ĐỨC MARIA LÀ MẪU GƯƠNG CẬY TRÔNG PHÓ THÁC TRONG NĂM THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT

(gpquinhon.org)

Chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng của Năm Thánh Lòng Thương xót. Năm Thánh khởi đầu ngày 08 tháng 12 năm 2015, lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội và kết thúc vào ngày 13 tháng 11 năm 2016, lễ Chúa Ki Tô Vua Vũ Trụ. Nhằm giúp tín hữu sống trọn vẹn thời gian ân phúc của Năm Thánh, ĐTC đã ban hành Tông sắc Misericordiae Vultus vào ngày thứ Bẩy, 14 tháng 4 năm 2015. Cuối Tông sắc,  Đức thánh Cha nhắn nhủ chúng ta hãy đến với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của lòng thương xót. ĐTC viết: “Chúng ta sẽ hướng về Thân mẫu của Lòng Thương Xót. Cái nhìn đầy từ ái của Mẹ sẽ đồng hành với chúng ta trong suốt Năm Thánh, để tất cả chúng ta đều có thể tái khám phá ra niềm vui đến từ sự trìu mến của Thiên Chúa” (MV số 24). 

Đặc biệt, trong bài huấn dụ, lúc 12 giờ trưa, ngày 8.12.2015, tại cửa Dinh Tông Tòa khi ra đọc kinh Truyền tin chung với các tín hữu, ĐTC nhấn mạnh: ‘‘Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm khiến chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ, là Đấng do đặc ân riêng biệt, đã được gìn giữ khỏi tội Tổ tông từ khi được thụ thai. [...] Vô Nhiễm Nguyên Tội có nghĩa là Đức Maria là người đầu tiên đã được cứu rỗi  bởi lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa Cha, là của đầu mùa của ơn Cứu Rỗi mà Thiên Chúa muốn trao ban cho từng người nam nữ, trong Chúa Ki Tô. Vì thế Đấng Vô Nhiễm đã trở thành hình ảnh tột đỉnh Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, là Đấng chiến thắng tội lỗi. Và hôm nay chúng ta bắt đầu Năm Thánh Lòng Thương Xót, chúng ta muốn nhìn lên hình ảnh này với tình yêu thương tin tưởng và chiêm ngưỡng Mẹ trong tất cả vẻ rạng ngời của Mẹ và noi gương lòng tin cậy của Mẹ”. 

Quả thật, trong hành trình tại thế của Mẹ, trãi qua bao thử thách gian nan, Mẹ luôn sống đức tin với niềm phó thác cậy trông, bằng thái độ khiêm nhường, lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa. Lòng cậy trông của Mẹ đạt đến mức trưởng thành viên mãn khi đứng cận kề Chúa Giêsu dưới chân thập giá (x.Ga 19,27), tham dự vào vinh quang phục sinh của Ngài và cùng con cái của Mẹ là Hội Thánh, đón chờ Chúa Thánh Thần ngự xuống sau khi Chúa Giêsu được rước lên Trời (x. Cv 1, 12-14). Xin hãy cùng nhau chiêm ngắm Mẹ trong hình ảnh Thiếu nữ Sion, và trong các giai đoạn cuộc đời được trải dài suốt chương trình cứu độ của Chúa, để thấy rõ lòng cậy trông của Mẹ, cho ta thêm chất hồi tâm cầu nguyện trong ngày tĩnh tâm này.

1. ĐỨC MARIA, THIẾU NỮ SION

Từ tổ phụ Abraham, qua các tổ phụ, dọc theo Lịch sử thánh, dân Israel luôn ý thức về việc được Thiên Chúa tuyển chọn. Thiên Chúa yêu thương muốn cứu độ con người bằng mối tương quan giao ước và bằng hữu. Trải qua nhiều thử thách, thanh luyện, dân Israel vào thời Đức Maria luôn giữ ký ức về một Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi Dân Người, một Dân tộc không phải khi nào cũng trung thành với Thiên Chúa. Đây là Dân tộc lưu giữ lời hứa của Thiên Chúa cho nhân loại và sống trong sự chờ đợi Lời Hứa ấy được thực hiện. Đức Maria sinh ra và lớn lên trong bầu khí chờ đợi và cậy trông của dân Israel, được nuôi dưỡng bằng ký ức những sự vĩ đại mà Thiên Chúa đã thực hiện, được các thế hệ này qua thế hệ khác truyền lại trong sách Thánh. Niềm tin tưởng cậy trông vào lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Maria chắc chắn đã được song thân là thánh Gioakim và thánh Anna gieo trồng, hun đúc trong suốt thời thơ ấu của Mẹ. 

