Hướng Sống Giáo Hội Hiện Đại: Sứ Mạng Dân Thiên Chúa
Giữa Trần Gian
Lm. Giuse Vũ Kim Chính, S.J.
(daminhvn.net)
I. Nhập Ðề
Khi đề cập tới chủ đề Giáo Hội, là ta mặc nhận những nền tảng căn
bản của Giáo hội học như: nguồn gốc và bản chất của Giáo hội. Từ đó ta mới có thể phản tỉnh tới sứ mạng của Giáo hội trong lòng
trần thế hiện nay. Và tất cả những cơ cấu Giáo hội không ngoài mục đích
nhằm thực hiện và chu toàn sứ mạng này. Thiết nghĩ
không cần phải nghiên cứu hay đào sâu về Giáo hội học, chúng ta ai cũng có thể
biết được nguồn gốc của Giáo hội là chính Ðức Kitô. Ngài đã được “sai đi”, tức
là được Chúa Cha giao cho trọng trách cứu thế và được Chúa Thánh Linh xức dầu
thánh hiến để hoạt động trong một “địa chỉ” đặc thù: “mang tin mừng cho kẻ
nghèo khó, loan tin giải phóng cho kẻ bị cầm tù, đem ánh sáng cho kẻ đui mù,
đem tự do cho kẻ bị áp bức và loan truyền năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc. 4,
18f). Nhờ vậy, Ngài đã đánh thức trần gian, đã dẫn trần gian nhắm theo tiêu chuẩn “Tám Mối Phúc Thật” để dần dần trở thành
Nước Chúa. Sự hiện hữu của Giáo hội được bắt nguồn từ mạch
sống này và bản chất của Giáo hội là cụ thể hóa sứ mạng của Ðức Kitô trong
những thời đại và môi trường khác nhau. Như Chúa Giêsu được sai tới để
nhập thể và nhập thế hầu loan truyền và thực hiện Nước Chúa giữa trần gian,
Giáo hội cũng được Ðức Kitô kêu gọi và phái đi để làm chứng nhân của Ngài, hầu
mang ơn cứu độ và tin mừng cho tới “cùng trái đất”. Như vậy,
Giáo hội phải nhập thế mới có thể sống giữa trần gian, mặc dầu “không thuộc về
trần gian”. Chính vì thế mới trở thành “Bí Tích” thánh
hóa trần gian. Nói cách khác, như Chúa Giêsu khi nhập thế vẫn luôn thông
hiệp với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh, Giáo hội là Dân Chúa sống giữa trần gian:
một bên là cộng đoàn thánh được Chúa chọn sống trong sự hiệp thông của chúa Ba Ngôi, nhưng đàng khác cũng là thành phần của trần gian, chia sẻ vận
mệnh của trần gian trong mọi nơi và mọi thời. Giáo hội qua gần hai ngàn
năm đã lưu truyền tới tay chúng ta hôm nay để chúng ta
luôn tiếp tục thân phận “hành hương” hầu làm chứng nhân cho Ðức Kitô cho tới
ngày Người tái hiện.
Ðể thực thi được sứ mạng làm chứng nhân của Ðức Kitô giữa
trần gian và cho trần gian, mặc dù không thuộc về trần gian, chúng ta phải hiểu
chính chúng ta cũng như hiểu trần gian. Hiện giờ chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào? Nếu biết rõ
được “địa chỉ” này, chúng ta mới hy vọng dùng cách thế nào cho hợp thời hợp
cảnh mà đem Tin Mừng đến cho thế gian một cách hữu hiệu hơn. Cũng may cho chúng
ta là không phải tự mình vò đầu bóp trán để phát hiện ra những đường hướng và
chương trình này, nhưng là do chính Công Ðồng Vatican II đã vạch ra cho chúng
ta những phương hướng cụ thể đó. Dầu vậy, chúng ta cũng cần phải phản tỉnh để
tự khám phá ra đường hướng này, nhờ đó chúng ta một bên nhận ra Cộng Ðoàn Dân
Chúa trong sự liên hệ Hiệp Thông và đàng khác trong tinh thần phụng sự với
những khía cạnh mới, trọng tâm mới, nếu chúng ta đứng trên quan điểm Dân Chúa
là chứng nhân giữa trần gian và hiện hữu vì trần gian như Thượng Hội Ðồng Giám
Mục Thế Giới 1987 và Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh trong Tông
Huấn về “Ơn gọi và sứ mệnh của người giáo dân trong Giáo hội và giữa trần gian”.
