KITÔ HỌC TRONG
TÁC PHẨM ” ĐỨC GIÊSU THÀNH NAZARETH” CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ XVI
[Phỏng theo Joseph
Doré, “L’ouvrage d’un théologien Pape”, Documentation catholique, n. 2382
(17 juin 2007), trang 570-579].
Dẫn nhập
1. Tác giả của tập sách là
Joseph Ratzinger – Bênêđictô XVI, sinh năm 1927 tại Vavière (Đức). Trong những
năm 50, ngài đã từng là giáo sư thần học đại cương tại Bonn, rồi giáo sư thần
học tín lý tại Munster, Tubingen và Ratisbonne. Ngài cũng là chuyên viên của
Công đồng Vatican II. Chịu ảnh hưởng sâu đậm của Thánh Augustin và Thánh
Bonaventure, thần học của Joseph Ratzinger chú tâm nhiều đến lịch sử và không
ngần ngại dấn thân vào trong các tranh luận, nhất là về đề tài đức tin trong
một thế giới đã bị tục hoá. Vì thế tác giả đã đặc biệt theo dõi tất cả những
tiến bộ cũng như những sai lệch của cuộc tìm kiếm lịch sử tính của con
người Giêsu, một cuộc tìm kiếm phát triển mạnh trong giới thần học gia Tin Lành
lẫn Công Giáo vào hậu thế kỷ thứ 20.
Như chúng ta đã biết, Đức
Joseph Ratzinger được tấn phong giám mục và sau đó là hồng y (1977) cai quản
giáo phận Munich. Năm 1981 ngài được Đức Gioan-Phaolô II triệu về Rôma làm Bộ
trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, và ngày 19/04/2005 trở thành Giáo Hoàng Bênêđictô
XVI. Vậy đây là tác phẩm của một giáo sư người Đức hay của một Giáo Hoàng, là
một suy tư thần học của cá nhân hay bản văn nặng tính huấn quyền của Giáo Hội?
Chúng ta sẽ trả lời đầy đủ
cho câu hỏi này ở phần sau, nhưng cần lưu ý ngay: cho đến nay đây là lần đầu
tiên một Giáo Hoàng viết một tác phẩm chất chứa những suy tư và lập trường cá
nhân về thần học và cho độc giả được tự do phê bình. Như thế, chúng ta sẽ phân
tích tác phẩm này vừa theo quan điểm thần học vừa theo quan điểm mục vụ (như
người ta vẫn để cả hai tên ở bìa sách: Joseph Ratzinger và Bênêđictô XV.
2. Đó là về tác giả.
Còn về tác phẩm thì ngay tựa đề đã là một ngạc nhiên đối với chúng ta: Đức
Giêsu thành Nazareth. Các Giáo Hoàng thường nói về Đức Kitô như trọng
tâm của đức tin. Theo gót thánh Phêrô, các ngài luôn xưng nhận Đức Giêsu là
“Đấng Kitô Giêsu” hoặc “Chúa Giêsu” hay “Chúa Giêsu Kitô”. Đằng này một tựa đề
sách trang trọng như thế mà lại chỉ dùng một danh xưng đơn giản “Giêsu thành
Nazareth”. Vậy tác giả muốn nói gì? Trước hết ngài muốn nói đến một người
giữa muôn người, bằng cái tên mà Tin Mừng cũng như người đương thời gọi người
ấy. Đàng ngài cũng muốn bày tỏ lập trường thần học riêng của mình mà chúng ta
sẽ khảo sát sau. Cuối cùng, dĩ nhiên tác giả không bao giờ quên rằng danh hiệu
“Kitô” đã được các môn đệ và các tín hữu đầu tiên áp dụng cho Đức Giêsu và cũng
chính từ danh xưng đó mà họ mang danh là “kitô hữu”. Do đó chủ đề mà cuốn sách
đề cập đến hoàn toàn mang tính kitô học.
Với những lưu ý trên chúng ta
sẽ dần dần khám pha ra phương pháp (méthode), vấn nạn (problématique)
cũng như tiêu chí thần học (critériologie théologique) mà tác giả đã đặt
ra cũng như cố công thực hiện. Chúng ta sẽ theo dàn bài gồm ba phần (2). Trước
hết, tóm tắt nội dung của cuốn sách xem thử Đức Thánh Cha muốn nói gì,
tranh luận với ai, đề nghị điều gì, để rồi từ đó lẩy ra “chủ ý” của tác giả
đồng thời làm sáng tỏ “luận đề” ngài muốn bảo vệ; tiến đến khảo sát phương
pháp tác giả dùng, nghĩa là ngài đã tiếp cận, đã trình bày quan điểm mình
như thế nào; và cuối cùng là uy thế của tác phẩm cũng như những bài học
rút ra từ công trình thần học này.
I. Nội dung
Tác phẩm với tựa đề “Đức
Giêsu thành Nazareth” này thật sự muốn nói gì?
I.1. “Lời nói đầu” và
“Dẫn nhập”
Tác phẩm mở ra với “Lời nói
đầu” trong đó tác giả chia sẻ lý do sao ngài đã khởi sự viết cuốn sách này từ
mùa hè năm 2003 lúc còn là Hồng y tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức tin và tại sao
ngài lại đeo đuổi việc này ngay cả khi đã trở thành Giáo Hoàng và đã hoàn tất
tập I vào ngày lễ thánh Hiêrônimô, 30 tháng 9 năm 2006. Tập sách khởi đi từ
biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giôđan cho đến cuộc Biến hình của Người
trên núi Taborê. Tác giả để dành phần mà ta quen gọi là “Phúc âm thời thơ ấu”
cũng như cuộc khổ nạn và phục sinh trong tập II sẽ hoàn tất sau này.
Sau “Lời nói đầu” là “Dẫn
nhập”, tức phần mà tác giả gọi là “Tổng luận đầu tiên về mầu nhiệm Đức Giêsu”. Phần
này rất quan trọng vì cho ta chìa khoá để hiều tư tưởng của tác giả về nhân vật
Giêsu, một nhân vật vượt xa Môisen, là Môisen mới và Môisen cũ chỉ là hình
bóng: Đức Giêsu mới là người vén màn cho ta thấy khuôn mặt thật của Thiên Chúa,
vì Người là Đấng duy nhất đã chiêm ngắm khuôn mặt đó như Phúc âm Gioan cho
thấy: “ Thiên Chúa không ai thấy bao giời; Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng
hằng ờ trong cùng lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho ta biết” (cf.Ga 1,18).
