Suy niệm về
ÐỜI SỐNG MỚI TRONG CHÚA KITÔ
VIII
CHÚA THÁNH THẦN
VÀ ÐỜI SỐNG MỚI
"Luật của Thần Khí ban sự sống" (Rm 8,2)
Sách Công vụ thuật lại biến cố
Chúa Thánh Thần Hiện Xuống bắt đầu bằng những lời này: "Khi đến ngày lễ
Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi" (Cv 2,1). Như vậy, ta có thể
thấy đã có lễ Ngũ Tuần trước khi có lễ Hiện Xuống, đã có một lễ Ngũ Tuần trong
do thái giáo, và chính trong ngày này mà Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Nhiều năm
sau biến cố này, các Tông Ðồ vẫn còn tiếp tục cử hành lễ Ngũ Tuần cùng với các
ngày lễ khác của do thái giáo.
Chúng ta cũng biết là lễ Vượt
qua của người Do Thái đã có rồi. Và nếu Chúa Giêsu chết vào đúng dịp lễ này,
thì không phải là chuyện tình cờ, nhưng là để mạc khải mình như là lễ Vượt Qua
mới, thực hiện vĩnh viễn điều trước đây chỉ là hình bóng. Chúng ta chỉ có thể
hiểu lễ Vượt Qua mới, khi coi nó như nối dài lễ Vượt qua cũ tưởng niệm cuộc
Xuất hành và là lễ của Phụng vụ do thái giáo. Thế thì cũng phải dựa vào lễ Ngũ
Tuần của người Do Thái, mới có thể hiểu lễ Hiện Xuống của kitô giáo, vì việc
Chúa Thánh Thần đến cũng thực hiện một hình bóng đã có.
1. Lễ Ngũ Tuần và Lề luật
* Trong Cựu ước, có hai cách
giải thích cơ bản về lễ Ngũ Tuần. Khởi thuỷ, đó là lễ các tuần (Tb 2,1) hay 7
tuần (Ðnl 16,9), lễ của mùa gặt, trong đó người ta dâng của đầu mùa cho Thiên
Chúa (Ds 28,26; Xh 23,16). Sau này, vào thời Ðức Giêsu, lễ này có thêm một ý
nghĩa mới: tưởng niệm việc công bố Lề luật trên núi Sinai và Giao ước.
Từ một lễ gắn liền với chu kỳ
thiên nhiên, lễ Ngũ Tuần biến thành một lễ liên kết với lịch sử cứu độ. Ra khỏi
Ai Cập, dân Chúa đi trong sa mạc hết 50 ngày thì được Thiên Chúa ban Lề luật và
thiết lập Giao ước dựa trên Luật này, làm cho dân thành "một vương quốc tư
tế và một dân thánh" (Xh 19,6).
Liên hệ đến lễ Hiện Xuống: đâu
là ý nghĩa của việc Chúa Thánh Thần đến vào chính ngày Israel tưởng niệm Thiên
Chúa ban Lề luật và Giao ước? Chính là để nói lên rằng Chúa Thánh Thần là Luật
mới, luật tinh thần, đóng ấn cho Giao ước mới và vĩnh cửu, đồng thời hiến thánh
dân vương đế và tư tế là Giáo Hội. Quả thực, đây là một mạc khải lớn về ý nghĩa
của ngày lễ Hiện Xuống và về Chúa Thánh Thần.
Augustinô viết: "Ai mà
không kinh ngạc về sự trùng hợp này, mà cũng là sự dị biệt này? Giữa cử hành
Vượt qua với ngày Môsê nhận bản văn Lề luật do ngón tay Thiên Chúa viết ra, có
50 ngày phân cách. Cũng vậy, 50 ngày sau cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ðấng bị
đem đi tế sát như chiên con, ngón tay Thiên Chúa, tức Chúa Thánh Thần, cũng làm
cho các tín hữu đang tụ họp nhau được đầy tràn bằng chính Ngài".
Ở đây, ta thấy lời các ngôn sứ
xưa được thực hiện: "Ðây là Giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những
ngày đó - sấm ngôn của Ðức Chúa - Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm
khảm chúng Lề luật của Ta" (Gr 31,33). Ðúng vậy. Không còn phải là Luật
viết trên bia đá, nhưng là trong tim lòng. Không còn phải là Luật bên ngoài,
nhưng là luật bên trong. Êzêkiel còn cắt nghĩa rõ luật bên trong này như sau:
"Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần trí mới vào lòng
các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban tặng
các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các
ngươi. Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của
Ta và đem ra thi hành" (Ed 36,26-27).
