Người Thợ Mộc
Thành Na-da-rét
Kỳ : 2
Bài
thánh vịnh kết thúc buổi cầu nguyện ngày hưu lễ vừa chấm dứt, Xi-mong ngạc
nhiên thấy Giu-se vội vã rời hội đường. Anh liền đi theo, nhưng mới ra tới cửa,
anh đã thấy Giu-se đi như chạy, mãi tít đằng xa. Xi-mong bước nhanh theo nhưng
phải mất cả đỗi anh mới bắt kịp Giu-se. Rồi vừa thở, anh vừa hỏi:
– Có chuyện gì mà
cậu bỏ đi như chạy trốn vậy?
Giu-se tiếp tục
bước đi như không nghe tiếng Xi-mong nói. Bực mình, Xi-mong níu vai bắt Giu-se
đứng lại và nói:
– Này, cậu có nghe
tớ hỏi không đấy? Cậu đã đánh mất tính lịch thiệp sẵn có của cậu từ lúc nào
vậy?
Giu-se vẫn im lặng
và Xi-mong thấy một thoáng buồn lướt qua trong đôi mắt của chàng. Như nghĩ rằng
không thể tiếp tục làm thinh, Giu-se chậm rãi nói:
– Hôm nay là ngày
nghỉ việc, mời anh về nhà chơi. Chúng ta sẽ nói chuyện.
Và như sực nhớ gần
hai tuần nay không gặp Xi-mong, Giu-se hỏi:
– Còn anh, hình như
mấy ngày rồi anh đi đâu vậy?
Xi-mong đáp:
– Vâng, tớ mới về
lại Na-da-rét tối hôm qua. Bố mẹ tớ sai tớ đi Giáp-pha đòi mấy món nợ đã từ lâu
người ta không trả. Tớ tưởng chỉ vắng nhà vài hôm nên chẳng cần báo cho cậu
biết, không ngờ mất gần nửa tháng mới lo xong chuyện.
Đến nơi, Giu-se mở
cổng rồi mở cửa vào nhà không nói năng gì và như quên mất có Xi-mong đang đi
bên cạnh.
Biết tính Giu-se ít
nói nhưng Xi-mong không khỏi cảm thấy bực bội trước sự im lặng khó hiểu của
chàng. Anh bèn lên tiếng trước:
– Tớ hết chịu nổi
rồi đấy nhé! Cậu có chịu mở miệng không đây?
Giu-se mỉm cười
trước vẻ nghiêm nghị hơi bất thường của Xi-mong:
– Thì tôi đã chẳng
nói là mời anh về nhà nói chuyện đó sao? Nhưng có gì mà anh sốt ruột dữ vậy,
anh phải đi đâu à?
– Không đi đâu cả,
hôm nay là ngày Hưu lễ mà. Nhưng mà tớ không chịu được khi thấy cậu có cái gì
đó giấu tớ, mà cái gì đó hình như làm cậu không vui. Tớ còn nhớ là hôm lễ đính
hôn, mọi người đã thấy cậu hạnh phúc biết chừng nào. Và điều làm cho tớ vui hơn
cả là anh em nhà Pê-rét đã không thực hiện lời hăm dọa của chúng.
Giu-se cúi đầu ngồi
nghe Xi-mong nói. Xi-mong ngừng lại và như cảm được cái nhìn của anh xoáy vào
đầu mình, Giu-se liền ngẩng đầu lên và chậm rãi nói:
– Đúng là mọi sự đã
diễn ra rất tốt đẹp. Tôi đã được Gia-vê đoái thương một cách đặc biệt, và tình
thương của Ngài như đã lan đến mọi người khiến ai nấy đều tỏ ra yêu mến tôi, kể
cả anh em nhà Pê-rét. Anh có biết không, tôi thật sự rất cảm động khi gặp tôi
ngoài đường họ đã nắm lấy tay tôi để chúc mừng tôi, như thể điều anh tiết lộ
với tôi trước đây chỉ là chuyện bịa đặt. Xin lỗi anh nhé.
Ngừng một lát, và
thấy Xi-mong chẳng nói gì, Giu-se tiếp tục:
– Anh cũng biết
phong tục của chúng ta, sau khi đính hôn, hai người nam nữ đã trở thành vợ
chồng (1) nhưng còn phải tổ chức lễ rước dâu thì người chồng mới được phép đưa
vợ về nhà mình. Được sự đồng ý của ông bà Gioa-kim, tôi dự định sẽ đón Ma-ri-a
về nhà sau đại lễ Vượt Qua năm nay... Nhưng không hiểu tại sao, Ma-ri-a đã bỏ
nhà đi mà chẳng cho tôi hay biết gì cả. Đến nay nữa là đúng mười hôm.
