Suy niệm về
ÐỜI SỐNG MỚI TRONG CHÚA KITÔ
KHIÊM TỐN (1)
"Ðừng đi quá mức khi đánh giá mình"
(Rm 12,3)
Ở vùng biển, người đi mò ngọc
trai lặn xuống nước để tìm ngọc quý, có một kinh nghiệm đặc biệt. Anh cố lặn
sâu xuống, nhưng nước lại đẩy anh lên. Chúng ta biết định luật Archimède về sức
đẩy của nước từ dưới lên.Vật thể càng nặng, khối càng to, thì lượng nước tách
ra càng lớn. Vì vậy, sức đẩy lên trên càng mạnh, như thể muốn đưa anh ta lên
lại mặt nước. Nhưng anh vẫn cố lặn xuống vì sinh kế. Quả là vất vả. Nhưng anh
sẽ vui mừng biết bao khi nhìn thấy hạt ngọc trong vỏ trai dưới đáy biển.
Việc tìm kiếm sự khiêm tốn cũng
giống như việc tìm kiếm của người mò ngọc trai. Phải lặn xuống dưới, xuống mãi
tới đáy, tới chỗ mà sự thật về con người của chúng ta nằm ở đó. Và cũng có một
sức mạnh, mạnh hơn sức nước biển, sức mạnh của kiêu căng, tìm cách đẩy chúng ta
trồi lên, đưa chúng ta lên trên chính mình và trên người khác. Thế nhưng hạt
ngọc ở dưới đáy, nằm trong vỏ trai của tâm hồn ta, lại quá quý giá, khiến ta
không bỏ cuộc, nếu không muốn thất bại.
Phải vượt qua khu vực ảo tưởng
cho mình là lớn, để đi tới hữu thể đích thực của ta, con người thật của ta. Vì,
như thánh Phanxicô Assisi nói, "con người trước mặt Thiên Chúa như thế
nào, thì thực sự là thế ấy, không hơn"
Con người có hai cuộc đời, một
cuộc đời thật, một cuộc đời tưởng tượng. Cuộc đời tưởng tượng xây dựng bằng ý
kiến của mình hay dư luận của người khác. Chúng ta thường cố làm đẹp và gìn giữ
con người tưởng tượng của ta, và làm ngơ với con người thật. Có được một nhân
đức hay một công trạng nào, thì tìm hết cách này cách khác làm cho người ta
biết đến, càng sớm càng tốt, để được ca ngợi, để trở thành có giá trước mặt
người khác. Chúng ta dùng nhân đức hay công trạng đó để làm phong phú cho con
người tưởng tượng của ta.
Thế nên, tìm kiếm sự khiêm tốn
là tìm kiếm cho chính hữu thể, tìm kiếm sự trung thực. Ðây là điều liên hệ đến
con người nói chung, chứ không riêng gì cho người kitô hữu. Khiêm tốn là điều
có tính cách nhân vi. Những từ la tinh để chỉ về con người (homo) và khiêm tốn
(humilitas) phát xuất từ một gốc có nghĩa là đất (humus). Con người được tạo
dựng bởi đất, phải biết hạ mình xuống đất. Phải biết khiêm tốn.
Triết gia Nietzsche, người Ðức,
hăng hái đả kích luân lý kitô giáo, vì luân lý này rao giảng sự khiêm tốn. Ông
đã đụng chạm đến một trong những ân huệ đẹp nhất mà luân lý kitô giáo đem đến
cho thế giới.
Phần chúng ta, hãy tin tưởng vào
người hướng dẫn bảo đảm nhất là lời Chúa. Nhờ quyền năng của Thần Khí, lời Chúa
giúp ta trở thành những người mò ngọc trai. Chúng ta không thể và không muốn
điều gì khác hơn là tìm viên ngọc quý trong vỏ trai.
1. Thế nào là khiêm tốn?
* Lời của Phaolô khuyên chúng ta
sống bác ái không giả hình xen giữa hai lời khuyên vắn về sự khiêm tốn. Hai lời
khuyên này như sau: "Ðừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá
mình cho đúng mức, mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho.
Ðừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là
khôn ngoan" (Rm 12,3.16).