I.2. Nội dung
Nhưng Đức Giêsu tỏ cho biết
Chúa Cha thế nào? Mười chương tiếp theo sẽ mang lại câu trả lời. Grosso modo,
ta có thẻ chia 10 chương này thành hai phần.
Phần thứ nhất khởi đầu với đời
sống công khai của Đức Giêsu, tức là Phép Rửa Người chịu tại sông Giođan
(chương 1), tiếp đến là các cám dỗ trong hoang địa (chương 2), trước khi bàn
đến lời rao giảng về Nước Thiên Chúa (chương 3), với trọng tâm là bài giảng
Trên Núi, tức Tám mối phúc thật (chương 4) mà tinh tuý là kinh Lạy Cha (chương
5).
Phần thứ hai cũng gồm 5 chương. Chương
6 bàn về lời kêu gọi ngỏ với các môn đệ và sứ mệnh của họ; tiếp đến là sứ điệp
qua các dụ ngôn (chương 7), rồi các hình ảnh lớn trong phúc âm theo thánh Gioan
như: dòng nước, cây nho, rượu nho, bánh mì, mục tử (chương 8). Cuối cùng, đi
liền sau chương 9 tức chương bàn về “hai biến cố nổi bật trong suốt lộ trình
của Đức Giêsu” là Tuyên Tín của Phêrô và cuộc Biến Hình, chương 10 khép tập I
lại với “các lời khẳng định về chính mình của Đức Giêsu”. Vì tác phẩm chưa có
phần kết luận nên ta có thể xem chương 10 như lời kết. Và như thế là trở lại
với xác tín đã nêu lên trong phần Nhập đề: nội dung của tác phẩm không
gì khác hơn là mô tả hành trình khám pha nơi “Đức Giêsu thành Nazareth” mạc
khải đích thực về Thiên Chúa, bởi vì Đức Giêsu là con Thiên Chúa.
I.3. Quả tim của tác
phẩm
Xuyên qua 10 chương của cuốn
sách, mỗi chương theo cách thế riêng đã cố gắng trả lời cho câu hỏi liên quan đến
căn tính của Đấng mà tựa đề của sách đã khoác cho một cái tên thật đơn sơ
“Giêsu thành Nazareth”. Nói cách khác, qua các trang sách, độc giả sẽ dần dần
khám phá ra điều có thể gọi là “quả tim” của tác phẩm, một quả tim mang bốn yếu
tố: 1/ tính tập trung vào bản thân Đức Giêsu, 2/ tính duy nhất
của mối tương quan giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa, 3/ tính tận căn của
câu trả lời Đức Giêsu đã khơi lên trong tâm hồn các môn đệ, 4/ và sau cùng là căn
tính của Đức Giêsu thành Nazareth, Con Thiên Chúa.
a. Đức Giêsu là trung
tâm duy nhất
Hơn cả Rudof Schnackenburg là
người đầu tiên và cuối cùng được trích dẫn trong sách, tác giả mà Joseph
Ratzinger tham chiếu nhiều nhất và có trọng lượng nhất không ai khác ngoài “vị
thông thái vĩ đại người Do Thái” có tên là Jacob Neusmer, đặc biệt trong tác
phẩm của ông nhan đề A Rabbi talks with Jesus, New York, 1993 (tạm dịch:
Cuộc trò chuyện tưởng tượng của một giáo sĩ Do Thái với Đức Giêsu). Sau đây là
đoạn văn căn bản được tác giả Joseph Ratzinger trích dẫn:
“Sau
khi đã theo Đức Giêsu trong suốt cuộc đàm thoại nội tâm trọn ngày với Ngài,
Neusmer rút về một thành phố của người Do Thái để cầu nguyện và nghiền ngẫm
kinh Thora cũng như để đối thoại với vị giáo sĩ Do Thái về những gì ông đã nghe
[…]” [Vị giáo sĩ trích dẫn một đoạn kinh Tamuld xứ Babylone và cuộc đối thoại
giữa hai người diễn ra như sau:]
Có phải đó là tất cả những gì hiền nhân Giêsu đã nói với ông không? “Vị
giáo sĩ hỏi Neusmer. [Neusmer trả lời]: “Không hoàn toàn chính xác như thế
nhưng cũng gần gần như vậy”. [Vị giáo sĩ hỏi thêm]: Thế ông Giêsu đã loại bỏ
những gì? [Neusmer trả lời]: “Không loại bỏ gì cả”. [Vị thầy hỏi lại]: Thế thì
ông Giêsu thêm vào điều gì?” [Neusmer đáp]: “Giêsu!”
Từ đó Joseph Ratzinger chú
giải:
“Trọng
tâm của sứ điệp Đức Giêsu đã làm cho người tín hữu Do Thái mang Tên Neusmer
khiếp sợ, và lý do khiến ông từ chối đi theo Đức Giêsu cũng như mãi mãi trung
thành làm người tín hữu Do Thái cũng không gì khác hơn ngoài đặc tính trung tâm
của bản thân Đức Giêsu trong sứ điệp của Ngài. Chính đặc tính ấy tạo nên hướng
di mới cho tất cả mọi sự” (tr. 126-127).
Và dĩ nhiên Đức Bênêđictô đã
tận dụng mọi cơ hội để làm nổi bật lên điểm then chốt ấy, đặc biệt khi chú giải
Bài giảng trên núi với điểm nhấn Đức Giêsu dùng là: Các ngươi đã nghe
người xưa dạy [liền sau đó là một câu Lời Chúa trích từ kinh Thora];
còn Ta, Ta bảo các người [tiếp theo là một Lời của chính Đức Giêsu]. Rõ ràng là
Đức Giêsu đặt cái “Ta”, tức bản thân Người, vào ngay chính trọng tâm của sứ
điệp, ngay vào chỗ của kinh Thora, của Lề Luật Thiên Chúa, của uy quyền
Thiên Chúa trước đây.
b. Duy nhất tính giữa
Đức Giêsu với Cha của Người
Nếu Đức Giêsu đặt bản thân
người làm trọng tâm, đặt Lời Người như song đối với Lời của chính Thiên Chúa,
thì Người cũng đặt chính mình vào vị trí của Thiên Chúa, “ngang tầm với
Thiên Chúa” như Đức Joseph Ratzinger đã viết. Và như thế là Đức Giêsu đã
“phạm thượng”, “tự coi mình là Thiên Chúa” như những người sẽ giết Người sau
này tố cáo.