* Chính nhờ những điều giáo đầu
trên đây về ý nghĩa của lễ Ngũ Tuần và của Giao ước mới mà ta có thể hiểu được
điều Phaolô nói về ân huệ của Thần Khí. Thánh Tông Ðồ viết: "Luật của Thần
Khí ban sự sống trong Ðức Kitô Giêsu đã giải thoát tôi khỏi luật của tội và sự
chết" (Rm 8,2).
Những gì Phaolô trình bầy về
Thần Khí trong thư Rôma đều đối lập với những gì được trình bầy về Lề luật.
Chính Thần Khí cũng được đồng hoá với một luật: luật của Thần Khí. Có nghĩa là:
luật là Thần Khí. Khi viết như vậy, chắc chắn Phaolô nhớ lại toàn bộ lời ngôn
sứ về đề tài Giao ước mới. Có thể thấy rõ điều này trong 2Cr 3,3-6: Phaolô gọi
cộng đồng của Giao ước mới là "bức thư của Ðức Kitô. không phải viết bằng
mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên
những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng
người". Phaolô còn gọi các Tông Ðồ như là những người có "khả năng
phục vụ Giao ước mới, không phải Giao ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào
Thần Khí, vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống".
Như vậy, chúng ta có thể thấy
phương thức chính giúp hiểu bản văn rất phong phú về Chúa Thánh Thần trong
chương 8 thư Rôma. Phương thức đó là đọc đối chiếu Tân ước với Cựu ước. Phaolô
nghĩ tới những lời ngôn sứ trong Cựu ước loan báo Thần Khí sẽ xuống đầy tràn
thời Tân ước, và cho thấy những lòi đó được thực hiện vượt quá mọi tiên liệu,
Tuy vậy, những lời tiên báo này phải được coi như một thứ huấn giáo soi sáng
tâm trí ta, giúp ta mở rộng nhãn giới đức tin, hiểu biết tất cả sự viên mãn của
mầu nhiệm kitô giáo.
2. Thần Khí của Ðức Kitô
* Cựu ước nói về Chúa Thánh Thần
như hơi thở của Thiên Chúa, tạo dựng và ban sự sống, đến với một số người, ban
cho họ sức mạnh và quyền năng phi thường, để chiến đấu, cai trị hoặc nói tiên
tri. Như vậy, hoạt động của Chúa Thánh Thần có chiều hướng công khai, bên
ngoài. Phải đợi tới thời các ngôn sứ (nhất là Giêrêmia và Êzêkiel), các ngài
mới cho thấy hoạt động của Chúa Thánh Thần có chiều hướng nội tâm và cá nhân.
Thánh Thần hoạt động trong tâm
hồn mỗi người, như một nguyên lý đổi mới bên trong, giúp con người có thể trung
thành giữ luật Thiên Chúa. Thánh Thần là nguyên lý của Giao ước mới và của đời
sống mới.
Cách trình bầy của Phaolô về đời
sống mới trong Thánh Thần nằm trong viễn tượng nội tâm này, với những ý chính
như sau: Thiên Chúa ghi khắc Lề luật trong các tâm hồn nhờ Thần Khí; Luật mới
này là tình yêu, được ban trong phép Rửa Tội; Luật mới này cũng giúp ta thực
hành các luật khác, cho phép ta bước đi theo Thần Khí khi vâng lời Phúc Âm.
* Ðể hiểu tất cả các điều đó,
phải hiểu sự mới mẻ mà Ðức Kitô và Giao ước mới mang lại là gì.
Phaolô xác quyết rằng luật cũ
chỉ giúp ta biết tội, nhưng không cất bỏ được tội. Nó không đem đến sự sống, mà
chỉ cho thấy tình trạng tội lỗi của ta, cũng như tình trạng thù nghịch với
Thiên Chúa. Vì là những quy tắc ở ngoài con người, luật Môsê không làm thay đổi
tình huống bên trong con người, không ảnh hưởng trên tâm hồn con người. Sự sống
và sự chết có trước Lề luật. Sống hay chết là tuỳ như con người hướng về Thiên
Chúa hay hướng về mình. Còn giữ luật hay lỗi luật chỉ là cách bày tỏ ra bên
ngoài điều đã được quyết định từ bên trong. Thực tế, người ta thường hướng về
mình, ích kỷ, "yêu mình đến độ khinh mạn Thiên Chúa" (Augustinô). Ðó
là tội cơ bản. Phải cất bỏ nó bằng cách tái lập tình thân với Thiên Chúa, là
tình trạng đã có từ ban đầu, nhưng đã bị huỷ hoại vì cám dỗ của Satan.