Theo các nhà chú giải, Tân ước đã áp dụng cho Đức Maria những tư tưởng mà các ngôn sứ dành cho Thiếu nữ Sion (x. Dcr 2,14 ; 9,9 ; Xp 3,14), biểu tượng của Israel trông chờ Đấng Mesia đến tái lập giao ước tình yêu vĩnh cữu. Đức Maria là hiện thân của Thiếu nữ Sion mới, tức là dân Israel mới, một thôn nữ miền Galilê, thành Nagiarét luôn mang trong mình niềm cậy trông, chờ đợi Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ dân Người. Như thế, điểm nổi bật khi nhìn về Đức Maria qua hình ảnh Thiếu nữ Sion chính là sự chờ đợi. Trong cuộc sống có nhiều sự chờ đợi, có thứ chờ đợi trong vô vọng, còn nơi Đức Maria thì sự chờ đợi đạt tới mức thành toàn như lời Thánh Công Đồng viết : “ Cuối cùng, sau đêm dài mong đợi lời hứa được thực hiện, với Ngài, người Thiếu Nữ cao sang của Sion, thời gian đã nên trọn và Nhiệm Cuộc mới được thiết lập: khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại nơi Ngài để giải thoát con người khỏi tội lỗi nhờ các mầu nhiệm của thân xác Chúa” (LG số 55).

2. ĐỨC MARIA TRONG BIẾN CỐ TRUYỀN TIN. 

Nơi hình ảnh “Thiếu nữ Sion”, Đức Maria là người Nữ chờ đợi Chúa với lòng cậy trông; sự chờ đợi kết thúc trong biến cố Truyền tin khi Mẹ thưa lời xin vâng với sứ thần:“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Đức Maria đã đáp lại bằng thái độ tự do vâng phục, phó thác theo thánh ý của Thiên Chúa. Thánh Công Đồng mượn lại tư tưởng của các thánh Giáo Phụ dạy rằng: “Thiên Chúa đã không thu dụng Ðức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại” (LG số 56). 

Đức Maria, Đấng “đầy ơn phúc”, khi nhận mình là “nữ tỳ của Chúa” đã bày tỏ quyết tâm thi hành cách hoàn hảo sự phục vụ mà Thiên Chúa đang chờ đợi nơi Dân của Ngài. Mẹ cậy trông phó thác trọn cuộc đời cho Thiên Chúa và cộng tác vào kế hoặch cứu độ của Thiên Chúa cách tự do và trách nhiệm. Trong lịch sử cứu độ, còn có hành vi cậy trông phó thác nào cao đẹp hơn?  Lời “xin vâng” của Mẹ mang một ý nghĩa đặc biệt là từ đây, trên cuộc đời Mẹ, Chúa cứ thực hiện chương trình của Người. Đây đúng nghĩa là sự vâng phục hiến dâng, nó thể hiện một sự hoàn toàn cậy trông  tín thác vào tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa.

Ở một gốc độ khác, lời Xin Vâng nói lên lòng thương xót lớn lao của Mẹ dành cho toàn thể nhân loại đang cần được cứu độ, vì nhờ đó “tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn” (LG số 61). Như thế, lời ‘‘Xin Vâng” của Mẹ đã chuyên chở lòng thương xót, sự tha thứ của Thiên Chúa Cha cho nhân loại qua Đức Giêsu Kitô, Con của Mẹ và cũng là Thiên Chúa đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

3. ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG BÀ ÊLISABET.

Qua cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabét, lần đầu tiên quyền năng của Đấng Mẹ cưu mang được thể hiện. Nơi trình thuật của thánh Luca: Gioan tẩy giả nhảy mừng trong lòng bà Êlisabét, bà Êlisabét cất tiếng ca tụng Đức Maria : “ Em được chúc phúc giữa các người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc! Phúc thay cho em là kẻ tin rằng điều Đức Chúa phán đã được thực hiện” (x.Lc 1, 42-45). Đức Maria trong niềm vui gặp gỡ, ý thức mạnh mẽ hơn về biến cố vừa được thực hiện nơi Mẹ và từ nơi tâm hồn Mẹ. Mẹ cất  lên lời ngợi khen Magnificat, bài ca đức cậy trông Kitô giáo.