II. “Ðịa chỉ” của Giáo hội hiện đại
Mặc dầu không chủ trương Xã Hội Học Thực Nghiệm là nền tảng để
định đoạt Tri Thức Luận, nhưng qua những bảng thống kê như là những phương tiện
chính xác giúp ta có thể nương theo sự phản tỉnh của các thần học gia để truy
tìm “địa chỉ” của Giáo hội hiện đại. Lẽ đương nhiên, chúng ta
cũng có thể tự phản tỉnh và xét xem các thần học gia đó nêu lên những nhận định
có xác thực không? Ðó cũng là phần rất quan trọng, nếu
không muốn nói là phần quan trọng nhất.
Theo bảng thống kê của Giáo hội năm 1985, số Công giáo theo từng địa phương có tỷ lệ như sau:
Á Châu: 72,141,000 (8,47%)
Âu Châu:
278,047,000 (32,63%)
Ðại Dương Châu:
6,444,000 (0,76%)
Bắc Mỹ Châu:
64,475,000 (7,57%)
Phi Châu:
72,658,000 (8,53%)
Tổng cộng: 851,953,000 (100%)
Nếu đem con số này sánh với một vài bảng thống kê của những năm
trước, chúng ta sẽ phát hiện một sự kiện đáng suy nghĩ. Năm
1900, số tín hữu Công giáo sống ở Âu Châu và Bắc Mỹ là 77%. Ðến năm
1970, con số đó đã hạ xuống chỉ còn 49,14% so với số
dân Công giáo sống ở khắp hoàn cầu. Và cứ theo đà này, theo nhà thần học W.
Buhlmann ước lượng thì năm 2000, khoảng 60% số dân Công giáo sẽ sống ngoài Âu
Châu và Bắc Mỹ, nghĩa là số tín hữu Công giáo sẽ sống ở Nam bán cầu và thê giới
thứ ba nhiều hơn, nếu không kể tới những nơi dân chúng có thể đến cư ngụ vì
công ăn việc làm, thì sự ước lượng trên có thể sai lệch như dân số ở Bắc Mỹ và
Âu Châu không gia tăng, ngược lại số người ly khai Giáo hội có thể tăng. Dĩ nhiên đây chỉ là một giả thuyết mà thôi.
Nhưng bảng thống kê trên là những hiện tượng thúc đẩy nhiều nhà
thần học phản tỉnh lại “địa chỉ” của Giáo hội trong lịch sử của Giáo hội vừa
qua cũng như nêu lên những nhận xét về Giáo hội trong tương lai. Trong những
nhà thần học trên, chúng ta chú ý đến ba người tiêu biểu nhất là: Karl Rahner,
Johann Baptist Metz và Walter Buhlmann. Cả ba ông đều có một nhận định như sau:
“Giáo hội Công giáo đang đứng tước ngưỡng cửa của một thời đại mới”. Nói cách chung, đứng trên quan điểm lịch sử Giáo hội, ba ông đều cho
rằng Giáo hội Công giáo đang bước sang thời kỳ thứ ba. Trong giai đoạn đầu,
tương đối ngắn, Giáo hội sơ khởi phát triển từ Giáo hội Do Thái qua Giáo hội
Cận Ðông để trở thành Giáo hội Latin (Lamã). trong giai đoạn này, Giáo hội đã
dần dần gọt bỏ “chủ nghĩa Do Thái” để “bản vị hóa” (inculturation) qua ảnh
hưởng của nền văn hóa Hy Lạp. “Công Ðồng Jerusalem” và Thánh Phaolô là những
hình ảnh tiêu biểu của giai đoạn này: Giáo hội sơ khai đã gặp phải những khó
khăn do sự ngộ nhận là đồng hóa Giáo hội với một nền văn hóa và tập quán của
một dân tộc, nên khó cởi mở. Nhưng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh cũng như
do sự cương quyết của một số nhà truyền giáo như Phaolô, Giáo hội đã tương đối
thành công trong việc “bản vị hóa” chính mình. Ðây là một bài
học quí giá cho nhà truyền giáo sau này.