Thì chính tình thân này được tái
lập nhờ công nghiệp của Chúa Kitô. "Ðiều mà Lề luật không thể làm được, vì
bị tính xác thịt làm cho ra suy yếu, thì Thiên Chúa đã làm: Khi sai Con mình
đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta, để đền tội chúng ta,
Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình" (Rm 8,3). Trên Thập giá,
Chúa đã cất bỏ trái tim bằng đá của cả nhân loại, tức là mọi thù nghịch với
Thiên Chúa dưới chế độ Lề luật. Ngài đã "đóng đinh vào Thập giá con người
cũ nơi chúng ta, và đã huỷ diệt con người do tội lỗi thống trị" (Rm 6,6),
đã mang lấy cái chết của ta. Ðổi lại, Ngài ban cho ta sự sống. Phaolô diễn tả
điều này khi nói rằng Thần Khí ban sự sống trong Ðức Kitô Giêsu (Rm 8,2).
* Vậy Thánh Thần đuợc đổ tràn
xuống trên Giáo Hội vào ngày lễ Ngũ Tuần, là đến từ cuộc Vượt qua của Ðức Kitô.
Ngài là một Thần Khí Vượt qua, là hơi thở của Ðấng Phục sinh. Nhờ sống lại,
Ađam mới đã trở thành "Thần Khí ban sự sống" (1Cr 15,45).
Tác giả Phúc Âm thứ tư diễn tả
xác quyết trên bằng một hình ảnh cụ thể: trên Thập giá, Ðức Giêsu "trao
Thần Khí" (Ga 19,30). Câu này có hai nghĩa: một nghĩa tự nhiên (trút hơi
thở cuối cùng, chết), một nghĩa thần bí (Ðức Giêsu trút Thần Khí ra). Theo
Gioan, hơi thở cuối cùng của Chúa lại là hơi thở đầu tiên của Giáo Hội. Ðức
Giêsu trút Thần Khí ra là cho Giáo Hội, bởi Giáo Hội, được biểu tượng bằng nước
(Rửa Tội) và máu (Thánh Thể), khai sinh từ cái chết lúc này của Chúa. Ý nghĩa
thần bí này còn được củng cố, khi mà sau đó ít lâu, Chúa Phục sinh thổi hơi
trên các môn đệ và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22).
Thánh Thần mà chúng ta lãnh nhận
là một ngôi vị, Ngôi Ba Thiên Chúa. Từ đây, trong Ðức Kitô, Ngài hằng sống với
loài người. Ngài được đổ tràn xuống Ðầu và các chi thể, làm nên "một Thân
Thể và một Thần Khí".
Do đó, đừng tưởng Hiện Xuống làm
giảm vai trò của Vượt Qua, khi cho rằng việc nhấn mạnh Chúa Thánh Thần sẽ làm
lu mờ Chúa Giêsu, như thể Chúa Thánh Thần biểu thị thời kỳ thứ ba, vượt qua
thời kỳ của Chúa Giêsu. Ngược lại, Thánh Thần "làm chứng về Chúa
Giêsu" (Ga 15,26), lấy những gì của Chúa Giêsu mà loan báo cho ta (Ga
16,14-15). Chúa Thánh Thần không làm những sự mới, nhưng làm cho mọi sự được
nên mới.
3. Tâm hồn mới
* Thần Khí Ðức Kitô, khi đến với
chúng ta, sẽ làm thay đổi tình trạng trong tâm hồn mà Luật cũ không làm được.
Làm thay đổi bằng cách nào? Bao
lâu chúng ta còn "sống cho mình", tức sống trong tội, bấy lâu Thiên
Chúa vẫn còn giống như Ðấng cản mũi kỳ đà. Giữa Thiên Chúa và con người có sự
thù nghịch. Con người ham hố điều này điều kia, nhưng Thiên Chúa ngăn cản họ,
chống lại ước muốn xấu xa của họ bằng những mệnh lệnh: ngươi phải thế này,
ngươi không được thế kia. Phaolô nói: "Hướng đi của tính xác thịt là sự
phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên
Chúa" (Rm 8,7).