Tâm hồn Mẹ ngập tràn niềm vui: “Linh hồn tôi ngơi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 46). Mẹ nhìn nhận mình là thân phận nữ tỳ được Thiên Chúa đoái thương nhìn đến; lòng thương xót của Chúa vươn xa, bao trùm cả cộng đoàn Dân thánh đang lưu giữ lời hứa cứu độ Chúa ban từ thời tổ phụ Ápraham, và đến tầng lớp dân nghèo khổ thấp hèn. Mẹ ý thức tất cả những gì Chúa làm không hệ tại ưu điểm do tự Mẹ có mà do lòng thương xót nhưng không của Người. Do đó, niềm vui mừng của Mẹ cho thấy rất rõ lòng cậy trông Mẹ đặt nơi Đức Chúa của mình. Mặt khác, tất cả những gì Mẹ ca khen đều là thực tại chỉ con mắt đức tin nhìn thấy, chứ không phải đã hiện hữu trước mặt khiến Mẹ trầm trồ tán dương. Từ đây cho ta rõ lòng tin và đức cậy của Mẹ thật quá tuyệt vời, thực tại trong đức tin được diễn tả với với niềm vui khôn tả như đang hưởng nếm nó tại nơi thế giới tự nhiên này.

Ngay từ đầu, Hội Thánh đã nhìn nhận lời kinh ca ngợi của Đức Maria, như lời kinh của chính mình. Vì thế, thánh ca Tin Mừng này được đọc trong giờ kinh chiều, khi một ngày vừa kết thúc. Đây cũng là lúc chúng ta nhìn lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm cho chúng ta trong một ngày: “ Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc1,46-55).

“Đức Maria đi thăm viếng!” Tin vui này cho ta biết, Mẹ cũng đến gặp chúng ta trên mọi con đường trần gian. Nhờ Mẹ, chính Đức Giêsu đến với chúng ta, để hiện diện với chúng ta trên mọi nẻo đường chúng ta đi, để nên ánh sáng hướng dẫn cuộc sống chúng ta . Uớc gì với sự trợ giúp của Mẹ, đến lượt chúng ta, vì Đấng mà chúng ta tin cậy, chúng ta trở nên những người mang niềm vui và niềm cậy trông phó thác cho những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày.

4. ĐỨC MARIA Ở BÊLEM

Thánh sử Luca kể: “Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2, 6). Trình thuật sinh hạ Chúa Giêsu cho thấy vai trò chủ động của Đức Maria trong hoàn cảnh có thể nói là rất éo le: bị từ chối, “hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”, không có những điều kiện bình thường cho trẻ sơ sinh khi chào đời. Giữa cảnh cô tịch không người, Mẹ sinh con, “lấy tả bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ”.

Khung cảnh giáng trần của “Con Đấng Tối Cao” như thế sao? Đâu rồi lời sứ thần truyền tin cho Mẹ: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 31-33). Cuộc sinh hạ Chúa Giêsu tại Belem đặt Đức Maria vào một hoàn cảnh vượt quá trí hiểu của con người: con thơ của Mẹ có nguồn gốc thần linh, được ban tặng ngài vàng trường cửu để “trị vì nhà Giacóp” vậy mà khi sinh hạ không có điềm báo của thần linh, không dấu hiệu của ngai vàng. Tất cả những gì sứ thần đã nói cho Mẹ biết trong ngày truyền tin, mà Mẹ thưa vâng, xin được thành sự như lời sứ thần nói, trong cuộc sinh hạ Chúa Giêsu chỉ là khoảng trống. Trong tình trạng này thường có hai trường hợp, một là nghi ngờ bất tín hai là tín thác cậy trông đạt tầm như là tuyệt đối, vì nó không còn dựa vào một lý lẽ gì để lý trí có thể hiểu khiến người ta chấp nhận. Với Đức Maria thì sao? Tất nhiên, nơi Mẹ Maria không bao giờ có trường hợp thứ nhất, vì ngay từ đầu, Mẹ đã được tuyên dương là “người phụ nữ đã tin” qua lời bà Êlisabét thốt lên khi gặp Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 45). Hơn nữa, việc Mẹ mang thai khi “không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1, 34) nhưng do quyền năng của Chúa Thánh Thần (x. Lc 1, 35) là thực tại cắm rễ sâu trong đức tin, thể hiện trong thế giới khả giác, tức là trong con người thể lý của Mẹ. Do đó, việc Chúa làm trên Mẹ là quá rõ ràng chắc chắn không thể nghi ngờ. Nhưng Chúa làm thế nào cho tương lai mà Mẹ đang theo Người thì như đêm tối, đức cậy chính là đèn cho Mẹ để bước đi. Tin Mừng thuật lại, sau khi nghe các mục đồng kể Đức Maria “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”(Lc 2,19). Chi tiết này không chỉ cho ta thấy rõ Mẹ là mẫu người tín thác, cậy trông mà còn làm nổi bật tính chất của đức cậy Mẹ đang có, là: biết “nghiền ngẫm” để đức cậy mãi lớn lên.

