Kỳ 11
Người thợ mộc thành
Na-da-rét
Cụ
ông A-xe thức dậy nửa đêm. Cụ không ngủ lại được. Sau một hồi lâu trằn trọc
trên giường, cụ ngồi dậy định bước ra sân thì nghe tiếng cụ bà từ phòng trong
vọng ra:
–
Này ông, ông có nghe gì không? Tôi nghe tiếng gì như tiếng sấm ấy, nhưng mà qua
cửa sổ thì thấy trời vẫn trong thanh, sao lấp lánh khắp nơi...
Vợ
chồng A-xe chính là chủ của căn nhà bỏ hoang mà Giu-se đã mượn làm nơi cư trú
cho gia đình trong thời gian qua. Hai ông bà dầu đã cao niên, nhưng đang sống
cô độc, không có con cháu nào bên cạnh. Được cái là cả hai vẫn còn khoẻ mạnh và
minh mẫn, lại được thừa hưởng gia sản của tổ tiên để lại nên không phải lo lắng
chuyện gì. Ông bà cũng đang bàn tính là sẽ cho không đôi vợ chồng trẻ căn nhà
họ đang ở với hài nhi Giê-su...
Không
nghe tiếng trả lời, cụ bà A-xe rời giường bước ra phòng ngoài. Cụ ông đã đốt
lên một ngọn đèn và đặt trên bàn giữa phòng. Thấy cụ bà bước vào, ông liền lên
tiếng:
–
Khẽ chứ! Cũng vì cái tiếng lạ đó mà tôi thức giấc và không ngủ lại được. Hình
như tiếng đó càng lúc càng to hơn.
Như
chợt nghĩ ra điều gì, cụ bà vội nói:
–
Tôi biết rồi. Đó là tiếng chân nhiều con ngựa đang phi nước đại trên đường.
Nói
xong, bà lại lắng tai nghe, cả cụ ông cũng im lặng, hướng một bên tai về phía
tiếng động. Lát sau, ông nói nhỏ, giọng đầy lo sợ:
–
Đúng là tiếng vó ngựa rồi. Nhưng đêm hôm khuya khoắt thế này thì người ta kéo
quân đi đâu! Mà lại đi về hướng Bê-lem nữa chứ!
Như
không nghe tiếng chồng nói gì, cụ bà bước tới gần cụ ông và nói:
–
Tôi thì không phải đã thức dậy vì tiếng động này mà là vì một tiếng động khác.
–
Tiếng động nào nữa? Cụ ông hỏi lại.
Nhìn
trước nhìn sau như sợ có người nào nghe thấy, cụ bà nói thầm bên tai chồng:
–
Vào khoảng canh hai canh ba gì đó, tôi mới chợp mắt được một tí thì nghe tiếng
nói chuyện ở căn nhà ngoài vườn. Tiếng nói nhỏ thôi nhưng ban đêm thì nghe to
hơn mặc dầu không rõ là người ta đang nói gì. Ngạc nhiên, tôi tới mở cửa sổ để
nghe cho kỹ hơn thì thay vì tiếng người nói chuyện tôi lại nghe tiếng mở cửa,
rồi tiếng chân một con vật có móng gõ nhẹ trên đất. Tôi nghĩ đến con lừa của
đôi vợ chồng trẻ. Thắc mắc chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì tôi thấy trong bóng
đêm lờ mờ, một người ngồi trên lưng lừa, ôm một vật gì đó. Tôi đoán là người vợ
đang bế thằng bé, đi sau là một người khác, mang trên vai một túi đồ lớn. Họ âm
thầm rời căn nhà. Tôi định lên tiếng hỏi họ đi đâu, nhưng rồi lại nghĩ chắc
thằng bé bị đau sao đó nên họ đưa nó đến nhà thầy thuốc.
Nói
đến đó, cụ bà ngừng lại vì tiếng vó ngựa đã rõ ràng hơn, rầm rập hãi hùng.
Bỗng
từ xa, như là từ cổng thành, vang lên tiếng la hét, rồi tiếng khóc của phụ nữ,
tiếng nạt nộ của đàn ông. Cụ ông A-xe vội tắt ngọn đèn. Căn phòng chìm trong
bóng tối. Đôi vợ chồng già ngồi sát bên nhau, run lên vì khiếp sợ. Tiếng khóc
la, không chỉ là của phụ nữ, mà xen lẫn cả tiếng thét của trẻ em, tiếng gào
rống của người lớn.