Một khi Chúa Thánh Thần đến và
làm chủ tâm hồn ta, thì khi đó sẽ có thay đổi. Nếu trong lòng ta còn có mầm
mống giận hờn Thiên Chúa, thì giờ đây, Chúa Thánh Thần cho ta thấy Thiên Chúa
là Ðấng nhân từ, là bạn chứ không phải thù. Thánh Thần cho ta thấy những gì
Thiên Chúa đã có thể làm cho ta, giúp ta hiểu rằng chính vì ta mà Thiên Chúa đã
không tha cho Con mình. Thánh Thần đổ vào lòng ta tình yêu của Thiên Chúa (Rm
5,5), để ta biết yêu mến Thiên Chúa, và sẵn sàng làm điều Ngài truyền dạy.
* Luật của Thần Khí hay Luật
mới, hiểu theo nghĩa hẹp, không phải là luật được Ðức Giêsu công bố trong bài
giảng về 8 mối phúc thật, nhưng là luật ghi trong lòng con người vào ngày lễ
Ngũ Tuần.
Chắc chắn những luật Phúc Âm
truyền dạy thì cao quý và hoàn hảo hơn luật Môsê. Nhưng chỉ mình chúng mà thôi,
chúng vẫn không hoàn toàn hữu hiệu. Nếu chỉ coi việc công bố ý muốn mới của
Thiiên Chúa qua các Phúc Âm là đủ, người ta sẽ không giải thích được vì sao Ðức
Giêsu lại phải chết, vì sao Chúa Thánh Thần phải đến. Chính các Tông Ðồ cũng đã
không coi việc công bố đó là đủ. Các ông đã được Chúa dạy đủ điều, vậy mà lúc
Chúa chịu Khổ nạn, vẫn không có can đảm thực hiện chỉ một điều thôi trong các
lệnh truyền của Chúa: ai vả má này thì hãy chìa cả má kia. Ðàng này, kẻ thù
chưa kịp vả, đã tháo chạy tán loạn. Nếu Ðức Giêsu chỉ bằng lòng với việc công
bố điều răn mới là yêu thương nhau (Ga 13,34), điều răn này vẫn chỉ là
"chữ viết", là luật cũ.
Chỉ vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi
Chúa Giêsu, nhờ Thần Khí, đã đổ tràn tình yêu này xuống tâm hồn các môn đệ, khi
đó điều răn mới này mới thành luật mới theo nghĩa đầy đủ, thành luật của Thần
Khí ban sự sống. Chính nhờ Thần Khí, chứ không phải do "chữ viết", mà
điều răn này là mới. Không có ân sủng bên trong của Thần Khí, thì ngay cả Phúc
Âm, ngay cả điều răn mới, cũng vẫn là luật cũ, là "chữ viết".
* Luật mới này hoạt động cụ thể
ra sao? Ta có thể gọi là luật mới theo nghĩa nào? Nó hoạt động bằng tình yêu.
Luật mới không gì khác hơn cái mà Ðức Giêsu gọi là "điều răn mới".
Chúa Thánh Thần đã ghi khắc luật mới này trong tâm hồn ta, bằng cách đổ tràn
tình yêu vào lòng ta: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng
ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Ðây là tình yêu mà
Thiên Chúa đã yêu ta và nhờ nó, Ngài làm cho ta yêu Ngài và yêu anh em. Ta có
được khả năng mới để yêu thương.
Có người cho rằng biến tình yêu
thành một mệnh lệnh là một điều phi lý. Tình yêu mà không có tự do, nhưng được
truyền phải làm, nó là thứ tình yêu nào vậy?
Có thể trả lời như thế này: Có
hai cách khiến cho con người làm hay không làm điều gì đó: cưỡng bách và lôi
cuốn. Luật thì theo cách thứ nhất, có hình phạt đi kèm. Tình yêu theo cách thứ
hai. Ðưa một cái kẹo trước mắt đứa trẻ, nó giơ tay với lấy. Có ai cưỡng bách nó
đâu. Chính cái kẹo lôi cuốn nó đấy chứ! Giới thiệu điều tốt cho một người đang
khao khát điều tốt, người đó vồ vập lấy ngay. Cũng không có ai cưỡng bách cả.
Chỉ có lòng khao khát thúc đẩy người đó. Tình yêu giống như sức mạnh của linh
hồn đưa người ta đến với đối tượng mong ước.
Chính theo nghĩa này mà Chúa
Thánh Thần - nói một cách cụ thể là tình yêu - được gọi là "luật", là
"điều răn". Tình yêu tạo nên trong ta một sự năng động, thúc đẩy ta
làm mọi điều Thiên Chúa muốn, làm một cách bộc phát, vì ta coi điều Thiên Chúa
muốn là điều ta muốn, người Thiên Chúa yêu là người ta yêu. Cũng giống như một
người đang yêu, vui vẻ làm mọi sự, một cách bộc phát, không do thói quen, không
do tính toán.