Sức mạnh của Mẹ để đón lấy biến cố sinh con trong sự nghèo hèn bị từ chối chính là lòng tín thác, cậy trông. Đây là sứ điệp cho mọi người Kitô hữu khi đứng trước những thử thách gian nan của cuộc đời. Đặc biệt trong những lúc khó khăn không thấy đâu bên bờ cho ta điểm tựa để giải quyết. Người Linh mục được mời gọi tín thác cậy trông không chỉ để sống sứ mạng mục tử mà còn chia sẻ dẫn dắt đoàn chiên, noi theo gương Mẹ luôn tín thác cậy trông vào lòng thương xót vô biên của Chúa.

5. ĐỨC MARIA TẠI TIỆC CƯỚI CANA

Trong câu chuyện tiệc cưới Cana, thánh Gioan đã trình bày việc Đức Maria lần đầu tiên can thiệp vào sứ vụ hoạt động công khai của Chúa Giêsu. Đây là trình thuật cho thấy rất rõ sự hợp tác và lòng trông cậy vào Chúa Giêsu của Mẹ.

Tại tiệc cưới, khi thấy thiếu rượu, dù không ai nhờ giúp nhưng với sự tinh tế và bác ái Mẹ đã đến ngỏ lời với Chúa Giê su: "Họ hết rượu rồi" (Ga 2,3). Mẹ bày tỏ sự ưu tư của mình trước một tình trạng nan giải vì thiếu rượu của đôi tân hôn, và chờ đợi một sự can thiệp từ Chúa Giêsu con dấu yêu của Mẹ. Như thế là 18 năm qua, kể từ lần tìm gặp Chúa Giêsu trong Đền thờ, Mẹ đã khám phá ra Con của Mẹ là ai? Nếu như ngày xưa trong Đền thờ, gặp lại Chúa Giêsu, Mẹ không hiểu khi nghe Chúa nói: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49). Mẹ chỉ biết “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2, 51). Bây giờ Mẹ đã rõ về Đức Giêsu con của Mẹ nên đến nói với Ngài tình trạng của đôi tân hôn.

Đức Giêsu trả lời: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. (Ga 2,4). Câu trả lời của Chúa Giêsu với Mẹ là lời từ chối. Nhưng điều đó không làm cho Mẹ im lặng rút lui, trái lại, Mẹ ra gặp các gia nhân và dặn: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5). Mẹ mạnh dạn dặn gia nhân ngay khi bị Chúa Giêsu từ chối, điều đó chứng tỏ Mẹ vững lòng cây trông, Mẹ tin chắc Chúa sẽ làm đến độ có lời kinh đọc rằng: Mẹ quyền phép bắt Chúa phải chuần y lời Mẹ (x. kinh Tuần Cửu Nhật kính Đức Mẹ, ngày thứ 1). Chúa Giêsu đã làm phép lạ hoá nước thành rượu trong đó có công của Mẹ. Mẹ vừa kêu mời Chúa giúp, vừa dạy gia nhân phải biết làm theo Người. Hành động ban đầu của Mẹ đến nói với Chúa “họ hết rượu rồi” là nhờ Mẹ đã biết Chúa; còn hành động mẹ đến nói với các gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" là nhờ Mẹ vững lòng tín thác cây trông Chúa sẽ nghe lời Mẹ. 

