Nhân Mùa Giáng Sinh:
Tìm hiểu Ngày ‘’Sinh Nhật’’ của Chúa Giêsu Kitô.
L.M. Anphong Trần Đức Phương
( Cựu giáo sư chủng viện Simon Hòa)
Tại Hoa Kỳ, cứ sau lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) nhiều gia đình và
nhà hàng bắt đầu trang hoàng trong nhà, cũng như trước cửa nhà để chuẩn bị vào
mùa Lễ Lớn: Đại Lễ Giáng Sinh và năm mới sắp tới. Một cách đơn giản chúng ta
thường hiểu Lễ Giáng Sinh là ngày lễ mừng ‘’Sinh Nhật’’ (Birthday) của Chúa
Giêsu và ngày 25 tháng 12, 2005 nầy là ngày sinh nhật thứ 2005 của Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, nghiên cứu lịch sử về ngày lễ nầy, chúng ta thấy có những điều không
hẳn đơn giản như vậy.
Một chút lịch sử ơn cứu
độ.
Theo truyền thống Do Thái mà nền tảng là Thánh Kinh Cựu Ứơc,
sau khi tổ tông (Thủy tổ) loài người là ông Adong và bà Eva sa ngã phạm tội,
liền bị mất ân nghĩa với Thiên Chúa (Sách Sáng Thế 3:23). Tuy nhiên vì ‘’Thiên
Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của Chúa’’ (ST 1:27) Ngài không để con
người phải án phạt đời đời, nên Ngài đã hứa ban một Đấng Cứu Thế đến để cứu
chuộc tội lỗi nhân loại (ST 3:15) và danh hiệu của Ngài là ‘’Đấng Cứu Tinh’’
(Messiah). Nguyên ngữ trong tiếng Do Thái thì ‘’Messiah’’ có nghĩa là ‘’Đấng
được xức dầu’’. Theo thói tục của người Do Thái thì ai được chọn làm ‘’Vua’’,
làm ‘’Tiên Tri’’ (Prophet), làm thầy ‘’Tư Tế’’ đều được phong chức chính thức
bằng việc xức dầu (thánh) (dầu ô liu) trên đầu. Danh từ ‘’Messiah’’ chuyển dịch
qua tiếng Hy Lạp là ‘’Christos’’. Danh từ
‘’Christos’’ chuyển sang tiếng La-tinh là ‘’Christus’’ và sang tiếng Pháp,
tiếng Anh là ‘’Christ’’, Tiếng Việt Nam (theo các bản dịch Thánh Kinh của Công
Giáo, và các sách đạo đức) chuyển dịch là ‘’Kitô’’ (hay Kytô).
Theo Do Thái Gíáo thì đấng
‘’ Messiah’’ (Kitô) chưa tới cứu độ Dân Ngài. Hàng năm người Do Thái vẫn
đến bên bức ‘’Tường Khóc’’ để cầu nguyện xin ‘’Đấng Cứu Độ’’ đến.
Theo Kitô Giáo thì ‘’Đấng Kitô’’ đã Giáng Sinh, và khi Ngài
sinh ra thì được đặt tên là ‘’Giêsu’’ (Jesus) theo như lời sứ thần truyền tin
cho Maria, mẹ Ngài, đã báo trước (Xin xem Phúc Âm Luca 1:31 và 2:21). Danh từ
‘’Giêsu’’ theo nguyên ngữ Do Thái có nghĩa là ‘’Đấng Thiên Chúa Cứu Độ’’, sau
đó hiểu là ‘’ Đấng Cứu Độ’’ (Savior). Vì Chúa ‘’Giêsu’’ chính là ‘’Đấng Kitô’’
Thiên Chúa đã hứa, nên tên Ngài thường được gọi là ‘’Giêsu Kitô’’. Thánh Phaolô
trong các thơ gửi các giáo đoàn thường dùng danh hiệu ‘’Giêsu Kitô’’. Chúng ta
cũng nên lưu ý là vào thời xưa một người chỉ có ‘’tên gọi’’, chưa có ‘’tên họ’’
và ‘’tên đệm’’; nhưng có những ‘’tên hiệu’’ ghép vào ‘’tên gọi’’ trong một số
trường hợp, nhất là trường hợp của các vua chúa hay các ‘’Danh Nhân’’. Theo
Kinh Thánh, Chúa Giêsu cũng được gọi là ‘’Emmanuel’’ hay ‘’ Immanuel’’ (PÂ Luca
1:23). Danh từ ‘’Emmanuel’’ trong tiếng Do Thái có nghĩa là ‘’Thiên Chúa ở cùng
chúng ta’’. Danh hiệu ‘’Emmanuel’’ đã được Tiên Tri Isaia (740-687BC) nói đến
(Sách Isaia 7:14).
