SỨ
ĐIỆP CỦA ĐỨC GIÊSU
***
ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY Ở
NADARET :
VÂNG PHỤC
(tiếp theo)
4. Dựa vào quy tắc Tin mừng và sự phân tích
tình huống
Trước vấn đề khó khăn là vâng phục, cần nhắc lại một số điều cốt yếu.
Tuy vậy, vấn đề khó khăn này phải được suy nghĩ nhiều, khi đối mặt với những
trường hợp cụ thể.
Chúng ta cần ghi nhận một nguyên tắc quan trọng trong mọi lãnh vực :
khi quyết định một chuyện gì, phải luôn dựa vào cả Tin mừng lẫn tình huống, để
ánh sáng từ Tin mừng và tình huống soi dẫn ta.
Ánh sáng Tin mừng có tính chất quy tắc. Nhưng cần hiểu rõ quy tắc là
gì. Quy tắc không phải là lệnh. Lệnh thì chính xác : phải làm điều này, không
được làm điều kia. Quy tắc là chuyện hoàn toàn khác. Có quy tắc về “mốt”. Có
quy tắc về công bình. Quy tắc dành một khoảng trống cho sáng tạo. Quy tắc có
tính chất sáng tạo. Tin mừng không phải là một chương trình gồm những lệnh
chính xác, không trực tiếp cho ta biết phải đưa ra quyết định thế nào. Tin mừng
chỉ dạy ta sống “nghèo khó, vâng phục”.
Ngoài ánh sáng Tin mừng, còn có ánh sáng phát xuất từ tình huống, từ
hoàn cảnh thời gian, hoàn cảnh của Giáo Hội hay cộng đồng. Chúng ta đứng trước
một tình huống mà chúng ta không thể phân tích cho đúng.
Điều cốt yếu cho giáo dục là dạy người ta phân tích đúng một tình
huống. Nếu chỉ dựa vào Tin mừng, chúng ta chỉ tạo ra những lễ sinh. Điều đó
không nên. Ngược lại, nếu chỉ dựa vào tình huống, thì có thể xẩy ra, chẳng hạn,
điều này : chúng ta dám bắn bỏ cả ngàn người, nếu tình huống khuyên ta bắn bỏ.
Đó là thứ luân lý hoàn cảnh rõ ràng bị Giáo Hội lên án. Khi đưa ra một quyết
định, chúng ta phải luôn phối hợp hai ánh sáng : ánh sáng Tin mừng cũng là ánh
sáng có tính chất quy tắc, và ánh sáng từ tình huống mà chúng ta đã cố phân
tích tối đa.
Phân tích một tình huống thì có nhiều cách, nên quyết định cũng đa
dạng. Nếu chỉ có Tin mừng, hẳn sẽ không có sự đa dạng đó. Chúng ta nên suy nghĩ
cùng một sự việc và quyết định cùng một sự việc. Trên thực tế, chúng ta thấy
nhiều lựa chọn khác nhau tuỳ theo người khuynh tả hay khuynh hữu.
5. Tiêu chuẩn tuyệt đối của lương tâm
Chúng ta đưa ra quyết định bằng cách nghe theo tiếng lương tâm. Chính
lương tâm là người xét xử cuối cùng. Không ai được quyền làm trái lương tâm.
Nghe theo tiếng lương tâm là tiêu chuẩn tuyệt đối. Thánh Tôma bàn rất dài về
vấn đề này. Ngài đã dám nói : nếu lương tâm tôi cho rằng việc tôi tin vào Đức
Giêsu là một cái gì đó xấu cho nhân loại, thì tôi phải chiến đấu chống lại Đức
Giêsu và Giáo Hội. Đó là bổn phận của tôi. Không gì có ưu thế hơn lương tâm.
Nhưng cũng phải coi chừng. Nhiều người tưởng là lương tâm không cho
phép họ vâng phục, trong khi thực ra lương tâm của họ đã không được đào tạo
tốt, họ không biết phân tích đúng tình huống, biết rất ít về Chúa là chuẩn
mực.. Vì có cảm tưởng Giáo Hội phô bày những biểu hiện phản chứng trong những
vấn đề thuộc công bình xã hội chẳng hạn, họ nghĩ phải ra khỏi Giáo Hội, và cho
rằng đó là do lương tâm đòi hỏi. Trong lãnh vực này, phải rất mực khôn ngoan,
thận trọng. Phải giúp họ xem xét mọi khía cạnh của tình huống, kể cả vấn đề
hiệp nhất trong Giáo Hội, trong đức tin, nếu tình huống có liên hệ với Giáo
Hội. Khi có quyết định nào phá vỡ sự hiệp nhất Giáo Hội và cổ võ sự ly khai,
phải suy xét thật kỹ. Người nào quả quyết mình hành động theo lương tâm, người
đó cần thận trọng, dè dặt.
Nhiều người đưa ra những quyết định mà không nắm chắc tinh thần của Đức
Kitô, không hiểu rõ Tin mừng. Sự phân tích của họ về tình huống thường không
đáng tin.