Đức Maria là mẫu gương cậy trông tín thác ngay khi ta tưởng mình đã không được nhậm lời. Câu chuyện tiệc cưới Cana khuyến khích chúng ta hãy can đảm trong lòng tin cậy, phó thác vào lời chuyển cầu của Mẹ Maria; đồng thời cho ta nhớ: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

6. ĐỨC MARIA TRÊN ĐỒI CANVÊ

Tin mừng thánh Gioan kể lại: “Đứng gần thập giá Đức Giê su, có thân mẫu Người” (Ga19,25). Khi dùng  động từ “đứng”, dịch sát nghĩa là “đứng thẳng”, từ ngữ đó vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp về tính can đảm của Mẹ khi đối diện với sự đau khổ tột cùng. Nhưng ý nghĩa thần học của sự “đứng thẳng” là hiệp nhất với Chúa Giêsu như Công đồng Vatican II đã viết: “Đức trinh nữ Maria đã tiến bước trong cuộc lữ hành Đức tin, trung thành hiệp nhất vơi Con cho đến bên thập giá, là nơi mà theo ý Thiên Chúa, Ngài đã đứng đó’’ (LG, số 58 ). Vì thế, Mẹ được gọi là Đấng hiệp thông cứu chuộc nhân loại.

Ở dưới chân thập giá, Mẹ đứng đó cùng hiến tế với Con, đây là lúc lời người xưa đã thành sự thật: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2, 35). Chúa Giêsu chết về thể xác, Mẹ chết về tâm hồn. Mẹ đã trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu trong cái chết của Người. Lòng cậy trông đã cho Mẹ sức mạnh để đón lấy mầu nhiệm khổ giá, để có thể đứng thẳng, để có thể nhận lấy sứ mạng từ lời trăn trối của Con yêu dấu: "Thưa Bà, đây là con của Bà”. (Ga 19,26). Không chỉ thế, nơi đồi Canvê, lòng cậy trông của Mẹ đã đạt đến đỉnh điểm và thực sự là bản chất của đức cậy Kitô giáo: “Cậy trông là thái độ tâm hồn khiến ta chắc chắn sẽ gặp Chúa là hạnh phúc đời đời nhờ các phương tiện Chúa ban” (GLDT. Xuan Lộc. Tr. 53). Vì khi đối diện với cái chết của Chúa Giêsu, niềm hy vọng của Mẹ không còn dựa trên những gì thuộc về thực tại trần gian nữa nhưng đã hoàn toàn thuộc về sự sống đời đời.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dạy Đức Maria là “Người  đã duy trì niềm hy vọng vào việc thành tựu chương trình cứu chuộc; Người đã trông đợi không chút ngần ngừ, sau những cơn tối tăm của thứ sáu tuần thánh, hừng đông của ngày sống lại” (Lm. Phan Tấn Thành OP. Những Bài Giáo Huấn Về Đức Maria của Thánh GH Gioan Phaolô II. Bài 6). Trong cả 4 trình thuật Tin Mừng không có chỗ nào kể về việc Chúa Giêsu hiện ra với Mẹ Maria. Đó cũng là dấu cho thấy lòng cậy trông đặc biệt của Mẹ trong mầu nhiệm khổ giá Chúa Giêsu. Vì các trình thuật cho biết, Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ là để củng cố lòng tin vào Chúa Phục sinh của các ông. Với mục đích đó, Mẹ Maria không ở trong số họ, vì Mẹ đã tin, đã cậy trông một cách tuyệt hảo, đến độ Mẹ nên một với Con dâng hiến mình làm của lễ cứu độ nhân loại.

Tạm kết 

Chúng ta vừa suy niệm hành trình trần thế của Đức Maria, Mẹ là mẫu gương cho chúng ta về sự cậy trông phó thác vào Lòng Thương xót Chúa. Đức Thánh Cha Phanxcô khi cử hành thánh lễ tại Ecuador, ngày thứ Hai, 06-07-2016, đã khuyến khích các tín hữu noi gương Mẹ Maria: “kiên nhẫn, cậy tông, cầu nguyện, mở rộng cõi lòng…”.