Ở giai đoạn thứ hai, Giáo hội đã trở thành Giáo hội Tây
phương. Mở đầu cho giai đoạn này là biến cố
Hoàng Ðế La mã Constantin đã qui hóa Kitô hữu, đưa Giáo hội từ một cộng đoàn
chứng nhân bị đàn áp trở thành một quốc giáo. Chúng ta không phủ nhận được đây
là một thời vàng son của giáo quyền, nhưng đồng thời cũng không thể không chú ý
tới sự lu mờ dần vai trò Giáo hội là Cộng đoàn Chứng nhân (Christianity) và
thay vào đó là một Ðế quốc Giáo (Christiandom). Theo đó Giáo hội khó tránh được
những lúc đồng hóa với thế quyền hay tranh chấp với thế quyền. Những kinh
nghiệm đau thương này không khỏi không ảnh hưởng tới những phương pháp giải
quyết những căng thẳng nội bộ và công cuộc truyền giáo sau này, nhất là khi
phải đương đầu với những vấn nạn do những nền văn hóa khác nêu ra. Tóm lại, vì
coi mình là “Xã hội toàn mỹ” và là “Bảo tàng Chân lý” (ở đây nếu phân biệt rõ
ràng lý thuyết và thực hành có lẽ sẽ tránh được nhiều hiểu lầm), nên khó nhận
được mức quan trọng của những nền văn hóa khác cũng như những nền tư tưởng.
Giai đoạn ba, Giáo hội đang trở thành Giáo hội Ðại đồng,
hiệp nhất trong đa dạng. Giai đoạn này chính thức bắt
đầu với Công Ðồng Vatican II: Giáo hội nhận ra tầm mức quan trọng của mình là “Ánh
Sáng thế gian”. Vì vậy, Giáo hội không thể sống “ngoài” hay
sống “trên thế gian được, nhưng phải sống “giữa” những nền văn hóa khác nhau.
Như vậy, Giáo hội nhập thể không phải theo ý niệm “hai vương quốc” (thần thế)
những là “bản vị hóa” để những phần tử mình hiện hữu “giữa” thế gian hầu thánh
hóa thế gian. Trong giai đoạn Giáo hội đại đồng này, ba thần
học gia vừa nêu trên, mỗi người đều nhấn mạnh đến một khía cạnh khác nhau.
K. Rahner vì quan tâm cho Giáo hội tương lai, ông đã khẳng định niềm tin (như
vấn đề giữa khoa học tự nhiên và thần học, bàn về “status naturae lapsae…”) hay
có liên quan tới giáo sĩ (độc thân, phụ nữ…)v.v…. mặc
dù những thần học phản tỉnh này có tính cách thảo luận hơn là đề nghị những
giải đáp. Nhưng đàng khác ông đã bộc lộ được những “giấc mơ” cho giáo hội tương
lai, nhất là về việc cải tổ cơ cấu Giáo hội, làm cho Giáo hội trở thành một “cộng
đoàn” thực sự. Còn ông J.B.
Trong khi đó, thần học gia W. Buhlmann là một nhà tuyền giáo
học, đặc biệt quan tâm đến vai trò các xứ truyền giáo trong Giáo hội. Ông không ngần ngại nhấn mạnh: năm 2000 sẽ là những năm thuộc về
Giáo hội Truyềøn giáo. Nhưng vấn đề chính của Giáo hội trong
tương lai là những vấn đề đa dạng, nên không thể dùng quan điểm nhất dạng để
giải quyết được. Những vấn đề như “công lý”, “bản vị hóa”, “đối thoại
với những tôn giáo khác”, “tục hóa”… được coi là những vấn đề chính yếu trong
Giáo hội tương lai. Tóm lại, dù có những quan tâm khác nhau về tương lai của
Giáo hội, nhưng cả ba nhà thần học đều công nhận rằng: những suy nghĩ và những
phản tỉnh này đều do Công Ðồng Vatican II khởi xướng và chỉ dẫn. “Hành động
khai phóng đối với cái nhìn đa dạng cần thiết về tôn giáo cũng như về văn hóa
là một nguồn mạch tuôn ra sức sống dồi dào cho Giáo hội và cho khoa giáo hội
học trong hơn 25 năm sau công đồng vừa qua. Hành động này bắt nguồn từ một thái
độ can trường của Thánh Phaolô để đối diện với mọi hậu quả phát xuất từ những
lãnh vực khác nhau trong đời sống Giáo hội, nhưng đồng thời không phản bội đời
sống đức tin đồng nhất và bản chất bất di dịch của đức tin đó”.