Ðây không phải là những lời
khuyên về sự chừng mực, vừa phải. Phaolô muốn mở ra một chân trời rộng lớn về
sự khiêm tốn. Ngài đã công nhận bác ái có một giá trị nền tảng hàng đầu. Ngài
cũng công nhận khiêm tốn có một giá trị nền tảng, ít nhất cũng đứng liền sau
bác ái. Ðây là hướng thứ hai mà chúng ta phải thực hành, để canh tân đời sống
trong Thần Khí.
Muốn thực hành điều này, phải
dựa vào lời Chúa, phải đọc lời Chúa. Ðọc, có thể đọc điều trước dựa vào điều
sau, đọc hình bóng dựa vào thực tại, đọc Cựu ước dựa vào Tân ước, hoặc đọc theo
tiến trình ngược lại. Cách đọc đó gọi là cách đọc dựa trên sự liên tục của Kinh
Thánh (diachronique). Lại cũng có thể đọc mỗi phần dựa vào toàn bộ, đọc mỗi lời
hay mỗi đoạn trong tương quan với các lời khác của Kinh Thánh về cùng một đề
tài, vì biết rằng Thần Khí linh hứng lời này cũng linh hứng lời kia. Cách này
gọi là đọc dựa trên sự duy nhất của Kinh Thánh, trên tổng thể của Kinh Thánh
(synchronique). Cũng như người sành nghe nhạc nhận thấy ngay những dấu nhạc nào
hài hoà với nhau, cũng vậy, đối với người quen đọc Kinh Thánh, mỗi một lời đều
nhắc nhớ những lời khác bổ túc cho lời này, hoặc cùng với lời này tạo nên một sự
duy nhất. Như vậy, từng lời Chúa rất cô đọng. Ðọc theo cách này thì không có
phương pháp nào bảo đảm và hữu hiệu hơn bằng cách đọc chính bản văn Kinh Thánh.
Ðối với những câu trong thư Rôma
nêu trên, chúng ta có thể liên tưởng đến những đoạn hài hoà khác trong cả Cựu
ước lẫn Tân ước. Trong Cựu ước chẳng hạn, có đoạn văn trong sách Huấn ca:
"Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn. Càng làm lớn, con
càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Ðức Chúa. Người được tôn vinh nơi
các kẻ khiêm nhường. Ðừng tìm những gì khó quá đối với con. Những điều vượt sức
con, con đừng xét tới" (Hc 3,17-21). Còn trong Tân ước, bản văn Rôma chắc
chắn làm ta nhớ đến dụ ngôn và lời Chúa khuyên các môn đệ đừng chọn chỗ nhất
trong bữa tiệc, nhưng chọn chỗ cuối, để kết thúc bằng lời quen thuộc:
"Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn
lên" (Lc 14,11). Ðời sống cộng đồng kitô giáo nói trong thư Rôma chính là
bữa tiệc của dụ ngôn. Chính trong bữa tiệc này mà các tín hữu được mời gọi thực
hành lời Chúa dạy: đừng tìm chỗ trên hay địa vị trổi vượt, nhưng nếu có thể,
thì chọn chỗ dưới.
Như vậy, Phaolô áp dụng cho cộng
đồng Rôma lời giáo huấn truyền thống của Kinh Thánh về sự khiêm tốn, là giáo
huấn luôn được diễn tả bằng những kiểu nói: tôn mình lên, hạ mình xuống, hướng
lên cao, hướng xuống thấp. Người ta có thể khát vọng những điều quá cao bằng
trí khôn, nhưng lại không biết rằng trí khôn có hạn, và không lưu ý tới lời vị
Tông Ðồ giảng dạy. Người ta cũng có thể khát vọng những điều quá cao bằng ý
muốn, với tham vọng có được quyền cao chức trọng. Phaolô nhìn đến cả hai hình
thức trên đây. Lời của ngài bao trùm cả hai: cáo giác sự tự phụ của trí khôn và
tham vọng của ý muốn.
* Khi lặp lại giáo huấn của Kinh
Thánh về sự khiêm tốn, Phaolô nêu lên một phần lý do mới mẻ và độc đáo của nhân
đức này, làm cho giáo lý của Kinh Thánh về sự khiêm tốn tiến thêm một bước.