Chúa Giêsu sinh ra năm
nào?
Năm Thiên Chúa Giáng Sinh làm
người được kể là năm thứ nhất theo lịch chung chúng ta dùng hiện nay; như thế
sinh nhật của Ngài đã chia đôi lịch sử nhân loại.
Theo lịch sử Thánh Kinh thì từ ‘’tạo thiên lập địa’’ đến năm
Chúa Giáng Sinh được gọi là ‘’Thời Kỳ Cựu Ước’’ và từ năm Chúa Giáng Sinh trở
về sau được gọi là ‘’Thời Kỳ Tân Ước’’. Theo lịch chung chúng ta dùng hiện nay
thì trước thời Chúa giáng sinh gọi là trước ‘’Công Nguyên’’, thường ký hiệu là
B.C. ‘’Before the birth of Christ’’ và từ năm Chúa giáng sinh cho đến ngày
‘’tận thế’’ thì gọi là sau ‘’Công Nguyên’’ thường ký hiệu là A.D. ‘’Anno
Domini’’ ‘’ Theo năm của Thiên Chúa’’.
Như vậy ngày 25 tháng 12 năm 2005 này chúng ta mừng sinh nhật
thứ 2005 của Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên vì các nhà làm lịch lúc đầu tính lầm
nên năm Chúa Giêsu giáng sinh bị lệch đi mất 6 hoặc 7 năm. Nếu tính đúng thì
năm 2005 sẽ phải là năm 2011 (hoặc 2012). Nói một cách khác, đơn giản hơn, thì
vào năm 2005 này tuổi của Chúa Giêsu đã là 2011 (hoặc 2012).
Lý do của việc ‘’tính lầm’’ nầy là vì vào thời xưa người ta
chưa có lịch chung như ngày nay, nên thường tính năm theo triều đại của các vua
như ‘’Đời Vua Hùng Vương thứ 18... chẳng hạn, hoặc theo một biến cố lịch sử nào
đó như năm Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây ‘’Vạn Lý Trường Thành’’ chẳng hạn. Các
thánh sử khi viết sách ‘’Phúc Âm’’ hay ‘’Tin Mừng’’ cũng dùng niên hiệu các vua
cùng với những biến cố lịch sử nào đó. Thí dụ: Thánh Matthêu viết: ‘’Khi Chúa
Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđêa, thời vua Hêrôđê trị vì... (xin xem PÂ theo
Thánh Matthêu 2:1... ). Thánh Luca viết: ‘’ vào thời Hoàng Đế Augustô ra
‘’chiếu chỉ Kiểm Tra dân Số’’... Khi Giuse và Maria đang ở Bêlem, thì Maria đến
ngày sinh con... (xin xem PÂ Luca 2:1... )
Khi Chúa Giáng Sinh thì nước ‘’Do Thái’’ (vùng Palestina) đang
dưới quyền ‘’đô hộ’’ của Đế Quốc Rôma. Lúc đó Đế Quốc Rôma đang cai trị nhiều
vùng rộng lớn, bao gồm cả vùng Trung Đông. Hoàng Đế Rôma lúc đó là Augustô. Còn
vua Hêrôđê chỉ là một ‘’tiểu vương’’ thay mặt hoàng đế Rôma cai trị miền Giuđêa
(phiá nam Palestina) và nhà vua không phải là người Do Thái. Vùng đất Palestina
(nơi người Do Thái sinh sống thời đó) gồm ba miền: Galilê (Bắc), Samaria
(Trung) và Giuđêa (Nam). Thành Bêlem nơi Chúa Giáng Sinh và thủ đô Giêrusalem
nằm phiá nam thuộc Giuđêa. Vua Hêrôđê này thường được gọi là vua ‘’Hêrôđê Cả’’
(Herod the Great) để phân biệt với Hêrôđê ‘’Antipa’’ là con. Vua ‘’Hêrôđê Cả’’
là người đã tiếp kiến các nhà đạo sĩ’’ phương đông đến triều yết, để hỏi đường
đến chiêm bái vị vua mới sinh ra (Matthêu 2:1...). Cũng nhà vua nầy đã ra lệnh
‘’giết các hài nhi mới sinh từ hai tuổi trở xuống...’’ (xin xem thêm PÂ Matthêu
2:1…). Theo các sử gia thì nhà vua này chết vào năm 4 trước Công Nguyên, tức là
sau khi Chúa Giêsu sinh ra chừng 3 hay 4 năm (vì Chúa Giêsu sinh ra vào năm 6
hay 7 trước Công Nguyên, do nhà làm lịch tính lầm năm, như đã nói trên) Khi
Thánh Giuse nghe tin nhà vua đã chết, liền đem Đức Maria và Chúa Hài Nhi trở
lại quê hương (PÂ Matthêu 2,19...) (Như vậy là Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa
Hài Nhi Giêsu cũng đã phải trải qua một thời ‘’di cư’’ sống nơi ‘’đất khách,
quê người’’ như nhiều người Việt Nam chúng ta hiện nay!).