Thấy câu chuyện bắt
đầu có vẻ hấp dẫn, mà Giu-se thì chẳng tỏ vẻ ra tích cực chút nào, Xi-mong vội
lên tiếng:
– Thế cậu đã gặp
ông bà cụ để hỏi cho biết nàng đi đâu chưa?
– Sao lại chưa, mà
vì biết được nàng đi đâu nên tôi càng lo.
– Nàng đi đâu?
– Nàng đi
Ain-Karim. Anh biết ở đâu chớ?
Xi-mong suy nghĩ
một lúc nhưng không tìm ra.
– Tớ chịu. Có xa
lắm không?
– Tận miền Nam.
Cách Giê-ru-xa-lem trên bốn mươi dặm về phía tây, nghĩa là trên sáu trăm dặm từ
đây đến đó (2).
Nói xong, Giu-se
thở dài còn Xi-mong thì nhăn trán suy nghĩ. Lát sau anh nói:
– Thế các cụ không
cho biết nàng để đó làm gì sao?
– Các cụ bảo ai đó
báo tin một người chị họ già tưởng suốt đời phải chịu cảnh son sẻ, nay được
Gia-về đoái thương cho có thai. Các cụ nói bà ấy đã mang thai được sáu tháng.
Xót cảnh hai ông bà đơn độc sắp phải lo việc sinh đẻ và nuôi nấng con thơ,
Ma-ri-a xin phép bố mẹ cho đi giúp đỡ họ...
Xi-mong ngắt lời
Giu-se:
– Cậu nói ai đó báo
tin cho Ma-ri-a là ai chứ? Làm sao mà có người từ mãi miền Nam xa xôi lên báo
tin... mà lại để tới nay mới báo? Các cụ không nói rõ thêm gì sao?
– Thật ra các cụ đã
làm mình hết sức ngạc nhiên vì họ bảo họ cũng chỉ nghe Ma-ri-a nói thế chứ họ
đã không có người khách nào đến thăm trong những ngày ấy. Còn Ma-ri-a thì cũng
chẳng gặp ai bởi vì trong thời gian đó nàng đã không hề bước chân ra khỏi
nhà...
Xi-mong tỏ ra sốt
ruột nên lại ngắt lời Giu-se lần nữa:
– Nếu vậy, tại sao
các cụ lại tin lời Ma-ri-a và để cho nàng đi?
– Cái đó thì tôi
không biết. Nhưng anh nên nhớ Ma-ri-a không phải như người khác. Sự nghiêm túc
và lòng đạo đức của nàng đủ để bảo đảm cho điều nàng nói. Hơn nữa, nàng đã
không đi một mình mà nghe các cụ nói là may mắn lúc ấy có mấy người muốn về
Giê-ru-xa-lem sớm để đợi ngày mừng lễ Vượt Qua nên nàng đã nhập đoàn với họ.
– Ra vậy! Nhưng tớ
vẫn thắc mắc về người đưa tin. Bởi theo cậu nói thì chẳng có ai đưa tin cả, vậy
mà Ma-ri-a đã biết được tin vui của người chị họ.
– Tôi cũng rất thắc
mắc như anh và có lúc tôi đã nghi ngờ ông bà Gioa-kim đang giấu tôi điều gì đó.
Nhưng nghĩ lui nghĩ tới, tôi thấy sự nghi ngờ của tôi là vô lý vì các cụ đã tỏ
ra rất chân thành khi nói chuyện với tôi. Các cụ khuyên tôi cứ tin tưởng vào
Gia-vê Thiên Chúa.
Ngừng một lát, Giu-se
hỏi Xi-mong:
– Anh xem tôi phải
làm gì bây giờ? Có nên đi tìm Ma-ri-a không?
– Cậu bảo là nàng
đã đi được mười hôm phải không?
– Vâng, đó là theo
lời các cụ nói.
– Nếu vậy thì hẵng
còn sớm. Thử đợi thêm ít lâu xem nàng có thư từ gì về không đã. Còn cậu thì nên
nghe lời các cụ mà tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa. Việc đi đối với cậu thì
dễ quá mà! Có điều, cậu đừng làm cái mặt khó ưa đó nữa. Có nhớ vợ lắm cũng hãy
bình tĩnh và tiếp tục làm việc, sửa sang dọn dẹp nhà cửa để mà đón nàng về,
chấm dứt cái cảnh đơn độc của cậu đi...
(1) Chú thích của các dịch giả (Nhóm
phiên dịch các giờ kinh phụng vụ) cuốn Kinh Thánh trọn bộ Cựu ước và Tân ước
xuất bản năm 1998, trang 2384.
(2) Dặm ở đây không phải là mile
(tiếng Anh) hay mille (tiếng Pháp) tương đương 1.600 mét, nhưng là stadium
(tiếng Anh) hay stade (tiếng Pháp) và tương đương 182 mét; như vậy trên 40
dặm nghĩa là khoảng 8 km và 600 dặm là khoảng 110 km.