III. Ðường hướng của
Công Ðồng Vatican II
Ðường hướng của Công Ðồng Vatican II là Kim Chỉ
Công đồng Vatican II là một biến cố đầu tiên trong Giáo hội
Công giáo đã quy tụ được số giáo phụ đông đảo nhất (3,058 vị so với Công đồng
Nhắc tới một vài dữ kiện quan trọng trên, chúng ta thấy rằng Công
Ðồng Vatican II không những chỉ xác định lập trường hay chủ trương hợp nhứt
trong đa dạng, nhưng thực sự đã khai phóng một đường hướng “thực hành thần học
mới”: lấy dấu hiệu thời đại làm khởi điểm cho phản tỉnh thần học và mục vụ, rồi
đưa ra những lý thuyết (tức là những văn kiện) để hướng dẫn thực hành. Nếu nhìn
lại những tài liệu ghi lại sự thành hình của các văn kiện, và cuối cùng thành
những hiến chế và sắc lệnh của Công Ðồng, chúng ta sẽ thấy rõ đó là kết quả của
các Tiểu Ban nổ lực thu thập tài liệu, cộng thêm những tranh luận dựa trên
những “dấu hiệu thời đại” để hợp thời hóa. Tóm lại, kết quả
này được thành hình là nhờ việc biết tổng hợp cả hành động lẫn lý thuyết vậy.
Donal Kerr đã ghi lại hình ảnh “đang xảy ra” ở tại Roma lúc đó: “Khung cảnh
sinh hoạt quan trọng chưa từng có: nhiều giáo phụ đồng loạt cùng nhau cắp sách
đến trường để học hỏi những vấn đề thần học mới, đàng khác nhiều nhà chuyên môn
được mời về Roma để lắng nghe và phát biểu ý kiến trong những phiên họp khoáng
đại… Roma đã thành một hiện trường hội nhập “phản tỉnh” hay ít nhất là “lắng
nghe” vấn đề thần học quan trọng. Nếu đường hướng thực thi thần học này trở nên
mẫu mực cho những cuộc hội họp khác thuộc phạm vi nhỏ hơn như trong các địa
phận hay xứ đạo, thì có lẽ giáo hội địa phương sẽ trở thành sống động hơn
nhiều, vì không những lý thuyết và thực hành trở thành một thực thể bất khả
phân, hơn nữa mỗi người tham dự đều tích cực đóng góp tùy theo phạm vi “chuyên
môn” của mình; đồng thời cũng nhận lãnh những linh cảm của người khác. Kinh nghiệm “đặc biệt” quí giá của các giáo phụ phải là mẫu mực mới
(paradigm) của các cộng đoàn dân Chúa, thì việc hợp tác giữa các tầng lớp mới
thực thi đúng đường hướng của Công đồng được. “Sự liên
quan thực tại giữa thực trạng linh động và thực trạng xã hội nơi chúng ta phục
vụ là một nguồn mạch căng thẳng không ngừng trong thuyết lý giáo hội xã hội học
và trong chính cuộc sống của Giáo hội”.
Công đồng Vatican II là một Công đồng đầu tiên không có đề mục nào
lên án tuyệt thông. Nét độc đáo trong Giáo hội nói lên
tính cách đặc thù chủ trương dùng đối thoại như là một phương tiện cần thiết để
hợp nhất Kitô giáo, cũng như liên lạc với các tôn giáo khác, kể cả việc giao
tiếp với những người vô thần. Nguyên tắc bình đẳng (par cum
pari) và tôn trọng lẫn nhau là điều kiện thiết yếu để có một cuộc đối thoại
chân chính. Ðể có tinh thần công đồng tính này (ecumenical), Giáo hội
một đàng chân nhận thân phận “hành hương” của mình, nên không từ chối chấp nhận
“ecclesia semper reformanda” (Hiệp nhất số 6), đàng khác khi tìm hiểu cần phải
tôn trọng chân lý cộng với lòng nhân hậu. Nếu về đối thoại,
Công đồng càng phải đề cao mối liên lạc giữa các cơ cấu và sự hợp tác giữa các
chi thể trong Giáo hội nhiều hơn. Lẽ đương nhiên, cần bàn sâu xa và phổ
quát của niềm tin thông hiệp trong đối thoại phải là sự hiện hữu của Thánh Linh
hoạt động trong và ngoài Giáo hội: “Giáo hội vững mạnh nhờ Thần Lực của Chúa
Phục sinh để toàn thắng các khó khăn và sầu muộn từ bên trong cũng như bên
ngoài bằng yêu thương với kiên trì và trung thành mặc khải cho thế gian mầu
nhiệm của Chúa còn giấu trong bóng tối, cho đến khi được phô bày dưới ánh sáng
vẹn toàn trong ngày sau hết” (Ánh Sáng trần thế số 8).