Đó là “vấn nạn vô cùng quan
trọng” như tác giả viết ở cuối chương 3 là chương bàn về các chước cám dỗ Đức
Giêsu phải chịu, vấn nạn vốn sẽ theo chúng ta trong suốt cả tác phẩm và cũng là
luận đề chính yếu của tác phầm:
“Đức Giêsu đã thực sự mang lại gì, nếu Người đã không mang lại hoà bình cho thế
giới, không mang đến hạnh phúc cho con người, không mang lại một thế giới tốt
đẹp hơn? Người đã mang lại gì?
“Câu trả lời thật đơn giản: Thiên Chúa. Đức Giêsu đã mang lại Thiên Chúa. Người
đã mang cho nhân loại vị Thiên Chúa mà chân dung Người đã hé mở dần dần kể từ
Abrâhm cho đến nền văn chương khôn ngoan xuyên qua Môsê và các Tiên Tri _, vị
Thiên Chúa vốn chỉ mạc khải chân dung đích thực của mình trong dân Israel và
chỉ được tôn vinh nơi các dân tộc khác dưới các kiểu biến hoá (avatars) mơ hồ _
chính vị Thiên Chúa đó, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên
Chúa của Giacop, Thiên Chúa đích thực, đã được Đức Giêsu mang đến cho mọi dân
trên khắp cùng bờ cõi trái đất. Thật vậy, Đức Giêsu đã mang đến cho chúng ta
Thiên Chúa, từ đó chúng ta mới có thể biết được dung mạo của Thiên Chúa, từ đó
chúng ta mới có thể kêu cầu Người, từ đó chúng ta mới có thể biết được con
đường, mà trong tư cách con người, chúng ta phải xử dụng. Đức Giêsu đã mang lại
Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, Người cũng mang đến cho chúng ta chân lý về
cội nguồn và vận dụng của chúng ta; Người cũng mang lại cho chúng ta đức tin,
đức cậy và đức mến” (tr 63-63).
c. Tính tận căn của
lời đáp trả nơi các môn đệ
Ở đây chúng ta có thể trở lại
điều Đức Joseph Ratzinger đã nói về Neusmer:
“Để làm bằng chứng về điều [duy nhất] được Đức Giêsu “thêm vào” trong truyền
thống Thánh Kinh vốn có trước Người: Neusmer trích dẫn […] lời Đức Giêsu ngỏ
với người thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết những
gì anh có rồi đến đây theo ta” (cf, Mt 19,20). Như thế, từ nay sự hoàn hảo,
tiến trình nên thánh như Thiên Chúa là Đấng Thánh như sách Thora đòi hỏi (cf.
Lv 19,2; 11,44) hệ tạ ở một điểm duy nhất: theo Đức Giêsu!”
Bởi thế rõ ràng là Neusmer
không còn chọn lự nào khác ngoài việc từ chối đi theo Đức Giêsu bởi vì như ông
đã bày tỏ (Disutatio, trang 70), đối với ông câu trả lời Đức Giêsu khơi
lên nơi các môn đệ thì “chỉ một mình Thiên Chúa” mới có thể đòi hỏi nơi ông mà
thôi.
d. Căn tính của Đức
Giêsu trong tư cách là Con Thiên Chúa
Đây là điểm tới của toàn bộ
con đưòng chiêm niệm và suy tư của Đức Thánh Cha. Nói cách khác, tất cả tiến
trình của cuốn sách dần dần hé mở và củng cố “luận đề” mà tác giả đã nói lên
trong phần Dẫn Nhập, nghĩa là trong Đức Giêsu và chỉ trong Đức Giêsu mà thôi
mới có thể “thực hiện hoàn toàn điều còn dang dở nơi Môsê: Đức Giêsu sống trước
Nhan Thiên Chúa [trong lúc Môsê chỉ thấy Thiên Chúa “từ sau lưng” (Xh 18,23],
Đức Giêsu cũng không sống trong tư cách bằng hữu như Môsê (Xh 33,11), nhưng
trong phẩm chất cao quý của Người Con sống trong niềm hiệp thông mật thiết nhất
với Chúa Cha.
Đó chính là khởi điểm từ đó
có thể hiểu được khuôn mặt Đức Giêsu của Tân Ước. Tất cả những gì được kể lại
về Đức Giêsu: lời Người nói, việc Người làm, nỗi đau Người chịu cũng như vinh
quang Người hưởng đều tìm được ở đây điểm tựa [ancrage] duy nhất và vững chắc
nhất. Nếu bỏ qua điểm tựa đồng thời cũng là điểm trung tâm này, chúng ta sẽ chỉ
đi bên cạnh điều làm nên tính biệt loại của khuôn mặt Đức Kitô, thậm chí mâu
thuẩn với khuôn mặt đó và rốt cuộc sẽ làm cho khuôn mặt đó trở nên không thể
nào hiểu nổi. Đây cũng là câu hỏi mà tất cả độc giả của Tân Ước đều phải đặt ra
cách tất yếu, nghĩa là tìm cách hiểu cho được từ đâu mà Đức Giêsu đã có thể rút
ra các giáo huấn của Người, do đâu mà ta có thể giải thích các dạng thức của
cung cách Người sống. Tất cả chỉ có thể được phúc đáp nếu khởi đi từ luận đề cơ
bản trên.
Nói cách khác, đối diện với
kitô học “thấp” [christologie ‘basse’] vốn hoài công khảo cứu về mầu nhiệm Đức
Kitô bằng một con đường duy nhất là lịch sử, Joseph Ratzinger đi ngược lại khi
trình bày một kitô học “cao” [christologie ‘haute’] bằng cách khởi đi từ mối
giây thâm tình giữa Đức Giêsu và Cha của Người, “cội nguồn uyên nguyên cao cả
của các hành vi, lời giáo huấn cũng như niềm đau và nỗi khổ của Người” (tr.27)
đúng như Tin Mừng đã thuật lại cho chúng ta. Từ đó chúng ta mới hiểu tại sao
tác giả lại đặc biệt khai triển ba tước hiệu kitô học: Con Người, Người Con và
thành ngữ “Ta là”: ba tước hiệu này “vén mở” cho chúng ta căn tính độc nhất vô
nhị của Đức Giêsu (x. tr. 383). Căn tính hay mối giây thâm tình phụ-tử ấy đã
được công đồng Nicée (325) diễn tả qua thuật ngữ “đồng bản thể” (homoousios).
Hiển nhiên, tin hay không tin
vào Chúa, điều đó không phải tự nhiên mà có: một “giáo huấn” như vừa trình bày
trên đây đâu phải dễ dàng được chấp nhận! Bởi thế cần làm sáng tỏ những gì cho
phép hoặc làm bảo chúng cho những xác quyết trên. Nói cách khác, cần đặt câu
hỏi về chính phương pháp tác giả đã dùng đi đến những khẳng định như thế.
