiếp tục hướng dẫn, cả những khi xem ra nó đã bị tan trong bóng tối. Việc cầu nguyện giúp ta hoán cải không ngừng, giúp ta hằng vươn lên cùng Chúa, là điều cần thiết khiến ta mới hướng dẫn người khác đến với Ngài được. Cầu nguyện giúp ta tin, cậy, mến, cả khi bị cản trở bởi con người yếu đuối.

Hơn nữa, việc cầu nguyện giúp chúng ta luôn khám phá những chiều kích của Nước Thiên Chúa mà mỗi ngày chúng ta cầu xin bằng lời Chúa Kitô dạy "xin cho Nước Cha trị đến". Lúc ấy, chúng ta thấy chỗ đứng của mình trong việc thực hiện lời cầu xin này, và cũng thấy là thực sự cần có chúng ta để lời cầu xin này được thực hiện. Khi cầu nguyện, ta sẽ thấy rõ hơn đâu là "những đồng lúa chín vàng đang chờ gặt" (Ga 4,35) và hiểu rõ hơn ý nghĩa lời Chúa phán : "Vậy coác con hãy xin Chủ sai thợ gặt đến" (Mt 9,38).

Chúng ta phải gắn liền việc cầu nguyện với sự không ngừng rèn luyện bản thân. Đó là việc huấn luyện thường xuyên. Văn kiện của Thánh Bộ Giáo Sĩ (x. Thư luân lưu ngày 04/11/1969) đã nhắc đến việc đào luyện như vậy cả bên trong, tức là ăn sâu vào đời sống thiêng liêng của linh mục, cả về mục vụ và trí thức (triết học và thần học). Vậy nếu hoạt động mục vụ, việc rao giảng Lời Chúa và tất cả tác vụ của linh mục tùy thuộc vào cường độ đời sống nội tâm, thì chính đời nội tâm lại phải được nâng đỡ bời sự ân cần học hỏi. Không được dừng lại nơi những gì đã học nơi chủng viện hay cả ở đại học, mà hiện nay Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo đang quyết tâm hướng các các linh mục lên trình độ đại học. Tiến trình học vẫn phải được kéo dài suốt cả cuộc đời, nhất là vào thời đại hôm nay – ở rất nhiều nơi – nổi bật một đà phát triển chung về dân trí và văn hóa. Đứng trước những người đang hướng đà phát triển này, chúng ta là những nhân chứng của Chúa Giêsu-Kitô thùi càng phải có khả năng tương xứng. Như những thầy dạy chân lý và luân lý, chúng ta phải minh chứng cách khả tín và hữu hiệu về niềm hy vọng đang làm phấn khởi chúng ta (x. 1Pr 3,15). Điều này cũng thuộc về tiến trình hoán cải hằng ngày, qua đó chúng ta trở lại với tình yêu nhờ chân lý.

Anh em thân mến, anh em là những người "đang chịu khó nhọc, nắng nôi suốt ngày" (Mt 20,12), là những người đã tra tay vào cày và không ngoảnh lại đàng sau (x. Lc 9,62), và có khi lại là những người đang nghi ngờ về ý nghĩa ơn gọi và giá trị việc phục vụ của mình : xin anh em hãy nghĩ đến những nơi đang khắc khoải mong chờ được một linh mục mà từ nhiều năm, họ đã thiếu vắng và không ngừng ao ước sự hiện diện của ngài. Nhiều khi người ta tụ họp trong một thánh đường bỏ trống, rồi đặt trên bàn thờ một dây các phép mà họ còn giữ được, đoạn đọc kinh nguyện của phần phụng vụ Thánh Thể ; và ở đây vào lúc tương ứng với lúc truyền phép, thì họ im lặng hoàn toàn, có khi bị gián đoạn bằng những tiếng khóc nức nở… họ khát mong được nghe những lời mà chỉ có môi miêng linh mục mới có thể đọc cách hữu hiệu. Họ ước ao rước lễ mà chỉ có thể nhận được nhờ tác vụ linh mục, và chờ đợi với âu lo để được nghe lời xá giải : cha tha tội cho con ! họ cảm thấy thấm thía sự thiếu vắng linh mục… Những nơi như vậy không thiếu trên thế giới. Vậy nếu ai trong anh em còn nghi ngờ về ý nghĩa của chức linh mục và nghĩ rằng xét về "mặt xã hội" thiên chức này là vô hiệu hay vô ích, thì xin hãy nghĩ đến tất cả những điều trên đây.

Chúng ta phải hoán cải mọi ngày, phải khám phá lại ơn chính Chúa Kitô đã ban trong bí tích Truyền chức, nhờ đào sâu tầm quan trọng trong sứ mạng cứu độ của Giáo Hội và suy nghĩ về ý nghĩa cao quý của ơn gọi chúng ta đã nhận dưới ánh sáng của sứ mạng này.