IV. Dân Chúa và cơ cấu
Giáo hội
Theo Y. Congar, Công Ðồng Vatican II lúc đầu tiên bàn về Giáo hội
đã đứng trên lập trường luật tính, coi Giáo hội như là một “xã hội hoàn hảo” và
một “xã hội có phẩm trật” (societas inaequalis). Thực ra hai quan niệm này chỉ chung quy thành một mà thôi, vì một xã hội có trật tự lớp
lang mới là một xã hội hoàn hảo. Quan niệm này (socieas
perfecta) bắt nguồn từ lập trường triết học chính trị của Aristoteles.
Mặc dù Thánh Tôma Aquinô chỉ khai triển trên phạm vi
dân sự, nhưng về sau quan niệm này được dùng để chỉ trích và phê bình cơ cấu và
hiến pháp dân sự, nhất là sau cuộc cách mạng Pháp 1789. Nhưng
chuẩn tắc để phê bình là gì? Là một xã hội lý tưởng.
Từ ÐGH Grêgôriô XVI (1839) trở đi, Giáo hội đồng hóa mình với xã hội lý tưởng
này, vì Giáo hội có căn bản “quyền thần” làm nền tảng hợp thức cơ cấu hiện hữu
của mình. ÐGH Piô IX đã kết án những ai coi Giáo hội
không phải là xã hội chân thật và vẹn toàn, là sai lầm (DS 2919). Từ Công đồng
Quan niệm trên đây được nhiều nhà thần học coi như là giáo
luật tính của giáo hội học mà Giáo hội cần phải có để tồn tại cho tới kỳ thế
mạt. Vì thế quan niệm này đã được đưa vào làm căn bản trong các
buổi thảo luận. Và ÐHY Montini (tức là ÐGH Phaolô VI) đã không ngần ngại điều
chỉnh lại quan niệm này vì quan niệm này có tính cách quá nhấn mạnh về luật lệ
hóa các cơ cấu của Giáo hội như sau: Giáo hội tự mình không thể làm được gì cả,
cả đến việc hiện hữu của Giáo hội và việc nhận lãnh những hồng ân cũng đều do
chính Ðức Kitô ban cho mà thôi vì Ngài vẫn còn tiếp tục hoạt động trong Giáo
hội luôn. Khi nhấn mạnh Ðực Kitô làm trung tâm, Giáo hội hiện hữu như là một “mầu
nhiệm” (mystery) hơn là một thực thể chỉ đơn thuần thống nhất nhờ nguyên tắc lề
luật mà thôi. Từ quan niệm này, ngày 5.12.62, Ðức Montini đã đề nghị xin các
giáo phụ quan tâm nhiều hơn tới cộng đoàn các Thánh Tông đồ là căn nguyên của
các cộng đoàn Giám mục. Tóm lại, vì Ðức Kitô là trung tâm của
Giáo hội, Giáo hội hiện hữu là một mầu nhiệm tham dự Huyền Nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Danh từ “Hiệp Thông” đã trở thành “chìa khóa” mở cửa vào khoa giáo hội học của
Công Ðồng Vatican II và cả cho thời hậu Công đồng nữa. Nói cách khác, Giáo hội
là một cộng đồng Dân Chúa, trong đó mỗi người tín hữu đều được kêu gọi để sống
hiệp thông trong nhiệm vụ của mình như một thành phần của Nhiệm Thể để sinh hoa
kết quả và nhờ đó thánh hóa trần gian trong môi trường mình sống. Chính vì Giáo
hội hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, nên Giáo hội đã nhận ra được Thiên Chúa muốn
dùng mình và qua mình để cứu độ trần thế: Giáo hội hiện hữu là kết quả của ơn
cứu chuộc và đồng thời là lịch sử của ơn cứu chuộc. Trong ơn
thông hiệp này, Giáo hội là “bí tích của trần gian”, là “dấu chỉ” và đồng thời “thực
hiện” mầu nhiệm hiệp thông giữa con người và Thiên Chúa và giữa con người với
nhau. Thực vậy, Giáo hội là “dấu chỉ” và đồng thời là “dụng
cụ” Chúa dùng nữa. Hai khía cạnh này bất khả phân và
luôn bổ túc cho nhau.
Nhờ hiểu biết Giáo hội là mầu nhiệm hiệp thông này mà chúng ta có
thể thoát được ba chiều hướng giải thích lệch lạc về Công đồng Vatican II, hoặc
coi Công đồng Vatican I và II là hai thực hữu đối nghịch nhau, hoặc dùng một
trong hai lập trường như là “tín điều” để phủ nhận lập trường khác, hoặc công
nhận sự căng thẳng giữa hai lập trường, nhưng muốn dùng viễn ảnh tương lai
(utopic), tỷ dụ như trong hiệp nhất như một thực tại sống động và hiệp thông
thì những lập trường lý thuyết không thể hạ giá thực hữu được, tức là mỗi tín
hữu đều có chỗ đứng của mình và chỗ đó là nơi ưu tiên cần mình phục vụ Chúa
trong Giáo hội và trong thế gian. Mỗi người đều là phần tử
của Dân Chúa vậy.