Theo Cựu ước, lý do biện minh
cho sự khiêm tốn là từ phía Thiên Chúa. Ðây là lý do thần học. Thiên Chúa chống
lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm tốn (Kn 3,34; G 22,29). Tuy nhiên,
Kinh Thánh không cho biết tại sao Thiên Chúa làm như thế, tại sao Ngài lại tôn
người khiêm tốn và hạ kẻ kiêu căng. Các dân tộc khác đã đưa ra những cách giải
thích khác nhau, chẳng hạn Thiên Chúa làm thế là vì ghen tương, hoặc cho rằng
đó thuần tuý chỉ là do ý của Thiên Chúa muốn phạt sự kiêu căng của con người.
Riêng Phaolô đưa ra khái niệm về
sự thật. Ngoài lý do thần học, ngài thêm một lý do khác từ phía con người, tạm
gọi là lý do nhân học. Thiên Chúa yêu người khiêm tốn, vì họ ở trong sự thật.
Ðó là một con người thật. Ngài phạt kẻ kiêu căng vì kiêu căng là dối trá. Tất
cả những gì nơi con người không phải là khiêm tốn, đều là dối trá.
Vì không biết như thế nên các
triết gia hy lạp, dù ca ngợi hầu như mọi nhân đức, lại không biết đến đức khiêm
tốn. Theo họ, khiêm tốn luôn có một nghĩa tiêu cực chỉ sự thấp hèn, ti tiện,
nhát đảm. Có hai ý tưởng giúp cho người ta liên kết khiêm tốn với sự thật, thì
họ lại không được biết. Ðó là ý tưởng về tạo dựng và ý tưởng về tội lỗi. Theo ý
tưởng về tạo dựng, tất cả những gì tốt đẹp nơi con người đều từ Thiên Chúa. Còn
theo ý tưởng của Kinh Thánh về tội, tất cả những gì sai lầm và xấu xa về phương
diện luân lý nơi con người đều từ con người, từ sự tự do của con người. Cả do
điều tốt lẫn do điều xấu được nhận ra nơi mình, mà con người Kinh Thánh được
thúc đẩy đi tới chỗ khiêm tốn.
Sự thật là một yếu tố mới, được
Phaolô nêu ra, liên hệ đến sự khiêm tốn. Tuy mối liên hệ giữa khiêm tốn và sự
thật chưa thấy có trong bản văn Cựu ước, kỳ thực nó đã được sống rồi. Ðan cử
một ví dụ. Chính ý thức "khiêm tốn là sự thật" đã gợi hứng cho tác
giả Thánh vịnh nói lên: "Con biết tội mình đã phạm. Con đắc tội với Chúa,
với một mình Chúa. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt
lẽ khôn ngoan" (Tv 50/51).
* Theo Phaolô, người nào hiểu
khiêm tốn là sự thật, người đó là người khôn ngoan, biết chừng mực. Phaolô cũng
khuyên các tín hữu đừng có một ý tưởng sai lầm và phóng đại về mình, phải biết
đánh giá đúng về mình. Kiểu nói "hãy đánh giá mình cho đúng mức" cũng
tương đương với kiểu nói "ham thích những gì hèn mọn". Qua đó, Phaolô
muốn nói: người ta khôn khi khiêm tốn, và người ta khiêm tốn khi khôn. Biết hạ
mình là tiến đến gần sự thật.
Tuy vậy, lý do gọi là nhân học cũng
đồng thời là một lý do thần học, vì không chỉ liên hệ đến con người, mà cả đến
Thiên Chúa nữa. Gioan nói: "Thiên Chúa là ánh sáng" (Ga 1,5). Là ánh
sáng cũng là sự thật, và chỉ gặp gỡ con người trong sự thật. Thiên Chúa ban ơn
cho người khiêm tốn, vì chỉ người khiêm tốn mới có thể biết và nhận ân sủng của
Ngài.
Thánh nữ Têrêxa Giêsu viết:
"Một ngày nọ, tôi đã tự hỏi vì sao Chúa yêu thích sự khiêm tốn đến thế.
Bất chợt, không cần suy nghĩ, tôi có ý tưởng này: đó là vì Ngài là Chân lý tối
cao và vì sự khiêm tốn là chân lý". Vậy là thánh nữ cũng đi đến kết luận
như Phaolô. Thiên Chúa đã thông truyền cho thánh nữ chân lý lời Ngài không bằng
con đường chú giải suy luận, nhưng bằng con đường minh chiếu bên trong.
