Lòng thương xót Chúa (3): Lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ
qua chính tên của Ngài
Câu chuyện sáng tạo đã diễn tả lòng thương xót của Thiên
Chúa, Đấng sau đó đã mặc khải cho Mô-sê tên của Ngài trong biến cố ở tại bụi
gai trên núi Hô-rép. Nơi đây, Thiên Chúa đã tự mặc khải là Thiên Chúa của
Ap-ra-ham, của I-sa-ác, và của Gia-cóp (Xh 3, 6). Thiên Chúa của các tổ phụ này
luôn nhìn đến những nối thống khổ của dân Ngài, và lắng nghe tiếng kêu than của
họ: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng
kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta
xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một
miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật” (Xh 3, 7-8). Thiên
Chúa sẵn sàng đón nhận nỗi khốn cùng của con người, Ngài nói, Ngài hành động và
can thiệp, Ngài giải phóng và cứu độ. Công thức “JHWH,” Đấng dẫn đưa dân Ngài
ra khỏi Ai-cập, trở thành một cách diễn tả niềm tin nền tảng trong Cứu Ước: “Ta
là JHWH-Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi
cảnh nô lệ” (Xh 20,2).
Bốn mẫu tự này trong tiếng Híp-ri được tranh cãi và giải
thích rất nhiều rồi, nhưng với người Do Thái đạo đức thì bốn mẫu tự này rất là
thánh thiêng, đến nỗi họ không được phép phát âm bốn mẫu tự đó hay từ đó. Trong
bản văn tiếng Việt của nhóm các Giờ Kinh Phụng Vụ, bốn mẫu tự này được chuyển
ngữ là Ta là Đấng hiện hữu. Cha Nguyễn Thế Thuấn chuyển ngữ là Ta có sao Ta có
vậy. Bản văn đại kết của tiếng Đức Einheitsuebersetzung, dịch là Ich bin der
ich bin da. Trong bản TOB của tiếng Pháp là: Je suis qui je serai. Còn trong
bản tiếng Anh của the New Jerusalem Bible thì: I am he who is. Theo Kasper,
trong tư tưởng của người Do Thái, sein (động từ là – hiện hữu) không diễn tả
một trạng thái yên tĩnh, mà diễn tả một năng động lớn. Nói khác đó, trong tư
tưởng của người Do Thái, sein có nghĩa là một sự hiện hữu cụ thể có nhiều ảnh
hưởng và ảnh hưởng mạnh mẽ. Như thế, việc mạc khải của Thiên Chúa: ta là Đấng
hiện hữu, diễn tả Thiên Chúa hiện hữu trên con đường cuộc sống của con người,
và Ngài ở với con người trong những lúc con người rơi vào hoàn cảnh khó khăn.
Ngài lắng nghe những lời kêu than của con người. Sự mạc khải tên của Thiên Chúa
là một xác nhận cho giao ước giữa Thiên Chúa và con người: “Ta sẽ nhận các
ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa. Các
ngươi sẽ biết rằng Ta, Đức Chúa, là Thiên Chúa các ngươi” (Xh 6,7). Sự hiện hữu
của Thiên Chúa là sự hiện hữu cho dân Ngài và với dân Ngài. Từ ngữ lòng thương
xót chưa xuất hiện trong mặc khải của Thiên Chúa trên núi Hô-rép, nhưng đã được
diễn tả qua tên của Thiên Chúa, Đấng yêu thương và hiện hữu cho và với dân
Ngài.
Tiếp nối với biến cố mạc khải ở Hô-rép là mặc khải ở núi
Si-nai. Bối cảnh của câu chuyện là dân Ít-ra-en được Chúa giải thoát khỏi sự nô
lệ ở Ai-cập, và Thiên Chúa trao cho dân Ngài Mười Điều Răn (Xh 20, 1-21). Nhưng
ngựa quen đường cũ, dân Ít-ra-en lại bội tín và bất trung, chạy theo các thần
thánh lạ lẫm, và thờ lạy con bò vàng. Thiên Chúa đã giận dữ và muốn trừng phạt
dân Ít-ra-en. Mô-se đã cầu xin với Thiên Chúa, và nhắc Ngài nhớ đến lời hứa của
Ngài. Ông đã cầu xin Chúa lòng thương xót và ân sủng: “Xin Ngài thương cho con
được thấy vinh quang của Ngài”. Một lần nữa Chúa đã mạc khải tên của Ngài:
“Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là
Đức Chúa trước mặt ngươi. Ta thương (hen) ai thì thương xót (rachamin) ai thì
xót” (Xh 33, 19). Lòng thương xót của Thiên Chúa ở đây được diễn tả với quyền
năng và sự tự do tuyệt đối của Ngài. Thiên Chúa không quen với bất cứ cái khung
đóng kín nào, chuẩn mực nào, ngay cả sự công bình theo nghĩa bình thường. Lòng
thương xót của Thiên Chúa tương hợp với chính tên của Ngài. Ngài ra lệnh cho
Mô-se hoàn thành bản Mười Điều Răn, Ngài không để cho dân của Ngài, dù bất
trung và bội tín, rơi vào hố sâu của khổ đau mà không có lối ra. Thiên Chúa làm
mới giao ước của Ngài với dân Ngài, và ban cho dân những cơ hội mới. Thiên Chúa
làm điều này với tất cả sự tự do và đó là ân sủng hoàn toàn dành cho dân Ngài.
Biến cố mạc khải thứ ba về tên của Thiên Chúa cho Mô-se vào một buổi sáng khác.
“Đức Chúa ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là
Đức Chúa. Đức Chúa đi qua trước mặt ông và xướng: Đức Chúa! Đức Chúa!
Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh
34, 5-6). Trong lần mạc khải này, lòng thương xót còn được diễn tả với sự trung
tín của Thiên Chúa. Thiên Chúa trung tín với dân Ngài, dù dân Ngài có bội tín
đến mấy. Đó là bản chất đích thật của Thiên Chúa: nhân hậu giàu lòng thương xót
và trung tín. Trong các sách khác của Cựu Ước đều nhắc đến Thiên Chúa với lòng
xót thương và trung tín.
Lm. GB. Nguyễn Ngọc
Thế, SJ