Chúng ta có thể nói: sống trong
ân sủng, theo luật của Thần Khí, là sống như người đang yêu, được tình yêu kích
động. Tình yêu tạo ra một mối tương giao khác giữa hai người thế nào, thì Thánh
Thần cũng tạo ra mối tương giao khác giữa ta và Thiên Chúa như vậy.
4. Tương quan giữa tình yêu và lề luật
* Một khi đã sống theo Thần Khí,
thì đâu là vai trò của việc giữ luật? Luật nói đây là luật thành văn, vẫn còn
nhiều trong đời sống chúng ta (luật Thiên Chúa. luật Giáo Hội, luật Phúc Âm,
luật riêng.). Các luật này nói lên một ý muốn khách quan, áp đặt trên ta từ bên
ngoài.
Trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều
phong trào cho rằng những luật này không phù hợp với tinh thần và đời sống kitô
giáo. Nhân danh sự tự do của Thần Khí, họ chối bỏ mọi thứ luật lệ. Những phong
trào này luôn bị Giáo Hội bài bác.
Ðể trả lời cho vấn đề, cứ dựa
vào Phúc Âm. Ðức Giêsu nói Ngài đến không để huỷ bỏ luật, nhưng kiện toàn nó
(Mt 5,7). Thế nào là kiện toàn? Phaolô trả lời: "Yêu thương là chu toàn Lề
luật" (Rm 13,10). Còn Chúa thì dạy: "Tất cả Luật Môsê và các sách
ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy (mến Chúa, yêu người)" (Mt
22,40). Vậy tình yêu không thay thế Lề luật, nhưng tuân giữ nó, thực hiện nó,
tức là đem nó ra thực hành. "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy" (Ga
14,23). Tình yêu còn là sức mạnh duy nhất có thể giúp người ta giữ luật thực
sự.
Giữa luật bên trong của Thần Khí
và luật thành văn bên ngoài, không có đối lập, không có xung khắc, ngược lại,
có sự cộng tác với nhau. Luật bên trong được ban để giữ luật bên ngoài.
Augustinô nói: "Lề luật được ban để người ta tìm kiếm ân sủng, và ân sủng
được ban để người ta tuân giư Lề luật". Việc giữ luật là thước đo tình
yêu, là dấu chỉ giúp người ta nhận ra là mình đang sống theo Thần Khí hay theo
xác thịt: "Yêu mến Thiên Chúa là giữ các điều răn của Người" (1Ga
5,3).
Như vậy, tình yêu không huỷ bỏ
các điều răn, nhưng thực hiện chúng. Không những theo nghĩa: ai yêu thì có sức
mạnh giữ các điều luật truyền dạy, mà còn theo nghĩa sâu sắc hơn: ai yêu thì
thực hiện mục tiêu tối hậu của luật là làm cho người đó hoà hợp với ý muốn của
Thiên Chúa. Giả sử có ai giữ luật một cách hoàn hảo, nhưng không có tâm tình
bên trong phát xuất từ tình yêu để sẵn sàng giữ luật, người đó chỉ vờ giữ luật,
hoặc giữ chỉ vì lý do nào đó, không phải vì Chúa, hoặc coi luật như có khả năng
cứu độ (tức trở lại với não trạng Cựu ước). Luật không có vai trò cứu độ, không
có khả năng ban sự sống. Chính xác, nó là phương tiện giúp cho người ta biết ý
muốn của Thiên Chúa. Thế thôi.
Ðể hiểu mối tương quan tích cực
giữa Lề luật và tình yêu trong chế độ ân sủng, thử nghĩ đến trường hợp một phụ
nữ mang thai chẳng hạn. Bác sĩ dặn chị ta nhiều điều: được ăn cái gì, không
được ăn cái gì, được làm cái gì, không được làm cái gì. Vì chị đang mong ngóng
đứa con sắp chào đời, chỉ biết sống cho nó, nên sẵn sàng tuân theo mọi chỉ dẫn
đó. Chị giữ không phải vì những lời của bác sĩ, không phải vì sợ bị trách móc,
mà chỉ vì yêu thai nhi trong bụng. Luật của chị là tình yêu. Chị không hành
động vì bị cưỡng bách, nhưng bị lôi cuốn. Cái thai của chị lôi cuốn chị. Dầu
vậy, không một ai hành động nhiệt thành và cần mẫn hơn chị. Chị yêu đứa con,
muốn điều tốt cho nó, nhưng vì chưa biết rõ điều gì lợi hay hại cho nó, nên sẵn
sàng nghe theo những chỉ dẫn tốt của người khác. Vai trò và ý nghĩa của Lệ luật
dưới chế độ ân sủng cũng na ná như thế.