2. Sự hư vô của ta
* Chúng ta đã bắt đầu lặn xuống
đáy, đi tới chỗ có hạt ngọc quý. Phaolô không để ta vất vưởng đâu. Một số câu
ngắn của ngài, tuy viết trong các thư khác, nhưng cùng nằm trong dòng tư tưởng
này, còn giúp ta khám phá thêm chân lý.
Một trong những câu đó là:
"Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh
vang như thể đã không nhận lãnh" (1Cr 4,7). Có một điều trừ. Một điều duy
nhất chúng ta không nhận lãnh từ Thiên Chúa, một điều hoàn toàn là của ta. Ðó
là tội. Tôi biết và cảm thấy rằng tội là từ tôi, có nguồn gốc nơi tôi, hoặc ít
nhất nơi con người và thế giới, chứ không phải nơi Thiên Chúa. Còn tất cả những
cái khác, kể cả việc tôi biết tội là do tôi, tôi đều nhận lãnh từ Thiên Chúa.
Phaolô còn viết một câu khác:
"Ai tưởng mình là gì, mà kỳ thực không là gì hết, thì là lừa gạt chính
mình" (Gl 6,3). Phaolô muốn nói: muốn đánh giá đúng về mình, phải thừa
nhận sự hư vô của mình. Người khiêm tốn là người biết thừa nhận như vậy. Hạt
ngọc quý là xác tín rằng mình chẳng là gì, chẳng thể nghĩ gì, chẳng làm được gì.
Ðức Giêsu đã nói: "Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga
15,5). Phaolô thêm: "Không phải vì tự chúng tôi, chúng tôi có khả năng, để
nghĩ rằng mình làm được gì." (2Cr 3,5). Khi nào có dịp, có thể dùng một
trong hai câu trên đây như lưỡi gươm của Thần Khí, để cắt đứt một cám dỗ về sự
khiêm tốn. Vì quả thực, người ta cảm nghiệm được hiệu năng của lời Chúa, khi áp
dụng lời Chúa cho mình hơn là cho người khác.
Sao Phaolô lại cho rằng con
người không là gì cả, trong khi Kinh Thánh ca ngợi con người "chẳng thua
kém thần minh là mấy", được "ban vinh quang danh dự", và Thiên
Chúa "đặt muôn loài muôn sự dưới chân" con người? (Tv 8). Trên bình
diện tạo dựng thì như vậy, còn trên bình diện cứu độ thì chính Phaolô cũng quả
quyết là chúng ta "đã trở nên phong phú về mọi phương diện",
"không thiếu một ân huệ nào" (1Cr 1,5-7). Chúng ta là con cái Thiên
Chúa, "đồng thừa kế với Ðức Kitô" (Rm 8,17). Phải chăng Phaolô mâu
thuẫn với Kinh Thánh và với chính mình? Không mâu thuẫn đâu. Chính những cái có
trên đây càng đòi ta khiêm tốn. Con người không có gì cho mình, không có gì để
vênh vang, vì tất cả đều do Chúa, tất cả đều là của Chúa, tất cả đều là ân
sủng. Sự khiêm tốn loại trừ thái độ vênh vang của con người, chứ không loại trừ
ý thức của con người về những gì đã lãnh nhận, cũng như sự biết ơn của con
người về những điều đó.
* Bằng cách này, chúng ta đi dần
tới chỗ khám phá ra bản chất đích thực của sự hư vô của mình. Lời Chúa muốn nói
với chúng ta điều gì? Muốn ta thừa nhận rằng ta thật sự không có gì mà lại kiêu
căng, không là gì cả mà lại tưởng mình to lắm. Chúng ta lãnh nhận mọi sự từ
Chúa, nhưng lại tự phụ, hoặc bị cám dỗ tự phụ, là không lãnh nhận từ Chúa một
điều gì đó.
Ðây không phải là trường hợp của
một số người, nhưng là chung cho mọi người. Chính Phaolô, khi thăm dò tận đáy
lòng mình, đã tự thú: "Tôi thấy một luật khác. luật của tội là luật vẫn
nằm sẵn trong các chi thể của tôi. Tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải
thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?" (Rm 7,14-25). Luật nào vậy? Tội
nào vậy? Với Phaolô, luật khác này, tội lỗi này tiên vàn là sự vênh vang, kiêu
căng, khoe khoang, tự phụ.