II. Phương pháp
Đâu là “điểm xuất phát” của
kitô học nói chung ? Đứng trước câu hỏi này thường có 4 khả năng phúc đáp và
mỗi khả năng có những điểm mạnh điểm yếu của nó:
1/ Một là ta có
thể khởi đi từ giáo huấn của Giáo Hội, đặc biệt là giáo huấn của các
công đồng, về Lời Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm.
2/ Hai là khởi
đi từ một cuộc khải sát lịch sử về khuôn mặt Đức Kitô.
3/ Ba là khởi đi
từ khát vọng của con người, khát vọng mà chỉ một mình Đấng Cứu Thế mới
có thể đong đầy và Đấng Cứu Thế ấy không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu.
4/ Sau cùng kitô
học cũng có thể chọn điểm xuất phát là chính thực tại của kitô giáo ngày
nay, nghĩa là khởi đi đồng thời từ nền tảng uyên nguyên cũng như từ những năng
lực hiện tại, cụ thể là khởi đi a) từ Đức Giêsu của những người ngày đầu kỷ
nguyên kitô giáo và b) từ một Đức Giêsu mà chúng ta tuyên tín hiện nay như Đấng
Kitô.
Đây dĩ nhiên không phải là
lúc khai triển rộng rãi các khởi điểm trên đây nhưng chúng ta vẫn phải phân
tích sơ lược để hiểu được phương pháp kitô học Đức Thánh Cha đã dùng.
II.1. Đây không phải
là một kitô học khởi đi từ những giáo huấn của Giáo Hội
Thật vậy, trong tác phẩm kitô
học này Joseph Ratzinger đã không bắt đầu bằng một khảo luận có hệ thống về
giáo huấn của Truyền thống và của các Công Đồng về mầu nhiệm Đức Kitô, cũng
không nghĩ mình có trách nhiệm phải tìm cho được nền tảng chắc chắn bằng những
lập luận rút ra từ Truyền Thống, từ Thánh Kinh và từ “lý trí”, như các sách
khoa thần học cổ điển được dùng trong các đại chủng viện và các nhà đào tạo
giáo sĩ. Tác giả không bảo chúng ta rằng: bởi vì dọc theo bao tháng năm, Giáo
Hội đã từng công bố những giáo huấn rõ ràng qua các mệnh đề tín lý vốn làm nên
uy quyền đối với đức tin người tín hữu, vì thế phải khởi đi từ những mệnh đề
tín lý ấy chứ không phải gì khác, nghĩa là phải đón nhận chúng trong tâm tình
vâng phục để rồi từ đó chỉ còn một nhiệm vụ duy nhất là khai triển chúng. Theo nghĩa
này, hiển nhiên là mọi cách thức khác đều vi phạm kỷ luật và bắt đầu có dấu
hiệu sai lạc.
Không, Đức Thánh Cha đã hoàn
toàn không nói và làm như thế. Ngài đã không hề trích dẫn công đồng Ephèse
(431) lẫn Chalcédoine (451), tức hai công đồng lớn nhất về kitô học. Và nếu
công đồng Nicée (325), tức công đồng chung đầu tiên, được nêu tên trong sách
thì cũng chỉ là trong đoạn hầu như gần cuối sách, và chỉ nhằm mục đích duy nhất
là mở ra cánh cửa cho một chặng đường mới của con đường thần học. Rồi tác phẩm của
Denzinger-Schnmetzer là thủ bản thu gom tất cả các tài liệu của huấn quyền công
giáo cũng không được trích dẫn cả trong bảng “ký hiệu” những tài liệu căn bản
đã dùng (tr. 393-394, từ những bộ giáo phụ lớn đến những từ điển thần học đồ
sộ) lẫn trong thư mục trình bày cách tỉ mỉ các sách tham khảo từ trna g395-404.
Và, trong mục mang tựa đề “Bảng trích dẫn Thánh Kinh và Giáo huấn của Giáo Hội”
(trang 405) thì mục trích dẫn Thánh Kinh chiếm từ trang 405-419 (tức 15 trang),
trong lúc đó chỉ một trang nhỏ (gồm 4 dòng) dành cho bốn tài liệu của giáo huấn
Giáo Hội mà thôi.
Như thế điểm lưu ý đầu tiên
về phương pháp luận đã được minh xác. Không những chỉ vì người ký tên tác giả,
dù là Giáo Hoàng, không hề có ý thực thi quyền bính giáo huấn riêng của mình mà
thôi; nhưng ít là ở đây trong tác phẩm này ngày cũng đã không hề nại đến các
lập trường của giáo huấn Giáo Hội, lập trường mà về phương diện kitô học, đã
được diễn tả hết sức dồi dào và phong phú trải dài hơn 20 thế kỷ.
II.2. Kitô học này
cũng không chọn khoa lịch sử về Đức Giêsu làm khởi điểm
Chúng ta có thể nói ngay rằng
tác giả đã cực lực chống lại một thứ giáo khoa (có khi mệnh danh là “ lý thuyết
tuyệt đối”) của phương pháp phên bình-lịch sử (méthode historico-critique).
Ngay từ Lời nói đầu tác giả đã viết: “[…] kể từ những năm 50, cái hố
thẳm đã không ngừng được khoét rộng ra giữa “Đức Giêsu theo lịch sử” và “Đức
Kitô của niềm tin”; và thoáng nhìn vào ai cũng thấy ngay sự kiện là hai khuôn
mặt đó đã thật sự cách xa nhau muôn trùng. Từ đó câu hỏi thiết yếu được đặt ra:
niềm tin vào Đức Giêsu như là Đâng Kitô, niềm tin vào Đức Giêsu
như là Con Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì không khi mà con người mang tên Giêsu
lại khác xa với Đấng được các Phúc âm giới thiệu, khác xa với Đấng mà Giáo Hội
tuyên xưng khởi đi từ các Phúc âm?
“Tiến bộ của các
nghiên cứu theo phương pháp phê bình-lịch sử đã cho thấy những khác biệt ngày
càng tinh tế giữa các tầng [strates] khác nhau của truyền thống, và cuối cùng
khuôn mặt của Đức Giêsu, khuôn mặt mà đức tin luôn luôn qui chiếu vào cách tất
yếu, đã dần dần trở nên mờ nhạt và thậm chí đi đến chỗ tàn phai” (trang7-8).