Chương II của Hiến chế về Giáo hội đề cập tới “Dân Thiên Chúa”, là
điểm tựa để chúng ta giải thích cho đúng và sứ mạng của giáo dân trong Giáo
hội: qua phép Rửa, mỗi người tín hữu đều là “dòng dỏi được tuyển chọn, thành
hàng tư tế vương giả và dân tộc thánh”, là con Thiên Chúa nhưng được sinh ra
bởi con người, và Thánh Thần ngự trong tâm hồn họ như trong Ðền Thờ vậy. Dân
tộc thiên sai này là “mầm mống của hiệp nhất”, được Chúa Kitô thiết lập để “thông
dự vào sự sống, bác ái và chân lý”, được người xử dụng như “khí cụ cứu rỗi mọi
người” được sai đi khắp thế gian như “Ánh sáng trần gian và muối đất”. Như vậy
theo chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa, Giáo hội hiện hữu như một “sứ giả”,
như một “khí cụ” của ơn cứu rỗi, đang lữ hành trong thời đại này để tìm về Ðất
Hứa. Bởi thế, Nước Chúa mới là phạm trù cánh chung,
còn Giáo hội phục vụ có phẩm trật chỉ là “phương thế” để đạt tới biến cố cánh
chung này. Trong ý nghĩa này, mỗi tín hữu đều là anh em trong
Ðức Kitô, đều đồng chia sẽ mầu nhiệm hiệp thông. Hơn nữa, vì Giáo hội
hiện hữu không phải vì mình và cho mình, nhưng như là “dụng cụ”của ơn cứu rỗi,
như là muối đất… thì người giáo dân chiếm một chỗ rất đặc biệt, nếu không muốn
nói là rất quan trọng và khó khăn nhất trong sứ mạng của Giáo hội: trực tiếp
thánh hóa trần gian. Nếu Giáo hội hiện hữu giữa trần gian phần lớn do giáo dân,
lẽ đương nhiên là họ có quyền đòi hỏi cần được lắng nghe, nhất là trong những
phạm vi họ có thẩm quyền, như những vấn đề liên quan
đến đời sống hôn nhân, gia đình, thái độ của người Kitô hữu giữa thế gian… Sự
hiệp thông chân chính không thể đơn phương “thi hành điều quyết định” được,
nhưng là đa phương linh động, nhứt là giáo dân cần được huấn luyện để chủ động
tham gia vào những đồ án có liên quan tới cuộc sống của họ hay cho thực hiện
những đồ án đó. Ðòi hỏi hợp lý này không phải là chối bỏ hay là đối chất quyền
uy phẩm trật, nhưng là lưu ý Giáo hội nhận rõ mức độ ưu tiên rong sứ mệnh việc
thánh hóa trần gian, cũng như cố gắng thánh hóa chính mình cũng là một khía
cạnh quan trọng khác của sứ mạng truyền giáo này. Nói cách khác, nếu người giáo
dân không thể nhận thức được vai trò chủ động trong phạm vi của mình, cũng như
nếu Giáo hội phẩm trật không ý thức sự hiện hữu của mình là nhằm giúp đỡ và
phục vụ cho giáo dân hơn là để cai quản hay ban chỉ thị, thì làm sao sứ mạng “truyền
giáo” tiến hành đúng mức được?
Chính vì vai trò của người
giáo dân quan trọng như thế, mà ÐGH Gioan Phaolô II đã đề nghị Thượng Hội Ðồng
Giám Mục Thế Giới 1987 đặc biệt bàn về vấn đề “người giáo dân” và chính ngài đã
dùng Tông Huấn “Người Tín Hữu Giáo Dân” để diễn đạt mạch lạc và trung thực lập
trường của Thượng Hội Ðồng. CÐ Vatican II đã mô tả người giáo dân theo hai khía
cạnh: tiêu cực và tích cực. Theo khía cạnh tiêu cực, giáo dân
là tất cả các Kitô hữu “không thuộc thành phần có chức thánh hay bậc tu trì”.