Cả
thành Bê-lem bé nhỏ thức dậy trong cảnh kinh hoàng. Bọn lính xuống ngựa và đạp
cửa xông vào mọi nhà, lục tìm khắp nơi. Không ai hiểu được vì đâu mà họ làm như
thế. Nhưng tiếng đồn từ nhà này sang nhà khác là bọn lính tìm giết các bé trai
khoảng từ hai tuổi trở xuống.
Những
tên lính không phải là người Do-thái nhưng đích thị là do nhà vua phái tới.
Trong ánh đuốc chập chờn, chúng lôi những bé trai từ trong giường, giật khỏi
tay các bà mẹ, rồi lạnh lùng đâm chết các em trước mặt cha mẹ chúng, sau đó
quẳng lại cho họ những cái xác không hồn, mềm nhủn, đầy máu me.
Ông
bà A-xe hoảng kinh khi tiếng chân ngựa dừng lại trước sân. Cửa nhà bị một cú
đạp mở toang. Ba tên lính xồng xộc đi vào nhà. Trong ánh đuốc bập bùng, chúng
thấy hai ông bà già đang ôm nhau run cầm cập thì cười ha hả. Rồi chúng chia
nhau lục lọi khắp nhà, hất tung đồ đạc như nghi có người nấp đâu đó. Sau một
hồi tìm tòi vô ích, chùng bỏ đi để sang các nhà bên cạnh.
Cuộc
tàn sát còn kéo dài đến gần sáng nhưng tiếng than khóc thì không biết đến bao
giờ mới chấm dứt. Khi đã hoàn hồn, cụ ông A-xe nói với vợ:
–
Chúng ta không biết do đâu mà nhà vua cho tìm giết các con trẻ Bê-lem, nhưng
tôi chắc một điều là cuộc tàn sát này đã được tiên tri Giê-rê-mi-a loan báo từ
xa xưa. Bà có nhớ câu ngài nói không: “Đức
Chúa phán thế này: Người ta nghe có tiếng khóc ở Ra-ma, tiếng khóc than ai oán,
đó là tiếng bà Ra-khen khóc thương con cái mình, bà không muốn được an ủi về
những người con ấy vì nay chúng chẳng còn.”
Trong
khi những biến cố khủng khiếp đó diễn ra tại Bê-lem, thì trên quãng đường vắng
về phía nam, Giu-se giục con lừa bước nhanh, còn chàng thì lặng lẽ chạy theo
sau.
Trời
sắp sáng. Từ phía đông, một vầng hồng đang dần dần lan rộng.
Thời
gian càng trôi, Giu-se càng cảm thấy an tâm. Nhưng chàng không dám dừng lại
nghỉ lấy hơi khi chưa vào tới sa mạc. Mồ hôi chảy dài trên mặt, thấm ướt cả áo
trên lưng, nhưng Giu-se không cảm thấy mệt, chàng vẫn bước nhanh như chạy để
theo kịp con lừa. Từ khi rời căn nhà nhỏ ở Bê-lem, Ma-ri-a chưa nói một lời
nào. Nàng vâng lời chồng, ôm con ngồi yên trên lưng lừa để Giu-se dẫn đi.
Lúc
đầu khi còn ở trong thành Bê-lem, Giu-se cho lừa đi chậm vì sợ gây tiếng động.
Nhưng khi đã cách khá xa những căn nhà cuối cùng, Giu-se đi lùi lại phía sau và
đập vào mông con lừa giục nó bước nhanh. Sự sợ hãi làm cho Giu-se chẳng những
không biết mệt, mà còn vượt được những khó khăn do đêm tối gây nên.
Ánh
sao lờ mờ không soi tỏ đường đi, vậy mà Giu-se dẫn lừa qua những khúc quanh,
những chỗ lồi lõm trên đường một cách dễ dàng như đi giữa ban ngày. Trong đầu
chàng như vẫn vang lên lời thiên sứ báo mộng: “Này
Giu-se, dậy đem Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi
tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài nhi đấy!” (Mt. 2, 13)
Gần
đến trưa, bỗng nhiên ánh nắng dịu lại, nhiều áng mây trắng lướt qua che khuất
mặt trời, rồi một luồng gió mát từ phía tây thổi tới như mách bảo với Giu-se
rằng mối nguy hiểm đã qua và chàng có thể dừng lại cho người và vật nghỉ ngơi
đôi chút. Chàng cho lừa dừng lại, đưa tay bế Giê-su đặt xuống đất rồi giúp
Ma-ri-a rời khỏi lưng lừa.
Ba
người im lặng hướng về Giê-ru-xa-lem và Giu-se cất lên bài Thánh vịnh tạ ơn...
(Còn tiếp)