Trong suốt tác phẩm Joseph
Ratzinger rất dè chừng với loại phương pháp trên. Dĩ nhiên chắc chắn tác giả đã
rất chú trọng đến lịch sử của Đức Giêsu, chắc chắn tác giả đã chân nhận tầm
quan trọng và ngay cả tính “hoàn toàn thiết yếu” (trang 11) của phương pháp phê
bình lịch sử trong việc xử lý các văn bản Thánh Kinh; nhưng tác giả đã hành xử
hoàn toàn khác với những kẻ tự cho rằng trong lãnh vực này tiếng nói đầu tiên
và cuối cùng phải thuộc về các mà ta gọi là “khoa học về lịch sử” như đã được
hiểu và thực hành hoặc bởi trường phái tự do [libéralisme] ở Đức, hoặc phái tân
thuyết [modernisme] ở Pháp, với đỉnh cao _ nếu có thể nói theo một nghĩa nào đó
_ là R. Bultmann như là đại diện trong những năm 40-50. Đức Joseph Ratzinger
quả quyết: tiếng nói cuối cùng về thực tại lịch sử và về những gì xảy ra
trong lịch sử không thuộc về lịch sử xét như là một khoa học về lịch sử.
Trong chương 2 khi bàn đến
chước cám dỗ thứ hai của Đức Giêsu, cuộc cám dỗ xảy ra giữa hai chuyên gia Kinh
Thánh là ma quỷ và Đức Giêsu, tác giả đã lưu ý rằng nếu không khéo thì việc chú
giải Thánh Kinh có thể trở thành khí cụ của Phản-Kitô. Ta có thể kiểm chứng
điều này khi nhận ra rằng lúc đó Thánh Kinh của Phản-Kitô trong đó Thiên Chúa
không còn lên tiếng nữa (và cũng không thể lên tiếng nữa) mới thật là khoa chú
giải mang tính khoa học (cf. trang 54-56)!
Tiếp đến trong chương 8 khi
bàn về “các hình ảnh lớn trong Phúc âm theo thánh Gioan”, tác giả đã giao chiến
với R. Bultmann để khẳng định rằng: hoàn toàn ngược lại với lập trường của thần
học gia Tin Lành này, Phúc âm thứ tư dựa trên những hiểu biết rất chính xác
trong những gì liên quan đến nơi chỗ và thời đại của Đức Giêsu, và như thế dù
một dạng khoa học dạng tầm cao hay những gì tự xưng như thế đều không phải là
một bảo đảm chống lại những sai lầm ngay cả trên bình diện lịch sử.
II.3 Kitô học này
cũng không khởi đi từ những khát vọng của con người
Về phương pháp luận, khả năng
thứ ba trong lãnh vực kitô học là khởi đi từ những đợi chờ và khát vọng của con
người để rồi từ đó đi đến giả thiết và cuối cùng là chấp nhận sự kiện Đức Giêsu
là Đấng Kitô, nghĩa là tuyên xưng Người như Đấng mạc khải về Thiên Chúa và là
Đấng thực hiện kế đồ cứu độ nhân loại. Ở đây cũng vậy, tác giả của chúng ta tỏ
ra rất thận trọng và cực kỳ dè dặt. Một lần nữa, kể từ chương 2 là chương bàn
đến các chước cám dỗ của Đức Giêsu, tác giả nhấn mạnh rằng chìa khoá để hiểu
mầu nhiệm Đức Giêsu không thể tìm gặp ở những gì là hiển nhiên mọi người đều
thấy cũng không ở những nhu cầu vật chất trong nguyên trạng của chúng.
“Còn gì bi thảm và
đối nghịch với niềm tin vào một vị Thiên Chúa tốt lành và một Đấng Cứu Thế của
nhân loại hơn là cái đói của nhân loại? Tiêu chuẩn đầu tiên để nhận ra vị Cứu
Thế khi Ngài đối diện với thế giới và cho thế giới không phải hệ tại ở chỗ Ngài
phải đem lại cơm bánh để chấm dứt ngay cơn đói của mọi người hay sao? Khi dân
Do Thái lạc lối trong hoang địa, Thiên Chúa đã nuôi sống họ bằng cách ban bánh
từ trời, tức manna, từ đó người ta nghĩ có thể lẩy ra một hình ảnh về thời cánh
chúng: Đấng Cứu Tinh của nhân loại không phải là một Đấng luôn luôn tỏ ra chân
tính mình bằng cách ban của ăn cho mọi người hay sao? Vấn nạn nghèo đói trên
thế giới, và cách chung, vấn đề xã hội không phải là tiêu chí đầu tiên và chính
hiệu để đo lường hiệu năng cứu độ hay sao? Người không đáp ứng tiêu chí nà có
còn xứng đáng tự xưng là Đấng Cứu Thế hay không? Chúng ta dễ dàng hiểu được tại
sao thuyết mác-xít đã đặt lý tưởng này vào ngay trung tâm của những hứa hẹn cứu
độ: bằng mọi giá phải làm sao để tất cả cơn đói chấm dứt và “sa mạc trở thành
cơm bánh” (tr. 51).
Theo Đức Joseph Ratzinger,
một bên là chế độ mác-xit, một bên là các trợ giúp của Tây phương dành cho các
nước thuộc thế giới thứ ba, trong mức độ chúng gần như hoàn toàn nghiêng về
bánh vật chất _ cám dỗ mà thần học giải phóng không dễ gì thoát khỏi, _ cả hai
đều “nghĩ rằng mình sẽ biến đá thành bánh, nhưng cả hai đã cho đá thay vì cho
bánh” (tr.53). Trong thực tế, bằng cách trich dẫn lời của Alfred Delf _ một tu
sĩ dòng Tên người Đức đã bị Đức Quốc Xã hành hình _ tác giả Joseph Ratzinger đã
khẳng quyết rằng “bánh mì thì quan trọng, tự do thì quan trọng hơn, nhưng điều
quan trọng nhất trong tất cả vẫn là lòng trung tín vững bền và niềm tôn thờ
không bao giờ bội phản”.
“Nơi nào trật tự của những thiện hảo trên đây không được tôn trọng, trái lại bị
đảo lộn, thì ở đó cũng chẳng còn công bình, ở đó người ta cũng chẳng thèm quan
tâm đến những người đau khổ nhưng lại tự tạo nên đảo điên và huỷ diệt, ngay cả
trong những lãnh vực thiện hảo vật chất. Nơi nào mà Thiên Chúa bị coi là thứ
yếu khiến người ta có thể tạm thời bỏ qua hoặc vĩnh viễn xoá nhoà nhân danh
những điều quan yếu hơn thì nơi đó những điều được giả thiết là quan trọng hơn rồi
cũng sụp đổ theo. Lối thoát tiêu cực của kinh nghiệm mác-xít không phải là kinh
nghiệm duy nhất cho ta thấy điều đó đâu” (trang 53).