Bởi vậy, ta hiểu vì sao, sau khi
minh chứng thời kỳ của Lề luật đã chấm dứt, Phaolô lại đề ra cho người kitô hữu
vô số quy luật. Cái phải chấm dứt chính là một cách thức quan niệm về lề luật,
và phải bắt đầu bằng một cách thức quan niệm khác. Từ đây, những luật này là
nhằm phục vụ cho sự sống mới trong ta. Chúng giống như những chỉ dẫn của bác sĩ
dành cho người phụ nữ đang cưu mang trong dạ một mầm sống mới.
* Nếu như tình yêu bảo vệ Lề
luật thì, đổi lại, Lề luật cũng bảo vệ và phục vụ tình yêu. Bằng nhiều cách.
Một cách tiêu cực, luật giúp
ngăn ngừa tội lỗi. Luật được đặt ra là cho người tội lỗi (1Tm 1,9), mà tất cả
chúng ta còn là tội nhân. Tuy ta đã lãnh nhận Thần Khí, nhưng mới chỉ như lãnh
nhận của đầu mùa. Nơi ta, con người cũ còn chung chạ với con người mới. Bao lâu
còn dục tình thì Chúa quan phòng ban cho ta những mệnh lệnh, để giúp ta nhận ra
chúng, và chống lại chúng, dù chỉ do sợ bị phạt. Luật là một yếu tố hỗ trợ sự
tự do của ta, vì sự tự do này chưa ổn định. Nó không chống lại tự do của ta
đâu. Người nào tưởng phải từ chối mọi thứ luật lệ nhân danh sự tự do của con
người, người đó quả là lầm, vì không biết rõ tình trạng của sự tự do này sau khi
đã phạm tội.
Ngoài vai trò tiêu cực trên,
luật còn có vai trò tích cực khác: giúp chúng ta biện biệt đâu là ý muốn thực
sự của Chúa. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta gắn bó một cách tổng quát với ý
muốn của Thiên Chúa, coi ý của Ngài là ý của ta và muốn thi hành. Thế nhưng có
thể ta chưa biết rõ những khía cạnh hàm chứa trong ý muốn này. Một phần những
khía cạnh này được diễn tả trong luật. Luật cho thấy ý Chúa đòi hỏi thế nào
trên bình diện cụ thể, trong những việc cụ thể, trong đời sống cụ thể.
Ngoài ra, theo một ý nghĩa sâu
sắc hơn, chính luật bảo vệ tình yêu. "Chỉ khi nào có bổn phận phải yêu,
thì tình yêu mới được bảo đảm mãi mãi không biến chất" (Kierkegaard). Câu
trên muốn nói thế này: Con người chúng ta khi yêu, càng yêu mặn nồng thì càng
lo lắng, vì nhận ra mối nguy bắt gặp trong tình yêu. Ðây không có ý nói đến nỗi
sợ người mình yêu bỏ mình, vì nếu là tình yêu đối với Thiên Chúa, Ngài không
bao giờ bỏ ta. Mối nguy ở đây là từ chính ta. Quả thực, ta biết rằng mình hay
thay đổi lắm: nay yêu, mai có thể chán. Bây giờ đang yêu, sợ mai chán sẽ gây ra
những mất mát không thể sửa chữa. Thế nên ta đi bước trước bằng cách dùng luật
mà ràng buộc tình yêu của mình. Con người nhất thời có thể thay đổi, nhưng luật
thì không. Nhờ có luật bảo vệ mà tình yêu được bảo đảm.
Ðiều này có thể giúp chúng ta
liên tưởng đến luật hôn nhân ràng buộc tình yêu giữa hai người nam nữ. Không
những xã hội và Thiên Chúa cũng như Giáo Hội đòi hỏi luật đó mà, xét riêng khía
cạnh tình yêu thôi, luật cũng là yếu tố bảo vệ nó. Dĩ nhiên, phải dựa vào lời
Chúa để khám phá ra mối tương quan sinh tử và sâu sắc giữa luật và tình yêu,
mới thấy tại sao phải ràng buộc mãi với tình yêu, và không ngại biến tình yêu
thành một bổn phận. Ðể có thể thực sự yêu, con người phải bắt đầu bằng cách tự ràng
buộc mình.