Riêng về Hêrôđê ‘’Con’’ ông là người đã ra lệnh xử trảm Thánh Gioan
Tiền Hô (PÂ Matthêu 14:4). Nhà vua này cũng là người đã ‘’Rất mừng rỡ khi gặp
mặt Chúa Giêsu...’’ (PÂ Luca 23:6...) khi Người bị bắt và đang bị xử án.
Nếu tính theo triều đại Hoàng Đế Rôma Augustô, thì Chúa Giêsu
sinh ra vào ‘’ đời Hoàng Đế Augustô thứ 20’’.
Thực ra người chủ trương lấy năm Chúa Giêsu sinh ra là năm I
để bắt đầu Công Nguyên là ông Diônisiô (khoảng năm 556) đã tính lầm năm sinh
của Chúa, vì ông căn cứ vào năm xây dựng thành Rôma và tính là Chúa giáng sinh
vào cuối năm 753 sang năm 754 (sau khi thành lập thành Rôma) là năm Chúa giáng
sinh, tức là năm I cuả Công Nguyên. Nhưng sau này các sử gia và các học giả
kinh thánh và lịch sử Đế Quốc Rôma nghiên cứu lại các thời đại Hoàng Đế Augustô
và vua Hêrôđê Cả mới thấy là Chúa Giêsu phải sinh ra sớm hơn khoảng năm 746 hay
747 sau khi thành lập thành Rôma, và vì thế năm sinh của Chúa bị ghi hụt đi mất
6, 7 tuổi và cũng vì thế mừng sinh nhật cúa Chúa năm 2003 chính ra đã là năm
2009 (hay 2010). Tóm lại, năm Chúa Giêsu Kitô Giáng Sinh.
*Cách
thời của Abraham: 21 thế kỷ;
*Cách
Maisen với công cuộc xuất hành khỏi Ai Cập: 13 thế kỷ;
*Cách
thời bà Ruth và các thẩm phán: 11 thế kỷ;
*Cách
thời vua David được xức dầu phong vương: một ngàn năm;
*Cách
năm đại hội Olympics đầu tiên: 776 năm (Đại Hội thứ 194);
*Khoảng
747 năm sau khi thành lập Thành Rôma.
(Qúy vị có thể xem thêm tài liệu trong các sách chú-giải về
Kinh Thánh hoặc đọc phần Dẫn Nhập vào Kinh Thánh Tân Ước trong các bản dịch
Kinh Thánh của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn; hoặc của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh
Phụng Vụ; hoặc trong The New American Bible; hoặc trong Bible de Jêrusalem).
Chúa Giêsu sinh ra ngày
nào?
Đọc tiểu sử của các ‘’vĩ nhân’’ trên thế giới thời xưa, chúng
ta thường không thấy nói đến ngày sinh; chẳng hạn Socrate (khoảng 470-399 BC)
hay Platon (khoảng 428-348 BC) v.v... Ngay các cụ trọng tuổi của người Việt Nam
chúng ta bây giờ, nhiều vị cũng không nhớ ‘’ngày sinh, tháng đẻ’’ của mình;
nhiều cụ chỉ nhớ là tuổi‘’Mùi’’ hay tuổi ‘’Thìn’’. Ngay cả ngày tháng năm sinh
của các cụ trên giấy khai sinh cũng không đúng hẳn... Ngày sinh của Chúa Giêsu
cũng không được ghi lại đầy đủ trong các sách Phúc Âm (Tất nhiên Chúa Giêsu
cũng không có giấy khai sinh hay sổ bộ khai sinh...)