Do đó tác giả nghĩ rằng trên
hết mọi sự cần nhắc lại điều ngược đời: điều Đức Giêsu đã “thực sự mang đến”
cho nhân loại không gì khác hơn là chính Thiên Chúa “bằng cách mang đến chính
bản thân”, (như thánh Irénée đã nói). “Vương quốc” (chương 3) không thuộc về
thế gian này. Phúc âm không phải là một dự án về xã hội cũng chẳng phải là một
chương trình chính trị (chương 4, bài giảng trên núi). Lời cầu nguyện của Đức
Giêsu đã xác quyết ưu thế của Thiên Chúa và Vương Quốc Người (chương 5).
Như thông điệp đầu tiên của
Đức Bênêđictô XVI “Thiên Chúa là Tình Yêu” đã nhiều lần nhắc đến, điều
chắc chắn là niềm tin vào một Đấng Thiên Chúa-Tình Yêu đã tự mạc khải mình ra
trong Đức Kitô luôn mời gọi con người dấn thân để phục vụ thế giới, trong đó
những người nghèp khổ bất hạnh nhất của cuộc đời luôn được đặt lên hàng vị trí
ưu tiên; nhưng điều ngược lại thì không đúng: không bao giờ chỉ khởi đi từ sự
dấn thân trong thế giới và cho thê giới mà con người lại có thể đạt đến chỗ
khám phá ra Thiên Chúa hằng sống đã mạc khải chính mình trong Đức Giêsu, khám
phá ra điều Người hứa hẹn và tặng ban […]
II.4. Cuối cùng, tác
giả đề nghị một kitô học khởi đi từ dữ kiện của Tân Ước
Dữ liệu của Tân ước là gì? Là
dữ kiện đúng như các tác giả Tân ước đã trình bày và chúng ta có thể tin rằng
họ đã thực sự tin vào điều họ tường thuật liên quan đến Đức Giêsu.
Dữ kiện của Tân ước là gì? Là
dữ kiện đúng như việc nghiền ngẫm Thánh Kinh cho phép ta hiểu, một việc nghiền
ngẫm luôn đặt các dữ kiện đó vào trong toàn bộ Kinh Thánh, Cựu ước và Tân ước
(tức “khoa chú giải chính quy”). Nói cách khác, tác giả đề nghị chúng ta đọc
các bản văn Kinh Thánh khác nhau bằng cách luôn qui hướng chúng về toàn bộ Kinh
Thánh, nghĩa là đọc Kinh Thánh như một đơn vị duy nhất và trong một toàn
thể duy nhất [comme unité et totalité].
Dữ kiện của Tân ước là gì
nữa? Là nội dung đúng như chúng đã được đón nhận qua các thế kỷ cũng như đang
được đón nhận hôm nay trong đức tin sống động cảu các kitô hữu trong Giáo Hội.
Chắc chắn Joseph Ratzinger
không bao giờ chủ trương không cần đặt nặng giáo huấn của Huấn Quyền: các dòng
cuối của tác phẩm đã minh chứng rõ ràng điều đó, nhưng ngài muốn nhấn
mạnh đến đặc tính khắt khe cũng nhưng uyển chuyển của phương pháp ngài chọn: ở
đây ngài không trực tiếp nại đến Huấn Quyền và cho thấy chính Huấn Quyền cũng
phải bị “qui định” bởi Thánh Kinh. Chắc chắn tác giả không muốn chối từ cũng
chẳng muốn làm phương hại đến khoa học về lích sử và khoa học chú giải phê bình
lịch sử, nhưng ngài từ chối cho rằng chúng đã đủ để nói lên chân lý về lịch sử.
Chắc chắn tác giả không hề đánh giá thấp các đợi chờ và khát vọng của con
người, nhưng ngài từ chối chọn chúng làm điểm qui chiếu để đo lường mọi hy vọng
của con người cũng như ơn cứu độ sẽ đến trong họ. Điều đó có nghĩa là tác giả
của chúng ta phản đối chủ trương cho rằng khuôn mặt của Đức Giêsu chỉ có thể là
khuôn mặt của một con người như nhóm phê bình tự do đã rêu rao hoặc công luận
ngày nay có khuynh hướng nghĩ đến […] ngay cả khi cả hai đều đồng ý rằng đó là
một khuôn mặt biệt loại trong lịch sử nhân loại!
“Đối với tôi, _ Joseph Ratzinger viết _ trình bày về Đức Giêsu, điều
đó trước hết có nghĩa là hoàn toàn đặt niềm tin vào các Phúc âm. Dĩ nhiên chúng
ta luôn giả thiết tất cả những gì Công đồng và khoa chú giải hiện đại cho biết
về các thể loại văn chương, về ý hướng của các khẳng định, về ngữ cảnh cộng
đồng của các Phúc âm và của những lời nói trong toàn bộ sưu tập sống động ấy.
Nhưng bằng cách hội nhập tất cả ấy tối đa có thể vào suy tư của mình, tôi đã
muốn trình bày một Đức Giêsu của Thánh Kinh như là một Đức Kitô đích thức, như
một “Đức Kitô lịch sử” theo nghĩa đen của hạn từ này. Tôi xác tín và hy vọng
rằng độc giả cũng sẽ xác tín điều đó, nghĩa là thấy rằng khuôn mặt ấy rất
logic, rất đầy ý nghĩa lịch sử, và rất dễ hiểu so với những tái tạo mà chúng ta
phải đương đầu trong những thập niên qua. Tôi tin chắc rằng Đức Giêsu ấy, tức
Đức Giêsu của các Phúc âm là một khuôn mặt hợp lý và hợp nhất (cohérents).
“Chỉ khi nắm chắc rằng nơi Người dường như có cái gì đó ngoại thường đã xảy ra,
chỉ khi nắm chắc rằng nơi khuôn mặt và các lời nói của Người dường như có cái
gì đó vượt quá cách tận căn tất cả mọi khát vọng và đợi chờ của con người,
vâng, chỉ khi đó cái chết của Người trên thập giá và ảnh hưởng sâu đậm của
Người mới tìm được lời giải thích thoả đáng […].