Theo khía cạnh tích cực, người giáo dân là những người thi hành sứ mệnh của
toàn dân Kitô hữu “trong giáo hội và giữa trần gian theo
nhiệm vụ riêng của mình” (L.G.31). Vì hai khía cạnh mô tả trên mà nhiều người
đã đặt vấn đề: vai trò của giáo dân chỉ là hình ảnh tiêu cực của giáo sĩ hay tu
sĩ mà thôi sao? Trả lời câu hỏi này, Tông Huấn đã khẳng định rõ ràng: “người
giáo dân hoàn toàn thuộc về Giáo hội và thuộc về Mầu Nhiệm của Giáo Hội” (số
9). Họ, qua phép Rửa, đã trở thành kẻ “tham gia theo
cách thế của mình vào chức vụ tư tế, chức vụ rao giảng Lời Chúa và chức vụ
Vương Giả của Chúa Kitô” (ibid). Tông Huấn đã dùng hình ảnh Ðức Piô XII giáo
dân để diễn đạt “tham gia theo tính cách của mình”: họ
là những kẻ “đứng ở mặt trận tiền phong trong cuộc sống của Giáo hội; nhờ họ,
Giáo hội được trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội loài người”. Như vậy, định
nghĩa của người giáo dân đã gạt bỏ được sự phân chia tiêu cực và tích cực, đàng
khác ý nghĩa của người giáo dân hiện hữu không còn phân ly thành “đơn thuần
thần học tính” hay “thuần túy xã hội tính”, nhưng là ý nghĩa hiện hữu của Giáo
hội giữa trần gian: “Vị thế của người tín hữu giáo dân trong Giáo hội được minh
định rõ ràng từ gốc rễ, bắt nguồn từ sự mới lạ của đời sống Kitô hữu và đặc
tính thế tục” (số 15). Tính cách thế tục không khác gì hơn là tiếp tục sứ mệnh
của Ngôi Lời Nhập Thể, là đích thân chia sẻ tình nhân loại: “Ngài đã trao phó
trần thế này cho con người cả nam lẫn nữ để họ tham gia vào việc tạo dựng, để
họ giải thoát thọ tạo khỏi ảnh hưởng của tội lỗi, để họ tự thánh hóa mình trong
địa vị hôn nhân, hoặc độc thân, trong gia đình, trong chức nghiệp và trong các
hoạt động xã hội” (số 15; propositio 4).
Hiểu rõ ơn gọi và sứ mệnh của tín hữu giáo dân, chúng ta cũng hiểu
được ý nghĩa toàn diện của Giáo hội là một sự hiệp thông có cơ cấu, hiện hữu
trong khác biệt nhưng luôn bổ túc: “Mọi phần tử của Giáo hội có những ân sủng
của Thánh Thần ban khác nhau theo phẩm trật và ơn đoàn sủng (charismen) để Giáo
hội hiệp thống nhất trong hiệp thông và phục vụ: sự hiệp thông là điều kiện
thiết yếu để sinh hoa trái (Jn 15,1-16), như cành hiệp nhứt với cây nho mới có
thể sinh hoa trái được. Ngược lại hoa trái là kết quả hữu
hình của sự hiệp thông. Và Giáo hội được sai đi để
sinh hoa kết quả. Trong sự liên đới mật thiết này, chúng ta hiểu thấu
được Hiệp Thông giữa các Thừa Tác Viên và các tín hữu giáo dân, giữa hồng ân bí
tích và ơn đoàn sủng, giữa giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ, giữa giáo
xứ và cá nhân Kitô hữu. Tóm lại, giữa thánh hóa (sanctitas) và truyền giáo
(missio) mà mỗi tín hữu đều được gọi và sai đi theo
cách thế của mình giữa trần gian. Sau đây là một vài lời trích dẫn được các
Giám Mục hay Hồng Y lặp lại trong Thượng Hội Ðồng, hay được chính ÐGH trích dẫn
trong Tông Huấn, đáng cho chúng ta lưu ý; “Ðối với anh em, tôi là giám mục,
cùng với anh em, tôi là tín hữu” (Augustinus); “ích lợi của mọi người” (diễn
đạt Kinh Tin Kính); “trong Giáo hội, mọi người lo nâng đỡ các người khác và các
người khác lo nâng đỡ từng người” (Gregorio Cả).