Bởi vậy, chúng ta khám phá thấy
gì nơi mình khi xuống tới đáy vực? Khiêm tốn không thấy, mà chỉ thấy sự kiêu
ngạo, kiêu ngạo do lỗi của ta. Tuy nhiên, biết khám phá như thế đã là khiêm
tốn, vì biết nhận ra sự thật. Rồi dựa vào lời Chúa và ơn Chúa, chúng ta thấy
lại và xác tín về con người thật của mình: mình không là gì hết, nhưng lại kiêu
căng. Biết như vậy rồi, chúng ta sẽ không còn nhìn đến khuyết điểm và lỗi lầm của
người khác nữa, và có thể nhờ ơn Chúa cũng như sự cố gắng của mình mà thực hiện
điều Phaolô nói, là "coi người khác hơn mình" (Pl 2,3), hoặc ít ra
hiểu được tại sao các thánh lại có thể thực hiện được điều trên đây.
Ðược như vậy là chúng ta đã
chiến thắng một trong những điếu xấu mà ngay cả khoa tâm lý hiện đại cũng coi
là độc hại cho con người. Ðiều xấu này là mê mình quá đáng (narcissisme).
* Một tâm hồn khiêm tốn còn là
nơi Thiên Chúa viếng thăm, và hẳn là nơi Ngài rất thích, vì nơi đó toả ánh sáng
chân lý.
Thuở tạo dựng, lúc tổ tông chưa
phạm tội kiêu ngạo, Sách Thánh nói là Ngài thích đến và đi dạo trong vườn Ðịa
đàng. Tâm hồn nào khiêm tốn, Ngài cũng thích đến và đi dạo trong đó. Trong
Isaia (66,1tt), chúng ta được nghe một bài độc thoại của Thiên Chúa. Ngài nhìn
trời và nói: trời là ngai của Ta. Rồi nhìn đất: đất là bệ dưới chân Ta. Nhưng
rồi Ngài tiếp: các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào, và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ
ngơi? Thì chính Ngài trả lời: những vật ấy, chính tay Ta làm, kẻ được Ta đoái nhìn,
đó là người nghèo khổ, người có tâm hồn tan nát, người nghe lời Ta mà run
sợ." Người có tâm hồn tan nát chính là người khiêm tốn. Người đó không
những được Thiên Chúa đoái nhìn, nhưng còn là chỗ Ngài đến nghỉ ngơi. Trong
Isaia còn có lời khác của Thiên Chúa: "Ta vẫn ở với tâm hồn khiêm cung tan
nát, để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ khiêm cung" (Is 57,15). Lại cũng
chính người khiêm tốn được Thiên Chúa thương hỗ trợ.
Mọi sự trong vũ trụ đều thuộc về
Chúa. Không một điều gì, ở bất cứ nơi nào, là mới mẻ đối với Ngài. Mọi sự đã
được tay toàn năng Chúa tác tạo. Thế nhưng có một cái mà sự toàn năng này không
thể làm hoặc không muốn làm, đó là một tâm hồn khiêm tốn nhận biết tội lỗi và
khuyết điểm của mình. Ðể làm được như thế, cần có sự cộng tác của con người,
một con người có tự do. Ðối với Chúa, mỗi một tâm hồn khiêm tốn đều là một sự
mới mẻ, một sự lạ lùng, làm cho Ngài vui sướng. "Một tấm lòng tan nát dầy
vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê", Thánh vịnh (50/51,13) nói như vậy. Ngược
lại, Ngài còn mạc khải những bí mật của mình cho họ (Hc 3,19). Thật đúng như
sau này Ðức Giêsu nói là Thiên Chúa giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái
biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn (Mt 11,25).
Người khiêm tốn thuộc vào số bé mọn này. Và bí mật lớn nhất mà Thiên Chúa mạc
khải cho họ, chính là Ðức Giêsu.