Chắc chắn, nếu chỉ biết có Tin mừng, ta có nguy cơ trở thành những lễ
sinh. Nhưng nếu hiểu Tin mừng cho đúng, suy niệm cho sâu sắc sự vâng phục của
Đức Giêsu ở Nadaret, ta sẽ hiểu ngay đó không phải là một sự vâng phục dễ dàng,
theo kiểu nhà binh. Đừng quá tô vẽ hình ảnh con trẻ Giêsu làm như lúc nào cũng
vâng dạ đối với cha mẹ. Đừng gán cho Ngài kiểu vâng phục của một lễ sinh. Đúng
là Chúa vâng phục cha mẹ, nhưng không loại trừ những sáng kiến và phản kháng có
thể có của Ngài, vì không phải lúc nào Giuse cũng đúng.
6. Quyền bính trong Giáo Hội
Coi sự vâng phục chỉ là thi hành thuần tuý một lệnh truyền tức là lấy
sự tuân lệnh trong quân đội làm mẫu mực cho nó. Không phải vậy. Louis de
Bonald, một văn sĩ Pháp đầu thế kỷ XIX, đã viết: “Có hai nơi trong đó người ta
có thể ở với nhau mà không nguy hiểm gì, đó là trại lính và Giáo Hội, vì ở
những nơi đó, họ không được lên tiếng”. Nhưng nếu lý tưởng là như vậy, thì phải
ra khỏi đó.
Tuy nhiên, nếu nói rằng thể chế Giáo Hội rất thường tiến dần tới một quan
niệm như thế về quyền bính và vâng phục, thì điều này không sai. Phải cố gắng
giúp cho Giáo Hội đừng thi hành quyền bính theo cách đó. Đừng bao giờ lẫn lộn
sự vâng lời đích thực với kiểu vâng lời “tối mặt”. Ngoài mặt trận, tuân lệnh
sát mặt chữ có thể là một tai hoạ. Kiểu mẫu tối thượng của vâng phục không phải
là cái máy. Máy làm theo lệnh, cứ ấn nút là nó hoạt động. Còn sự vâng phục thì
khác. Trong sự vâng phục, cần có sự biện biệt và sáng kiến.
Một là, có thể có trường hợp hành vi được quyền bính truyền làm lại vô
luân hay là tội ác. Đối với một mệnh lệnh như thế, phản kháng theo lương tâm có
thể là một bổn phận. Sự vâng phục không có tính cách máy móc, nhưng luôn có sự
xét đoán của lương tâm đi kèm. Cứ nại tới lệnh của người trên để chỉ biết làm
theo, chuyện đó quá dễ. “Anh biết đấy, tôi làm theo lệnh mà!” Đừng gọi đó là
vâng phục. Thực ra đó là tinh thần của kẻ xu nịnh, không có tí giá trị nào.
Hai là, cho dù không vô luân hay là tội ác đích danh, lệnh của người
trên có thể là lạm quyền. Trong trường hợp này, tình huống phức tạp hơn nhiều.
Khi quyền bính bị lạm dụng thì có còn là quyền bính nữa không hay nó đã vượt
quá phạm vi của nó ? Khi đó phải phân tích. Trong một số trường hợp, người ta
có thể nghĩ rằng phải vâng phục do công ích đòi hỏi. Trong những trường hợp
khác, nếu sự lạm quyền gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, thì cũng
chính vì ý thức về công ích mà lương tâm phải phản kháng.
Vấn đề thật khó. Phải hỏi han, cân nhắc xem đâu là công ích. Cả khi
phải vâng phục, người ta cũng không được trở thành đồng loã với hành vi lạm
quyền. Phải phản kháng và cố gắng làm sao cho không còn có sự lạm quyền. Vừa
phải vâng phục để duy trì sự hiệp nhất, vừa phải đấu tranh chống lại sự lạm
quyền. Nếu biết có lạm quyền mà vẫn phải vâng phục thì chỉ là để tránh một sự
dữ lớn hơn.
Ba là, mệnh lệnh có thể được đánh giá là không đủ hoặc không cân xứng
đối với các thành viên của một cộng đồng. Trong trường hợp này, mối quan tâm
hiệp nhất thường đòi tránh gây chia rẽ. Do đó, chúng ta muốn các người phản
kháng chấp nhận để người khác phản kháng mình, và chính mình cũng biết phản
kháng mình. Chúng ta cũng muốn phải làm hết cách để có đối thoại.
Trong trường hợp thứ ba và cả trường hợp thứ hai (tuỳ tình huống), vâng
phục là chết một cách sâu sắc, kết hợp với cái chết của Đức Kitô vâng phục.
Không có cái chết nào sâu sắc hơn sự vâng phục khi người ta xác tín là quyền
bính đã lầm. Vâng phục như vậy quả là một mầu nhiệm.
Lm Micae Trần Đình Quảng
19-4-2004