Trong Thư Chung dịp đại hội XIII của HĐGMVN kết thúc vào ngày 7 tháng 10, lễ Đức Mẹ Mân Côi, các chủ chăn của GHVN đã nhắc nhở chúng ta: về sự đồng hành gần gũi và nâng đỡ ân cần của Mẹ Maria đối với Hội Thánh, đồng thời nêu cao tấm gương tuyệt hảo của Đức Mẹ, luôn tín thác vào Chúa trong mọi biến cố, nhất là trong những giờ phút bi thảm của cuộc đời. Vì thế chúng ta hãy “ đem Mẹ về nhà”(Ga 19,27) và yêu mến Mẹ với tình con thảo. Noi gương Mẹ hãy vững tin vào Chúa mọi nơi mọi lúc vì “ không có gì mà Chúa không làm được”(Lc 1,37). Cùng với Mẹ hãy tích cực góp phần thực hiện điều mà Đức Giáo hoàng Phanxicô gọi là “cuộc cách mạng của tình yêu và sự dịu dàng” ngay trong gia đình mình, trong cộng đoàn Hội Thánh và giữa lòng xã hội hôm nay. (số 7)

Noi gương Đức Mẹ Maria, là linh mục chúng ta hãy luôn trông cậy phó thác chạy đến với Chúa, càng gặp đau khổ, khó khăn thử thách, càng trông cậy vào Đấng đầy Lòng Thương Xót. Thánh Gioan Thánh giá đã nói: “Chúng ta được Chúa ban ơn nhiều hay ít, tùy lòng chúng ta trông cậy vào Chúa ít hay nhiều”.

Là linh mục, chúng ta học từ Mẹ Maria lòng cậy trông phó thác vào Chúa Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Chúa Cha, để biết chờ đợi, biết nói lời xin vâng và có sức thi hành lời Chúa dạy.

Là Linh mục, chúng ta cần tăng cường lòng sùng kính Đức Mẹ. Sự hiện diện từ mẫu của Mẹ luôn là sự nâng đỡ cho chúng ta. Mẹ đã luôn theo sát Chúa Giêsu Con Mẹ, bây giờ Mẹ vẫn tiếp tục đồng hành cùng chúng ta, những Kitô khác. Ngay từ lúc khởi đầu sứ vụ, Đức Gioan Phaolô II đã trao phó mọi linh mục cho Mẹ và mong muốn rằng mỗi linh mục đều trao phó chính mình cho Mẹ, và hướng về Mẹ với một tình yêu và niềm hy vọng đặc biệt. Bằng kinh nghiệm của mình, Ngài đã viết lên điều ấy trong bức thư gửi các Linh mục. Ngài cầu mong: “Nguyện xin Đức Maria, Đấng mà tôi mời gọi anh em hãy luôn nuôi dưỡng lòng sùng kính con thảo, đồng hành với anh em và liên lỉ che chở anh em”.

Với lời kinh Salve Regina, sứ thần Gabriel chào Mẹ Maria trong biến cố Truyền Tin, chúng ta cũng kính chào Mẹ: “Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương, ngọt ngào cho cuộc sống. Kính chào lẽ cậy trông!” Mẹ là Nữ vương của chúng ta, là Mẹ giàu lòng thương xót. Chúng ta hãy cậy trông vào Mẹ, vì Mẹ luôn cầu bầu cho chúng ta với tấm lòng thương xót bao la. Mẹ luôn đem lại cho  cuộc sống chúng ta sự an ủi cậy trông, đặc biệt khi chúng ta gặp thử thách, khổ đau và bất hạnh. Trong cuộc hành hành trần thế, chúng ta là con cháu  bà Evà cũ,  hãy hướng nhìn lên, kêu cầu cùng Evà mới, để được Mẹ đưa đến với Chúa Giêsu, hiện Thân Lòng Thương Xót. Nơi Ngài, Đấng là “con đường, là sự thật và sự sống” (Ga 14,6) sẽ cho chúng ta được an vui tiến bước vào cõi phúc đời đời cùng Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con biết luôn noi gương Mẹ, cậy trông phó thác vào Chúa khi thi hành sứ vụ mục tử của mỗi người chúng con, để: có thử thách nhưng không ngã lòng, có thất bại những cũng có sức mạnh đi tiếp để thành công, có mệt mỏi nhưng không chán nản, có va vấp đổ vỡ nhưng vẫn luôn tìm cách gắn hàn, và tuy có tội nhưng khát vọng nên thánh vẫn không ngừng thôi thúc khôn nguôi. Amen. 

Lm. Phanxicô Hoàng Minh Đức, CSsR