Nhưng tại sao lại mừng ngày Chúa Giêsu ra đời vào 25 tháng 12
hằng năm?
Thực ra, trong ba thế kỷ đầu (các Kitô hữu chỉ họp nhau để kỷ
niệm việc Chúa Giêsu đã chịu đau khổ, đã chịu chết và đã sống lại. Đặc biệt tụ
họp vào ngày thứ nhất trong tuần (Ngày Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết: xin xem
PÂ Gioan 20,1...) và gọi ngày này là ‘’Chúa Nhật’’. Việc cử hành phụng vụ này
gọi là ‘’ Nghi Lễ Bẻ Bánh’’ (ý nói đến việc cử hành nghi lễ ‘’Thánh Thể) (xin
đọc sách Tông Đồ Công Vụ đoạn 2, câu 42...). Trong những cuộc ‘’họp mặt ‘’ này,
các Kitô hữu cùng gặp gỡ nhau, chia sẽ tình thân hữu và niềm tin, rồi cùng nhau
cầu nguyện và dự ‘’Lễ Thánh Thể’’ (Nghi Thức Bẻ Bánh). Lúc đầu chưa có các
‘’Thánh Đường’’, nên thường tùy tiện họp mặt tại các tư gia hay nơi nào có thể
được, như tại ‘’hành lang Salomon’’ (TĐCV 5:12...). Tuy nhiên việc ‘’Cử Hành’’
này cũng không được đều đặn, vì ngay từ lúc đầu các Kitô đã bị bách hại và xua
đuổi. Đọc sách ‘’Tông Đồ Công Vụ’’ (The Acts of Apostles), ta thấy rõ điều này:
trong khi các tông đồ và các tín hữu ra sức rao giảng ‘’Tin Mừng’’ tình thương
‘’ của Chúa cho mọi người ở mọi nơi họ sống, thì họ cũng luôn bị những thế lực
thù nghịch chống đối và bách hại; vì ‘’bóng tối’’ luôn thù nghịch ‘’ánh sáng’’.
Những người sống theo ‘’thế gian’’ thì thù ghét những ai sống ngược lại với lối
sống của họ! Tất nhiên ‘’Thầy’’ của mình là Chúa Giêsu Kitô đã bị thù ghét, bị
bắt, bị hành hạ và bị giết nhục nhã trên thánh giá, thì các môn đệ của ‘’Thầy’’
qua các thế hệ đều cũng bị bách hại cách này hay cách khác... Tuy nhiên, trong
ba thế kỷ đầu thì các cuộc bách hại rất dữ dội ngay tại nơi đất nước quê hương
của Chúa Giêsu và các tông đồ, và sau đó là ở khắp các nơi trong toàn Đế Quốc
Rôma. Hơn nữa, lúc đó chưa có các tổ chức ‘’Bảo Vệ Nhân Quyền’’ hay ‘’Bảo Vệ Tự
Do Tôn Giáo’’, nên các nhà cầm quyền tự do đàn áp và tàn sát các tín hữu và các
vị lãnh đạo tôn giáo của họ, bất kể ở các chức vụ nào. Thánh Phêrô, vị Giáo
Hoàng đầu tiên và các Thánh Tông Đồ đều bị giết, trừ Thánh Gioan thì bị lưu đày
cho đến chết. Các vị Giáo Hoàng tiếp theo cũng như các thành phần trong giáo
hội đều bị xua đuổi, bị bắt, bị tù đày và bị giết thảm khốc (nhất là dưới thời
Hoàng Đế Nêron).