[…] Quả vậy tin Đức Giêsu là Thiên Chúa thật đồng thời cũng là người thật, tin
Đức Giêsu đã làm cho ta hiểu chân lý ấy trong một dạng thức giấu ẩn, tức dạng
thức của các dụ ngôn mà ý nghĩa chỉ được tỏ lộ ra dần dần, tất cả ấy dĩ nhiên vượt
qua khả năng của phương pháp lịch sử. Ngược lại, dưới ánh sáng của một niềm xác
tín vốn đâm rễ sâu trong đức tin, người ta có thể đọc các bản văn Thánh Kinh
bằng cách dựa trên phương pháp lịch sử và trên hướng đi của nó vốn khai mở về
những điều lớn lao hơn _ thì bấy giờ các bản văn ấy tự nhiên mở ra và từ đó
xuất hiện một con đưòng và một khuôn mặt rất đáng tin.
[…] Một cách đơn sơ tôi cố gắng áp dụng những tiêu chí mới về phương pháp luận
vốn cho chúng ta một giải thích chuyên biệt về thần học Thánh Kinh. Và [nếu]
những tiêu chí ấy đòi hỏi đức tin cách hiển nhiên [thì chúng không muốn cũng
không thể] chối bỏ gì xét về mặt lịch sử đúng tầm mức khắt khe của chúng (tr.
17-19).
Để kết luận phân tích nay, ta
có thể trích lời nhận định của Jean-Luc Marion về phương pháp được dùng trong Đức
Giêsu thành Nazareth: “Ngày từ thuở mới khai sinh, khoa chú giải phê bình
lịch sử đã trao quyền ưu tiên […] cho một lược đồ ưu tuyển: chúng ta không thể
có bản tường trình về các biến cố lịch sử liên quan đến cuộc đời Đức Giêsu, bởi
vì các trình thuật ấy đều xuất phát từ các lần biên soạn sau cái chết của Đức
Kitô, những biên soạn vốn chú giải quá mức [sur-interprètent] và “thần học hoá”
[theologisent] lịch sử của Người. Trong cái nhìn ấy, lịch sử được ghi lại trong
Tân ước xác nhận niềm tin kitô giáo hâu-phục sinh chứ không phải các sự kiện
lịch sử. Trong tác phẩm của mình về Đức Giêsu Joseph Ratzinger đề nghị
một quan điểm ngược lại: sự vĩ đại khôn sánh của biến cố Giêsu không phát xuất
từ các nhà chú giải sau này, tức một khoa chú giải vốn không thể tự mình nâng
lên mức suy lý thoả đáng về cái chết và cuộc phục sinh của Đức Kitô (vì họ có
thể tìm chúng được ở nơi đâu), những phát xuất từ chính biến cố đó” (3).
III. Uy thế của tác
phẩm
Phương phát mà tác giả áp
dụng đã tạo cho tác phẩm của ngài một vị trí xứng đáng trong lòng Giáo Hội; từ
đó việc rút ra uy thế của nó dường như không mấy khó khăn. Thật ra chính tác
giả đã làm nhẹ gánh công tác này vì ngay ở Lời nói đầu tác giả đã nói rõ lập
trường của mình: “Rõ ràng là tôi không cần phải khẳng định rằng cuốn sách này
không phải là một bản văn của huấn quyền, nhưng chỉ là một cách diễn tả cuộc
tìm kiếm “dung nhan Thiên Chúa” (cf. Tv 27,8) cảu riêng cá nhân tôi mà thôi. Vì
thế mỗi người đều có thể có tự do nói ngược lại với những gì tôi nói trong
sách. Tôi chỉ đơn giản xin độc giả nam nữ vui lòng đọc tác phẩm tôi với thiện
cam vì nếu thiếu thiện cảm này có lẽ cuốn sách sẽ trở nên khó hiểu” (tr.19).
Vậy hãy mổ xẻ và phân tích
tác phẩm! Chúng ta thật rất biết ơn tác giả đã cho chúng ta tự do đó. Nhưng rốt
cuộc, tuy chúng ta không nghi ngờ gì về lòng thành của tác giả, chúng ta vẫn
phải thừa nhận rằng tác phẩm này không thuần tuý là một tác phẩm giữa bao tác
phẩm khác. Khẳng định này xuất phát từ hai lý do: trước tiên vì đó là tác phẩm
của một chuyên gia đã hoạt động lâu năm trong lãnh vực thần học, là tác phẩm
của một thần học gia tên tuổi mà các cựu sinh viên của ngài rất sùng mộ, các
đồng nghiệp của ngài rất kính nể và đông đảo bạn đọc đánh giá rất cao (chúng ta
chỉ cần gợi lên nơi đây âm vang của một tác phẩm của J. Ratzinger xuất bản cách
đây đã 30 năm, La foi chrétienne, hier et aujourd’hui là đã đủ); lý do
thứ hai: vì tác giả là một Giáo Hoàng, vì thế không một ai, ngay cả bản thân
ngài, lại không khảo sát tác phẩm này mà không có lòng kính trọng nững gì tác
giả nói hoặc viết. Do đó, dù tác giả không nói gì thêm hoặc ngài nghĩ rằng nói
như thế là đã đủ chúng ta cũng phải đọc kỹ hơn để rút ra những bài học cần
thiết.
III.1. Bài học về một
suy niệm cá nhân
Trước hết là bài học về suy
niệm của cá nhân tác giả. Khía cạnh này rất quan trọng đối với Đức Joseph
Ratzinger, quan trọng cho đến nỗi ngài đã lưu ý ngay từ những dòng chữ đầu và
còn được lập lại ở cuối Lời nói đầu một lần nữa: “Cuốn sách này là kết
quả của một tiếp cận nội tâm cá nhân” (tr.19). Thật vậy, Đức Bênêđictô XVI đã
chiêm ngắm các hình ảnh lớn mô tả Đức Giêsu như mục tử, như cây nho… và các
khẳng định của Người về chính bản thân mình. Từ đó tác giả đã chia sẻ cho chúng
ta những gì mà ngài đã chiêm ngắm trong tư thế của một tín hữu, một nhà giảng
thuyết, _ vì tác giả không chỉ là một thần học gia chuyên giảng dạy ở các đại
học _ trước khi là một giám mục, rồi một hồng y và sau cùng là một Giáo Hoàng.
Nơi tác phẩm này chúng ta chỉ
có thể vui thoả trước vẻ đẹp và sự phong phú của các khám phá mà tác giả đã
khai mở và mời gọi chúng ta tiếp bước. Hơn nữa, theo lời tâm sự của tác giả,
việc đánh giá cao hay thậm chí ngưỡng mộ các chia sẻ của ngài không bao giờ
được xem như mục đích. Chính tác giả đã nói rõ “mục đích” của mình không gì khác
hơn là tạo điều kiện thuận lợi “cho sự phát triển mối tương quan sống động với
Đức Giêsu nơi các độc giả mà thôi” (tr.20).