3. Sự khiêm tốn của Ðức Maria
* Phúc âm cho thấy một mẫu gương
tuyệt vời về sự khiêm tốn: Ðức Maria. Trong lời kinh Magnificat, Ðức Maria ca
ngợi Thiên Chúa đã nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn. Khi nói về sự hèn mọn của mình,
Người không có ý nói về sự khiêm nhường của mình đâu, nhưng là nói đến thân
phận thực sự hèn mọn của mình, thuộc vào số những người hèn mọn nghèo khó trong
Kinh Thánh. Việc Người minh nhiên nhắc đến bài ca của bà Anna, mẹ Samuel (1Sm
1,11), cho thấy điều đó (Ðức Maria sử dụng cùng một từ có nghĩa là lầm than,
son sẻ, thân phận thấp hèn). Chứ ở đây không phải Người ý thức về sự khiêm tốn
của mình . Làm sao Người dám ca ngợi sự khiêm tốn của mình? Tự cho mình là
khiêm tốn thì còn khiêm tốn nỗi gì? Ðó là kiêu ngạo. Và làm sao ta dám nghĩ
Người coi việc Thiên Chúa tuyển chọn mình là do mình khiêm tốn? Việc tuyển chọn
hoàn toàn là do ý Thiên Chúa, là ơn nhưng không của Thiên Chúa, chứ đâu phải vì
Mẹ khiêm tốn. Hơn nữa, nghĩ như thế là không hiểu được cả cuộc đời của Mẹ.
Thế mà có người vẫn thiếu thận
trọng, cho rằng ở chỗ này, Mẹ không ca ngợi nhân đức nào hơn là đức khiêm
nhường của mình, như thể nói thế là làm cho Mẹ được vinh dự. Ngược lại thì có.
Ðã không vinh dự, còn tác hại lớn cho nhân đức này. Ðức khiêm nhường có một quy
chế rất đặc biệt: người ta có nó khi không tưởng rằng mình có nó, người ta
không có nó khi tưởng rằng mình có nó. Chỉ mình Ðức Giêsu mới có thể nói mình
"có lòng khiêm nhượng" (Mt 11,29), và thực sự Ngài là thế. Ðó là đặc
tính duy nhất, vô song của sự khiêm nhường nơi Ngài..
* Như vậy, Ðức Maria không có sự
khiêm nhường sao? Chắc chắn có, vượt bực là khác. Nhưng điều này, chỉ mình
Thiên Chúa biết. Hương thơm của nó chỉ mình Thiên Chúa nhận ra, chứ người toả
hương thơm ấy cũng không nhận ra. Theo Kinh Thánh, chữ "khiêm tốn" có
hai nghĩa cơ bản. Một nghĩa khách quan, chỉ sự hèn mọn hoặc lầm than thực tế.
Một nghĩa chủ quan, chỉ ý thức về sự hèn mọn. Ðức Maria đã nói lên lời khiêm
tốn khách quan (mình hèn mọn thực). Thiên Chúa lắng nghe lời ấy theo nghĩa chủ
quan (biết Ðức Maria khiêm tốn). Mầu nhiệm cao cả của sự khiêm tốn là ở đó. Dĩ
nhiên ở đây, Ðức Maria cũng có "công trạng" chứ, công trạng ở chỗ
biết mình chẳng có công trạng gì.
Chúng ta cũng có thể thấy sự
khiêm tốn kiểu trên trong cuộc đời của nhiều vị thánh. Một hôm, có một người
bạn hỏi Phanxicô Assisi xem làm sao mà mọi người đều chạy theo ngài, và muốn
thấy ngài như vậy. Phanxicô trả lời: đó là vì Thiên Chúa không thấy ai xấu xa
hơn ngài, không ai tội lỗi hơn ngài. Ðấng thánh nghĩ rằng người ta tò mò muốn
xem một tội nhân, nhưng dân chúng lại tò mò muốn xem một thánh nhân. Thánh
Bênađô thì nói đơn sơ như sau: "Người thực sự khiêm tốn luôn muốn được coi
là xấu xa, chứ không muốn được tuyên dương là khiêm tốn".
Ðức Maria khiêm tốn trong cả
cuộc đời, cho dù gặp bao nhiêu khó khăn thử thách. Ta có thể nhận ra điều này
trong cách Người theo dõi con mình: yên lặng, xa xa vậy. Thậm chí không muốn
đứng ở hàng đầu để nghe Ðức Giêsu giảng cho dân, mà còn đứng ở ngoài nữa, đến
nỗi phải nhờ người khác xin với Chúa để được gặp (Mt 12,46tt).