Trong hoàn cảnh cực khổ đó, các vị lãnh đạo và các tín hữu
tiếp tục giữ vững đức tin và tiếp tục rao giảng Tin Mừng và họp mặt cầu nguyện
và cử hành nghi lễ ‘’Thánh Thể’’ bất cứ lúc nào và nơi nào có thể được để an ủi
và nâng đỡ lẫn nhau trong cuộc sống đức tin đầy khó khăn như thế. (Xin xem thêm
về chuyện các ‘’Hang Toại Đạo’’ ‘’Catacombs‘’ tại Rôma ngày xưa). Cho mãi đến năm
313 khi một Hoàng Đế Rôma có tên là Constantino Đại Đế (Constantine ‘’The
Great’’) ( 280-337) (theo đạo Công Giáo, Mẹ là Thánh Helene) ký hiệp ước Milan
(Edit de Milan) để bảo đảm quyền tự do tôn giáo, lúc đó giáo hội mới được hưởng
một thời kỳ an-bình (Paix de L’Eglise) và lúc đó, các Kitô hữu mới được hưởng
chút tự do để thờ phượng Chúa và các thánh đường được xây cất, các buổi ‘’họp
mặt’’ cầu nguyện, học hỏi Thánh Kinh và cử hành ‘’Lễ Thánh Thể’’ mới được
thường xuyên hơn... Tuy nhiên đến năm 336 mới thấy việc cử hành ngày Chúa Giáng
Sinh (Christmas Day) xuất hiện trong lịch phụng vụ của Giáo Hội. Việc mừng Lễ
Giáng Sinh của Chúa Giêsu chắc là trùng hợp với việc các Kitô hữu, khi đã được
hưởng thời gian an bình để sống đạo, liền nghĩ đến việc hướng về quê hương của
Chúa, nhất là nơi Chúa Giáng Sinh là thành Bêlem và hành hương kính viếng và
chung tay xây cất Đền Thờ Chúa giáng sinh tại Bêlem vào năm 330.
Vì ngày Chúa Giáng Sinh không được ghi rõ ràng trong các văn
kiện lịch sử cũng như trong các sách Phúc Âm, nên Giáo Hội đã chọn một ngày
thích hợp là 25 tháng 12 là ngày gần với ngày đông chí (winter solstice), ngày
ngắn nhất đã qua và ánh sáng lại trở lại... và vì thế các dân tộc Trung Đông
thời cổ hay mừng ‘’ngày ánh sáng’’ vào 25 tháng 12; rồi Giáo Hội muốn thánh hóa
ngày này bằng việc kính nhớ ngày Thiên Chúa Giáng Sinh ‘’Đất Trời Giao Hoà’’.
Như vậy ngày 25 tháng 12 không phải là ngày có tính cách lịch sử mà chỉ là ngày
kỷ niệm mừng Chúa giáng trần để giao hoà với nhân loại và loan báo tin mừng cứu
độ (xin xem thêm ‘’Preaching the Lectionary’’ của R. H. Fuller). Đây chỉ là một
việc làm theo ‘’tiện lợi’’, tạm ví như nhiều cụ khi ở Việt Nam thì không có
thói quen mừng ngày sinh nhật (birthday) (tất cả chỉ mừng vào dịp Tết). Nhưng
đến Hoa Kỳ, giới trẻ thích sống theo văn hóa địa phương, đã có thói quen mừng,
‘’sinh nhật’’, và cũng muốn các bậc cha mẹ có một ngày để mừng cho con cháu vui
vẻ trong gia đình. Các cụ nào không nhớ được ngày sinh nhật chính thức của
mình, đã chọn một ngày nào đó; chẳng hạn có cụ chỉ nghe cha mẹ nói là mình sinh
vào dịp tháng tám mưa bão, liền chọn một ngày trong tháng 8. Có cụ chỉ nhớ cha
mẹ nói là sinh vào giữa mùa gặt (ở ngoài bắc thì vào tháng 5) nên chọn một ngày
vào tháng 5. Kể cả việc ngày giỗ của một số vị trong gia đình cũng không thể
đúng ngày; nhiều gia đình có chồng con mất tích trong cuộc chiến, khi biết chắc
là đã chết, liền chọn một ngày để kính nhớ (thường hay chọn vào ngày nghe tin
mất tích...).