Nhận định trên không chỉ đúng
cho tình yêu giữa con người, mà còn và càng đúng cho tình yêu đối với Chúa.
Chúng ta có thể tự hỏi: sao phải tự ràng buộc mình để yêu Chúa, bằng cách tuân
giữ một quy luật tôn giáo? Sao phải tuyên khấn để buộc mình sống nghèo khó,
khiết tịnh và vâng phục, vì đã có luật bên trong lôi cuốn ta giữ và sống những
điều đó? Trả lời: Chính vì trong một lúc sốt sắng, ta cảm thấy được Chúa lôi
kéo, ta yêu mến Ngài và muốn có Ngài luôn mãi. Nhưng vì ta thất thường, lòng dạ
hay thay đổi, mà lại sợ mất Ngài, nên ta tự ràng buộc bằng những lời khấn hứa
đó, để bảo đảm cho tình yêu của ta khỏi biến chất.
Lý do ràng buộc của ta cũng tựa
như lý do của Ulysse trong thần thoại hy lạp. Sau nhiều năm lưu lạc, Ulysse
nhất quyết trở về quê hương sống dưới mái nhà xưa. Nhưng ông phải vượt qua vùng
biển có nhiều nàng tiên cá cám dỗ ông dừng chân hưởng lạc thú. Ông đã phải tự
cột chặt mình vào cột buồm. Nhờ đó mà về lại được với gia đình. Ðể duy trì tình
yêu đối với Chúa, ta cũng phải cột mình (Một trong những cách cột là tìm cho
mình một vị linh hướng hay cha giải tội để trình bầy và nghe chỉ giáo).
Tình yêu của con người được mời
gọi sao chép tình yêu của Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa, tình yêu là một bổn phận.
Thiên Chúa "phải" yêu vì bản tính của Ngài là Tình Yêu. Ngài không
thể làm khác hơn. Ngài cũng bị ràng buộc. Thế mà tình yêu của Ngài lại tự do
hơn hết và nhưng không hơn hết. Nơi Thiên Chúa, bổn phận yêu không đối lập với
sự tự do yêu. Ngược lại, bổn phận và sự tự do này ăn khớp với nhau cách hoàn
hảo.
Chúng ta hãy bắt chước Ngài, dấn
thân yêu thương một cách tự do, biến tình yêu thành một bổn phận, một luật.
Hoặc đúng hơn, chấp nhận luật do Thiên Chúa truyền dạy là: "Ngươi phải yêu
mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn
ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận ngươi như chính mình" (Mt 22,37tt).
5. Một lễ Hiện Xuống mới
* Biết sự khác biệt giữa luật cũ
và ân sủng không chỉ là một vấn đề lý thuyết, nhưng còn là một vấn đề thực tế,
vì nó đem lại hậu quả tức thời cho việc định hướng đời sống chúng ta. Hậu quả
đó là chúng ta phải thực hiện một bước vượt qua từ lề luật sang ân sủng. Ðức
Giêsu đã vượt qua từ Cựu ước sang Tân ước, chúng ta phải thực hiện bước ấy một
cách thiêng liêng trong đời sống của mỗi người.
Trên nguyên tắc, chúng ta đã đi
vào Giao ước mới nhờ phép Rửa Tội, nhưng trên thực tế, hành vi trên đòi hỏi cả
một đời để thực hiện, vì chúng ta vẫn còn đầy những dục vọng của xác thịt, còn
tìm kiếm hư danh, còn tin tưởng vào việc làm. Xét khách quan, người ta có thể
sống dưới chế độ ân sủng, nhưng xét chủ quan, xét từ tâm hồn, người ta lại sống
dưới chế độ lề luật, trong đó có lẽ có ít nhiều người trong chúng ta chăng.
Chưa hết. Ngay cả khi đã tiến
dần tới sự tự do của Thần Khí, chúng ta vẫn có thể rơi lại vào trong chế độ lề
luật, mà lắm khi không cảm thấy. Phaolô đã từng khiển trách giáo đoàn Galát,
sau khi đã bắt đầu bằng Thần Khí, cuối cùng lại chạy theo xác thịt (Gl 3,3;
5,1). Lời khiển trách của Phaolô cho thấy người ta có thể làm suy giảm hay làm
mất ân sủng bằng nhiều cách: có thể do phạm tội, có thể do vụ luật, có thể do
tìm kiếm sự công chính riêng của mình. Nguy cơ lòng trí trở lại với Giao ước cũ
vẫn không ngừng đe doạ. Thế nên phải chống lại nó như Phaolô đã làm thời ngài.