III.2. Bài học về
khảo cứu của một chuyên gia
Chắc chắn trong tác phẩm kitô
học này Joseph Ratzinger vẫn mặc lấy phong độ của một thần học gia, phong độ mà
ngày không ngừng phát triển dầu đã là một Giáo Hoàng. Dĩ nhiên ở đây tất cả đều
tuỳ thuộc vào giá trị hợp pháp về mặt trí thức của các lập trường đã
chọn và phẩm chất của các luận chứng được trình bày nhằm bảo vệ các lập
trường đó. Hẳn ai trong chúng ta cũng nhận thấy ở đây cuộc tranh luận lập tức
được mở ra cách tự nhiên và rộng rãi cho các chuyên gia ở các lãnh vực liên hệ,
đặc biệt là lãnh vự chú giải và thần học.
Quả vậy, Joseph Ratzinger
muốn đi xa hơn những gì Schnackenburg đã từng nói; tác giả cũng rất nhiều lần
chống lại Bultmann; ngài lập luận khởi đi từ lập trường của Neusmer, của
Jérémeas, của Dodd và Hêngl nhưng cũng dựa trên các tác giả Pháp quan thuộc như
Grelot, Daniélou và Lubac. Ngài trưng dẫn giáo phụ Irénée, Cyprien, Origène,
Truyền thống Đông phương, thánh Bênêđictô… _ Trong tất cả các dẫn chứng ấy rõ
ràng là tác giả muốn đặt mình vào trong cuộc “hội thoại” với các thần học gia.
Ngài cũng có những lập trường riêng trong tư thế đối tác, gợi lên những thách
đố, khơi lên những tranh luân,… Người ta có cảm nghĩ như đang trong không gian
cảu những tranh luận, của disputatio.
III.3. Bài học về sự
dấn thân kiểu bút chiến
Cần chú ý đến những yếu tố
sau đây để hiểu được những bút chiến này,
a. Trước tiên đó là cảm
thức của một người đang yêu. Đối với khuôn mặt của người mà mình đang yêu
thương, Joseph Ratzinger không ngần ngại gì cả. Tác giả cảm thấy bị tổn thương
đau khổ khi người ta động chạm đến Đấng mà ngài yêu hơn cả mạng sống mình, như
thánh Phaolô đã từng chia sẻ. Vì thế tác giả cảm thấy mình cần phải hổ trợ khi
người bạn mình bị khinh chê, bị biến dạng.
b. Tiếp đến, nỗi bức xúc
của một chuyên gia. Dĩ nhiên tác giả của chúng ta không đi đến chỗ bút
chiến chống lại tác phẩm Da Vinci Code như một số người đoán mò đoán mẫm
trước khi tác phẩm phạm thánh này xuất hiện. Nhưng ở trong tác phẩm này cũng
như ở những nơi khác chúng ta thấy rõ tác giả đã nổi giận thực sự khi có cảm
giác Đức Kitô bị xúc phạm.
c. Cuối cùng, sự chăm lo
của một mục tử. Xuyên qua các trang sách ta thấy rõ Joseph Ratzinger đôi
lúc phải khẳng định rằng ý kiến chung chung của quần chúng thường liên kết một
cách quá dễ dàng với những lập trường cực đoan nhất, tiêu cực nhất, nghĩa là
những lập truờng từ chối mầu nhiệm Đức Kitô. Lúc đó, chống lại “những kể khôn
ngoan thông thái” tác giả đã bảo vệ “những người yếu đuối và bé mọn”, vì thật
ra cuối cùng, như Thánh Kinh cho thấy, họ mới là những người được mạc khải cho
biết mầu nhiệm Nước Trờì, trong lúc đó đối với những người “thông thái” khác
thì lại bị che khuất. Đó thật là một thái độ của người mục tử. Ở đây ta lại gặp
lại hình tượng của một Phêrô với sứ mạng “củng cố đức tin cho anh chị em mình”.
III.4. Sau cùng là
bài học của một chứng nhân
Dĩ nhiên tất cả mọi tín hữu
kitô đều có sự mạng làm chứng cho Đức Kitô giữa thế gian. Thật vậy, như ngày
xưa Phêrô đã đại diện anh em mình để tuyên tín: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống, ngày nay tác giả Ratzinger cũng không đi ra ngoài sứ mệnh
đó để trả lời cho câu hỏi muôn thuở của Đức Kitô đặt ra cho mỗi tín hữu: Còn
anh em anh em bảo Thầy là ai?
Tác phẩm Đức Giêsu thành
Nazareth cũng là lời phúc đáp trước câu hỏi Đức Giêsu đã ngỏ cùng Phêrô: Con
có yêu mến thầy không? Qua tác phẩm này, tác giả không những cho ta câu trả
lời đầy xác tín nhưng còn gợi lên trong mỗi người lời đáp trả và quyết tâm đi
theo Đức Kitô. Như thế, nếu mục đích của tác phẩm là giúp độc giả biết và hiều
Đức Giêsu [connaitre et comprendre Jesus] thì mục đích đó chỉ đạt được khi chúng
ta gấp sách lại mà như nghe được tiếng Chúa mời gọi đi theo Người trong ơn gọi
và bậc sống của mình./.
Lm. Giuse Hồ Thứ
nguồn :Xuân Bích Việt
Nam
http://xuanbichvietnam.wordpress.com/
——————————————
(1) Joseph Ratzinger – Benoit
XVI, Jésus de Nazareth I. Du baptême dans le Jourdain à la Transfiguration.
Edition francaise sous la direction de Mgr Francois Duthel. Tranduit de
l’allemand par Dieter Hornig, Marie – Ange Roy et Dominique Tassel. Editión
Flammarion, 2007, 430 pages.
(2) Cách chung, bài nói
chuyện này theo sát các phân tích của Đức Cha Joseph Doré p.s.s. trong
bài báo mang tựa đề “L’ouvrage d’un théologien Pape”, (Documentation
catholique, n. 2382/17 juin 2007, trang 570-579). Ngoài ra, các tài liệu sau
đây cũng được tham khảo và xử dụng : Carlo M. Martini, “Un ardent témoignage
sur Jésus de Nazareth”, lbid., trang 566-569; M.Neusch, “Jésus de
Nazareth I. Du baptême dans le Jourdain à la Transfiguration”, site: www.
Theologia. fr.
(3) Marcel Neusch, “Jésus
de Nazareth I. Du baptême dans le Jourdain à la Transfiguration”, site:
www. Theologia.fr, (Documentation catholique, số 2382, trang 579 trích dẫn
lại). Những chữ in đậm là của chúng tôi.