Vì ngày mừng lễ Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm không xác
thực theo lịch sử nên thường có những ý kiến chống đối; đặc biệt vào thế kỷ 17
tại Anh Quốc, những người ‘’Thanh Giáo’’ (Puritans) đã nỗ lực để yêu cầu xóa bỏ
việc mừng lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu; nhưng mọi nỗ lực đều thất bại, và việc
mừng Chúa Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm vẫn tiếp tục ở Anh Quốc cũng như
khắp nơi trên thế giới. Hơn nữa, việc mừng lễ Giáng Sinh của Chúa không phải
chỉ đơn thuần mừng ngày ‘’sinh nhật’’ của Chúa, mà còn có ý nghiã thiêng liêng
chuẩn bị tâm hồn đón Chúa vào tâm hồn tín hữu, và ngày Chúa trở lại trần gian
lần thứ hai trong ngày thẩm phán. Vì thế có gần một tháng để tín hữu chuẩn bị
lễ Giáng Sinh, gọi là ‘’Mùa Vọng’’ (ngày xưa gọi là ‘’Mùa Áp’’) (Advent). Mùa
Vọng là mùa Giáng Sinh khởi đầu niên lịch phụng vụ của Giáo Hội, tiếp theo là
‘’Mùa Thường Niên I’’, rồi đến ‘’Mùa Chay’’ (Lent) để chuẩn bị Đại Lễ Phục Sinh
và Mùa Phục Sinh, rồi đến ‘’Mùa Thường Niên II’’ kéo dài đến ‘’Mùa Vọng’’ cho
một niên lịch phụng vụ mới.
Nơi đây chúng tôi cũng xin nói thêm là trước lễ Giáng Sinh 9
tháng, Giáo Hội có một ngày mừng lễ đặc biệt gọi là ‘’Lễ Truyền Tin’’
(Annunciation) để kỷ niệm giờ phút sứ thần Thiên Chúa báo tin cho Đức Maria
biết Thiên Chúa đã chọn Ngài làm người được diễm phúc cưu mang và sinh Đấng Cứu
Thế... Và Đức Maria đã ‘’Xin Vâng’’ (xin xem Phúc Âm Luca đoạn I, từ câu
26...). Đây chính là giờ phút rất quan trọng trong lịch sử ơn cứu độ, giờ phút
‘’Đất Trời Giao Hoà’’, ‘’Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng
ta’’ (PÂ Gioan 1,14). Chính vì thế mà trong toàn Giáo Hội có thói quen ’’Nguyện
Kinh Truyền Tin’’ vào ba lúc quan trọng trong một ngày: sáng, trưa, chiều. Khi
nghe tiếng ‘’Chuông Nguyện’’ mọi tín hữu đều ngưng các công việc để nguyện kinh
‘’Truyền Tin’’ mà nhớ đến giây phút quan trọng này: ‘’Và Ngôi Lời đã nhập thể
trong lòng Đức Trinh Nữ Maria.’’ Rất nhiều nhạc sĩ, thi sĩ Công Giáo các nơi đã
sáng tác các bài thánh ca hoặc các bài thơ diễn tả giây phút ‘’huyền nhiệm’’
nầy; đan cử như bài thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, bài ‘’Theo Tiếng Thiên Thần xưa
Kính Chào’’ của Hoàng Diệp, bài ‘’L’Annonce faite à Marie’’ của Paul Claudel
(văn hào Pháp).
Ngày nay lễ Giáng Sinh (có nơi gọi là lễ ‘’No-en’’ ‘’Noel’’)
càng ngày càng lan rộng đi khắp nơi, đến cả các dân tộc ít có các Kitô hữu, và
ngay cả các nước còn đang dưới chế độ ‘’Cộng Sản’’ như Cuba, Trung Quốc, Việt
Nam, Bắc Hàn cũng không thể ngăn cản dân chúng rầm rộ mừng lễ No-en. Đáng tiếc
là ngày nay người ta đã ‘’thương mại hóa’’ dịp lễ này mà làm giảm đi phần nào ý
nghĩa thiêng liêng cao cả. Tuy nhiên điều ‘’lạm dụng’’ đó cũng không thể làm
giảm đi tinh thần mừng lễ đích thực trong lòng những người thành tâm thiện chí
(Abusus non Tullit Usum) và họ được hưởng ‘’ơn phúc lộc’’ an bình trong tâm hồn
và trong gia đình họ, như lời các Thiên Thần hát mừng trong đêm Chúa Giáng
Sinh:
‘’Vinh
Danh Thiên Chúa trên Trời,
Bình
an dưới thế cho người thành tâm!’’
Kính chúc quí vị được hưởng nhiều ơn phúc lộc của Chúa trong
dịp lễ Giáng sinh 2005 này, và những ơn phúc đó sẽ tràn lan sang năm mới 2006,
đem đến bình an thật của Chúa trong tâm hồn và gia đình mỗi người chúng ta,
cũng như cho toàn thể thế giới và trên quê hương dân tộc Việt Nam chúng ta.