Sống trong Giao ước mới là như bơi ngược dòng. Một khi ngừng bơi là dòng nước
đưa ta trở lại.
* Thử nhìn ra chung quanh để
thấy nguy cơ này như thế nào. Trong nhiều bài giảng, bài huấn giáo. người ta
nhấn mạnh một phía những bổn phận, những nhân đức, nết xấu. và, nói chung, tất
cả những gì con người phải làm, trong khi coi ân sủng như một thứ đồ viện trợ
của Thiên Chúa dành cho con người trong suốt nỗ lực nhọc nhằn của họ, thế cho
điều mà một mình họ không làm được. Lẽ ra phải coi ân sủng như một yếu tố đi
trước những nỗ lực này, để làm cho chúng có thể thực hiện được và có công phúc.
Do đó, người ta khó nhìn thấy sự mới mẻ của kitô giáo. Sự mới mẻ này lu mờ khi
không phải ân sủng tạo ra bổn phận, nhưng là lề luật tạo ra bổn phận, lu mờ khi
người ta không quan niệm bổn phận như một món nợ đối với Thiên Chúa để tỏ lòng
biết ơn Ngài, nhưng như một cái gì đó khiến Thiên Chúa phải biết ơn con người.
Trong một môi trường tu trì
chẳng hạn, sự mới mẻ kitô giáo cũng có thể lu mờ lắm. Thử ra ví dụ: ở nhà thử,
nhà tập, trong các dịp tĩnh tâm, thậm chí trong cả cuộc đời, có thể có hội dòng
dành quá nhiều thời giờ để nói về đoàn sủng riêng, truyền thống và luật dòng,
linh đạo riêng của dòng, hơn là dành thời giờ để nói về Chúa Kitô và Thần Khí
của Ngài. Như vậy, trọng tâm chú ý từ từ hoán đổi: thay vì phải tiên vàn chú ý
tới Thiên Chúa, bây giờ là chú ý tới con người, thay vì coi ân sủng là trọng
tâm, lại coi lề luật là trọng tâm. Gioan viết: "Lề luật đã được Thiên Chúa
ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật thì nhờ Ðức Giêsu Kitô mà có" (Ga
1,17). Áp dụng cho chúng ta hôm nay trong Giáo Hội, điều này có nghĩa là con
người có thể ban bố những quy luật, các vị lập dòng có thể đặt ra những quy tắc
sống, nhưng chỉ mình Ðức Kitô, nhờ Thần Khí, là có thể ban sức mạnh giúp ta giữ
những luật đó.
* Thế nên, cần phải hướng trở
lại về Ðức Kitô, về Giao ước mới. Phaolô có nói tới một bức màn che khuất tâm
hồn không cho ta nhìn thấy vinh quang siêu việt của Giao ước mới (2Cr 3,14tt).
Chỉ khi trở lại với Chúa, màn mới được cất đi. Cần một sự đổi mới sâu xa trong
Thần Khí. Cần một lễ Hiện Xuống mới. Lễ Hiện Xuống đầu tiên hệ tại ở việc ban
luật mới tạo nên tâm hồn mới và Giao ước mới, cũng như làm cho người ta có thể
yêu mến và phục vụ Thiên Chúa trong Ðức Kitô, theo một cách thức mới, thì một
lễ Hiện Xuống mới cũng phải giúp chúng ta thực hiện được như vậy, chứ không chỉ
ở chỗ nở rộ các đoàn sủng, các thừa tác vụ.
Một cách cụ thể đối với mỗi
người chúng ta, con đường đi vào lễ Hiện Xuống mới đang hình thành trong Giáo
Hội, là đổi mới chính phép Rửa của ta. Lửa của Thần Khí đã được thắp lên trong
ta ngày ta chịu phép Rửa Tội. Ta chỉ cần khơi lớp tro bao phủ nó, để nó lại bắt
đầu bùng lên, và làm cho chúng ta có khả năng yêu mến. Nếu chúng ta quyết tâm
đổi mới, dựa vào Thần Khí là nguyên lý bên trong của sự sống mới, Thiên Chúa
cũng sẽ ban cho ta cơ hội có kinh nghiệm về sự đổi mới này, như Ngài đã ban cho
Giáo Hội ngày xưa, để, như Augustinô nói, chúng ta trở thành "những con
người mới, những người thừa tự Giao ước mới, những ca viên hát bài ca
mới".
Lm Micae TRẦN ÐÌNH QUẢNG
(micquang@pmail.vnn.vn)