Dù là Mẹ Chúa, Ðức Maria không
coi việc ở gần Chúa như ở gần một kho tàng dành riêng cho mình. Người từ bỏ
mình, nhận thân phận một nữ tỳ, giống mọi phụ nữ khác. Lời khuyên của Phaolô
được áp dụng cách hoàn hảo nơi Mẹ. Mẹ không ước vọng những điều cao sang, chỉ
hài lòng với những gì hèn mọn.
4. Khiêm tốn và những điều tủi hổ
Ðức Maria khiêm tốn, nhưng không
phải không chịu những tủi hổ. Còn chúng ta thì sao? Có thể nói, chúng ta mới
biết ít nhiều giáo huấn về sự khiêm tốn, chứ chưa có sự khiêm tốn. Ta có thể
biết mình khiêm tốn tới mức nào, khi không phải chính ta nhìn nhận những sai
lỗi và khuyết điểm của ta, nhưng là người khác nhìn nhận ta có những sai lỗi
khuyết điểm. Ta biết mình khiêm tốn tới mức nào khi không những chính ta nhận
xét về con người thật của ta, mà còn vui lòng để người khác cho ta biết về con
người thật của ta. Nói cách khác, khiêm tốn là khi để cho người khác nhận xét,
sửa chữa, phê bình lầm lỗi của ta, khi người khác làm cho ta tủi hổ.
Ai tự phụ có thể dùng phương
tiện riêng để dẹp bỏ kiêu căng, mà không có người khác can thiệp bên ngoài,
người đó giống như người dùng tay của mình mà đánh mình. Sức mấy mà tự làm cho
mình đau! Hoặc giống như người lấy cây kim tự tay khêu cái dằm đâm vào ngón
tay. Ðộng một chút là thấy nhói, là rụt. Mầy mò mãi, cái dằm vẫn còn đó. Phải
nhờ người khác. Nhiều người có thể tự thú mọi lỗi lầm của mình, lỗi thật cũng
có, lỗi tưởng tượng cũng có, rất chân thành là khác, chẳng hạn trong toà giải
tội hay khi cầu nguyện, nhưng vừa có ai đụng đến lỗi của họ, có khi chỉ một
phần lỗi đó thôi, là họ có thể nổi tam bành lên, hoặc oán hận ấm ức, buồn phiền
dai dẳng.
Cho nên, còn phải vượt qua nhiều
đoạn đường mới có thể đi tới chỗ khiêm tốn thật sự.
Cũng có thể điều tủi hổ không do
người khác gây ra, mà do chính ta vô ý gây ra cho mình. Chẳng hạn, khi nói
chuyện hay tranh luận với ai, ta lỡ mồm lỡ miệng nói ra một điều gì đó, bây giờ
nghĩ lại thấy chẳng hay ho gì, đã không làm cho ta vinh dự, lại còn cho thấy sự
xấu xa bên trong của ta. Chúng ta muốn giả như đừng bao giờ nói như thế. Nếu
hối tiếc vì lời đó gây gương xấu hoặc xúc phạm đến người khác, thì hối tiếc là
điều tốt, và có thể là cơ hội giúp ta sửa mình. Nhưng hối tiếc chỉ vì sợ mất
tiếng tốt của ta, lại là chuyện khác. Tức là chúng ta hối tiếc vì mình đã tỏ ra
xấu, chứ không phải vì mình thực sự là người xấu. Chúng ta chưa khiêm tốn đủ,
vì không thích sự thật, mà chỉ thích tiếng tốt. Cứ vui lòng chấp nhận điều đã
xẩy ra, dù điều này có làm cho ta tủi hổ. Như thế tránh được ảo tưởng mình là
con người tốt, con người thập toàn.
* Cũng có khi không phải những
điều làm ta tủi hổ, nhưng chính những lời tán dương tâng bốc cho ta thấy mình
khiêm tốn hay không. Bình thường, được khen thì ai cũng thích. Ðó là phản ứng
tự nhiên, tình cảm tự nhiên. Nhưng phổng mũi lên, tỏ ra dương dương tự đắc, lại
có thể là dấu kiêu ngạo. Phải biết lắm khi đó chỉ là những lời khen ngoại giao,
có một khen mười. Cứ dựa vào đó rồi tưởng mình được y như lời khen. Có mà chết!