11. Mẹ của các linh mục

Anh em thân mến, khởi đầu trách vụ Giáo Hoàng, tôi dâng tất cả anh em cho Mẹ Chúa Kitô cũng là Mẹ chúng ta một cách đặc biệt : Mẹ của các linh mục. Quả thực, người môn đệ yêu quý là một trong Mười Hai tông đồ, tại nhà Tiệc Ly đã nhận lệnh : "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy" (Lc 22,19), thì cũng chính là người đã được Chúa Kitô từ trên thập giá trao phó cho Mẹ của Ngài : "Này là con Mẹ" (Ga 19,26). Bằng những lời này do Chúa đang hấp hối thốt ra, người mà trong ngày thứ Năm Tuần Thánh đã nhận quyền tế lễ, thì cũng là người đã được trao phó làm con của Mẹ. Vì thế tất cả chúng ta đã được cùng một quyền ấy bởi bí tích Truyền chức linh mục, thì theo một ý nghĩa nào đó, chúng ta là những người thứ nhất được quyền nhận Người làm Mẹ chúng ta. Tôi ước ao tất cả anh em, cùng với tôi, lại được thấy nơi Đức Maria người Mẹ của chức linh mục, chức mà chúng ta đã nhận được từ Chúa Kitô. Hơn nữa, tôi ước ao anh em đạc biệt phó thác cho Đức Mẹ chính chức linh mục của anh em. Xin cho phép tôi được, long trọng cùng với sự đơn sơ và khiêm tốn, phó dâng cho Mẹ Chúa Kitô mỗi người trong anh em, không trừ một ai. Anh em yêu quý, ít là tôi xin mỗi người hãy tự dâng mình, tùy theo con tim mình, nhất là theo lòng mến đối với Chúa Kitô Linh Mục, và cũng tùy theo sự yếu đuối song song với lòng ước muốn phục vụ và tiến bước đến sự thánh thiện. Tôi xin mời anh em.

Giáo Hội hôm nay nói về mình nhất là trong Hiến chế tín lý Lumen gentium. Trong chương cuối, Giáo Hội cùng ngước mắt lên Đức Maria như là Mẹ Giáo Hội, vì chính Giáo Hội tự xưng mình là Mẹ và muốn trở nên người mẹ bằng việc sinh loài người cho Thiên Chúa để được cuộc sống mới (x. chương VIII). Ôi anh em yêu quý, anh em được liên kết vào công cuộc này của Thiên Chúa chặt chẽ biết dường nào. Ôi công cuộc này đã được ghi tạc sâu xa biết bao vào ơn gọi, vào tác vụ và vào sứ mạng của anh em. Vì vậy, giữa Dân Thiên Chúa đang nhìn lên Đức Maria với tràn đầy lòng mến và hy vọng, anh em càng phải nhìn Mẹ với lòng cậy trông yêu mến khác thường. Quả thực, anh em phải rao giảng Chúa Kitô cũng là Con của Mẹ. ai sẽ thông ban cho anh em cái chân lý về Chúa Kitô hơn là Đức Mẹ ? Anh em hãy lấy Chúa Kitô mà nuôi dưỡng người khác. Ai là người có thể giúp anh em ý thức được về việc anh em đang làm, nếu không phải là chính người Mẹ đã nuôi dưỡng Chúa Kitô. "Lạy Mình Thánh Chúa Kitô, sinh bởi Đức Nữ đồng trinh Maria, chúng con thờ lạy Chúa". Chức tư tê thừa tác có cái khía cạnh lạ thường và rất sâu xa xích chúng ta lại gần Thánh Mẫu Chúa Kitô. Vậy chúng ta hãy cố gắng sống khía cạnh đó. Nếu ở đây đucợ phép đưa kinh nghiệm riêng vào, thì tôi xin nói : khi viết cho anh em, tôi đã đưa vào kinh nghiệm bản thân tôi.

Đang khi chia sẻ với anh em nhưng suy tư trên vào chính những ngày tôi bắt đầu phục vụ toàn thể Giáo Hội, tôi không ngừng xin Thiên Chúa đổ tràn phúc lành và ân sủng trên anh em là những linh mục của Chúa Kitô. Phần tôi, để bảo đảm và chứng tỏ sự hiệp thông trong lời cầu nguyện, với tất cả tấm lòng, tôi ban phúc lành cho anh em nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Anh em hãy lãnh phép lành này. Hãy nhận lấy những lời của người Kế vị mới này của Thánh Phêrô, của chính Phêrô mà Chúa đã truyền : "Còn con, khi đã trở lại, hãy làm vững cho các anh em con" (Lc 22,32). Xin anh em luôn luôn cùng với toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho tôi, để tôi đáp lại những đòi hỏi của chức vụ bác ái ưu việt mà Chúa đã đặt làm nền tảng cho sứ mạng của Phêrô khi phán : "Hãy chăn các chiên của Ta" (Ga 21,16).

Làm tại Vatican ngày 08 tháng tư năm 1979, chúa nhật Lễ Lá, năm thứ nhất nhiệm kỳ Giáo hoàng của tôi.

IOANNES PAULUS II


Năm Linh Mục