Kết luận
Qua phép Rửa tội và phép Thêm sức, tất cả Kitô hữu, dù là giáo sĩ,
tu sĩ hay giáo dân, đều được Chúa gọi thành Dân Chúa để thực hiện sứ mệnh mà
Chúa đã truyền giáo cho Giáo hội, là dấu chỉ của Nước Chúa thống trị hầu trở
thành dụng cụ Chúa dùng để thánh hóa thế gian cho đến ngày Chúa lại đến. Như
vậy, Giáo hội thánh hóa mình làm “men”, làm “ánh sáng” cho muôn dân, do đó Giáo
hội không hiện hữu cho mình và vì mình nhưng vì tha nhân: trung tâm của Giáo
hội ở ngoài mình. Nhiệm vụ chính của Giáo hội là “truyền giáo”.
Ðể đạt được thực thể sống động này, chúng ta có thể dùng
nhiều mô hình và mỗi mô hình nhấn mạnh đến một khía cạnh quan trọng nào đó,
nhưng chính vì thế mỗi mô hình cần sự bổ túc của các mô hình khác (16). Tỉ dụ mô hình Giáo hội là một “cơ câu” nhằm
diễn đạt Giáo hội là một “xã hội hoàn toàn”. Trọng tâm của phẩm trật
hoặc đặt ở địa vị thừa kế của Thánh Phêrô như Công đồng Vatican I, hay ở cộng
đoàn thừa kế các Tông đồ mà Phêrô là đại diện như Công đồng Vatican II đã nhấn
mạnh. Ưu điểm của mô hình này là làm nổi bật Truyền Thống và
Tông truyền. Bao lâu Giáo hội còn là dụng cụ ban phát ơn thánh thì mô
hình cơ cấu này mới còn giữ được vai trò quan trọng. Dẫu vậy,
Giáo hội hiện hữu trong cơ cấu không nhứt định phải nhận chủ nghĩa cơ cấu, có
phẩm trật không nhứt định phải nhận chủ nghĩa pháp luật cũng như giáo lý không
phải là giáo điều. Bởi vậy mô hình này phải được đi
đôi với mô hình Giáo hội là “Tôi tớ” (diaconia). Mô hình Giáo hội là Tôi
tớ diễn đạt cùng đích của Giáo hội hiện hữu: vì tha nhân và cho tha nhân. Hình
ảnh người Samaritanô nhân hiền đối với tha nhân, nhất là những người bị hà
hiếp, đau khổ, nghèo nàn… nói lên sứ mạng của Ðức Kitô: Người đến để phục vụ,
chứ không phải để được người khác phục vụ. Như vậy trần gian trở nên môi trường
và phương thế cho ơn kêu gọi Kitô hữu nói chung và cho
người tín hữu giáo dân nói riêng. trong mô hình này,
người giáo dân có một địa vị đặc thù: họ là những chứng nhân thường xuyên và
trực tiếp giữa trần gian. Vì sứ mạng của họ thật cao cả, bất khả thay thế và
đầy khó khăn nên cần sự “trợ giúp” và sự “cộng tác” của các “thừa tác viên”
trong phẩm trật Giáo hội. Như vậy, giáo dân là hiện thân Giáo
hội phục vụ giữa trần gian, thì các thừa tác viên là “tôi tớ của các tôi tớ”
(servi servorum Dei). Hai mô hình trên nhấn mạnh đến hai khía cạnh quan
trọng của Giáo hội hiện hữu: nguồn gốc (theo lịch sử
tính) và cách chung của Giáo hội hiện hữu cần được một mô hình khác bao dung và
liên kết, đó là: Giáo hội như một Huyền Nhiệm Hiệp Thông. Ở
đây bao quát những khía cạnh như Giáo hội là Bí tích, là người rao giảng.
Giáo hội Hiệp Thông nói lên nguồn gốc càng thâm sâu của Giáo hội: Chúa Ba Ngôi,
và đồng thời cũng diễn đạt được cùng đích của Giáo hội, đang và sẽ được các tín
hữu nỗ lực thực hiện trong mỗi thời đại của mình: Nước Chúa thống trị. Như vậy
chúng ta hiểu được tại sao trong Tông Huấn, Ðức Thánh Cha từ đầu tới cuối đều
dùng những cách thế khác nhau để nói lên tâm tình của :Người
chủ vườn nho”: “Các ông cũng thế, hãy đi vào làm vườn nho cho Ta”. Lời mời gọi
nhiều khi thành những lời cảnh tỉnh: “Tại sao các ngươi đứng đây suốt ngày mà
chẳng làm gì?”. Lời mời gọi, lời cảnh tỉnh không ngoài
mục đích nói lên sứ mệnh của toàn dân Chúa và vai trò đặc biệt của người giáo
dân trong Giáo hội và giữa trần gian là “truyền giáo” vậy.