Nhưng nguy hiểm hơn, chính là
tìm cách để được khen, nói hay làm một điều gì đó cho người khác để được tiếng
khen. Như vậy là tìm vinh quang cho mình. Dù có được vinh quang này đi nữa,
cũng chỉ là vinh dự hão huyền, là hư danh. Thế nhưng hậu quả của nó có thể đáng
sợ. Người tìm kiếm vinh danh riêng cho mình thậm chí đi đến chỗ không thể có
lòng tin. Ðức Giêsu nói với người biệt phái: "Các ông tôn vinh lẫn nhau,
và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các
ông có thể tin được?" (Ga 5,44). Khi còn bám víu vào những ý nghĩ và ước
muốn vinh quang của con người, hãy nhớ lời Chúa nói: "Tôi không tìm vinh
quang cho mình" (Ga 8,50). Hãy lặp lại lời đó cho mình. Nó có thể giúp ta
xua tan những ý nghĩ và ước muốn như thế.
Ngoài ra, không tìm vinh quang
cho mình, không tìm tiếng khen, vẫn chưa đủ đâu. Còn phải chấp nhận sẵn sàng
sống mà không có vinh quang. Cứ xem gương Ðức Giêsu. Không những Ngài không tìm
vinh quang cho mình, mà còn chấp nhận để người ta phá huỷ vinh quang của Ngài, chấp
nhận để người ta "khinh khi ruồng rẫy" (Is 53,3). Ngài "chẳng nề
chi ô nhục" (Dt 12,2). Ðể được thế, ta phải tập quen với ý tưởng sống mà
không được ai lưu ý, không được ai coi trọng, không được ai ca tụng.
* Chiến đấu để sống khiêm tốn là
một cuộc chiến đấu suốt cả đời người, trong mọi khía cạnh của cuộc đời. Sự kiêu
căng có thể tiềm tàng dướí mọi hình thức. Không giống với những nết xấu khác,
không phải điều xấu cho bằng chính điều tốt lại là chỗ thuận lợi cho loại vi
khuẩn kiêu căng phát triển.
Pascal viết: "Sự kiêu ngạo
cắm sâu trong lòng con người, đến nỗi một người lính, một tên đểu cáng, một
người làm bếp, một phu khuân vác cũng kiêu ngạo, muốn có người thán phục mình,
ngay cả các triết gia cũng muốn điều đó."
Hư danh có thể biến cố gắng
khiêm tốn của ta thành một hành vi kiêu ngạo. Nhưng dựa vào ơn Chúa, ta có thể
thắng trong cuộc chiến đấu này. Nếu con người cũ của ta biến hành vi khiêm tốn
thành hành vi kiêu ngạo thì, nhờ ơn Chúa, nhở ơn thông hiểu của Thánh Thần, ta
hãy biến hành vi kiêu ngạo thành hành vi khiêm tốn, bằng cách thừa nhận rằng đó
là hành vi kiêu ngạo, thừa nhận rằng ta chẳng là gì mà lại kiêu căng.
Trong cuộc chiến đấu này, Thiên
Chúa thường giúp ta bằng một phương tiện đặc biệt và hữu hiệu. Ngài để một cái
dằm nằm trong thân xác ta, như Ngài đã để một cái dằm đâm vào thân xác Phaolô
(2Cr 12,7). Ta không biết cái dằm trong thân xác Phaolô là cái gì, nhưng cái
dằm nơi ta, ta có thể biết rõ. Ðó là những tình huống tủi hổ mà ta phải chịu,
có thể là một khuyết điểm, một bệnh tật, một sự yếu đuối bất lực mang trong
mình, dù ta đã có lần van xin Chúa cất nó đi. Cái dằm đó nhắc nhở ta phải
"tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Chúa" (1Pr 5,6).
Có một Thánh vịnh (Tv 130/131)
rất phù hợp với ý tưởng của những câu thư Rôma vừa khai triển. Tôi xin mượn nó,
và cũng mời gọi anh chị em đọc nó, để kết thúc bài suy niệm hôm nay.
Lòng con chẳng dám tự cao
Mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi
Ðường cao vọng chẳng đới nào bước
Việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu
Hồn con con vẫn trước sau
Giữ cho thinh lặng giữ sao an bình
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ
Trông con hồn lặng lẽ an vui
Cậy vào Chúa Israel ơi
Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm
Lm Micae TRẦN ÐÌNH QUẢNG
(micquang@pmail.vnn.vn)