Kỳ 9
Người thợ mộc thành Na-da-rét
Sau
nhiều ngày tìm kiếm, sau những lúc phải năn nỉ khẩn cầu, sau bao nhiêu lần bị
xua đuổi, từ chối, cuối cùng Giu-se cũng đã có được một chỗ để đưa vợ và đứa
con mới sinh về cư trú. Thật ra đây là một căn nhà bỏ hoang, đã được sử dụng
với nhiều mục đích khác nhau, thậm chí cả việc dùng làm nơi nhốt ngựa, nên đã
xuống cấp trầm trọng, cửa ngõ cái còn cái mất, cái còn thì cũng xộc xạch lung
lay. Giu-se đã bỏ ra hơn một ngày để quét dọn, sửa sang. Chàng còn phải chi một
khoản tiền để mua sắm những đồ dùng cần thiết, khoản tiền tuy không lớn nhưng
cũng làm Giu-se lo lắng cho những ngày sắp tới với phần còn lại còm cõi trong
túi.
Khi
thấy cái trước đây là một căn nhà tồi tàn bị bỏ đi, nay đã nhờ đôi tay khéo léo
của mình trở nên một nơi tương đối ở được, ít ra cũng hơn cái hang đá ngoài
kia, Giu-se ra đồng đón Ma-ri-a và con trẻ vào thành. Hài nhi và mẹ được đặt
lên lưng con lừa trung tín rồi Giu-se, tay dắt lừa, tay xách túi đồ, đưa vợ con
đến nơi mà chàng đã chuẩn bị với tất cả trái tim yêu thương của mình. Chàng
lặng lẽ bước đi, trí lòng đầy ắp những suy nghĩ về vai trò và trách nhiệm của
mình. Đôi lúc bị cám dỗ nghi ngờ về sứ mạng đã được giao phó. Những lúc ấy, một
đàng Giu-se âm thầm kêu cứu Gia-vê Thiên Chúa, đàng khác chàng nghĩ đến người
vợ trẻ đang một mực tin tưởng phó thác nơi chàng. Và chàng lại cảm thấy được an
ủi và nâng đỡ, can đảm làm những việc bề ngoài chỉ gây cho chàng sự chán nản và
bực tức...
Mặc
dầu mới sinh con được một tuần, Ma-ri-a cũng dậy tiếp tay với chồng để tạo cho
gia đình một nếp sống dễ chịu hơn. Con trẻ thường rất ngoan, chỉ làm hai việc
quan trọng là bú và ngủ, hiếm khi nghe bé khóc. Thoắt cái mà đã đến ngày làm lễ
cắt bì và đặt tên cho hài nhi. Đôi vợ chồng trẻ đã dọn dẹp nhà cửa thật tươm
tất. Không biết Giu-se tìm đâu ra được một bó hoa đủ loại, đem về cắm trong một
cái chai bể rồi đặt trên bàn ăn, làm cho căn nhà vui tươi hẳn lên. Rồi giờ phút
quan trọng đến, khi những tia nắng muộn màng của mùa đông tràn qua cửa sổ mang
ánh sáng và hơi ấm vào nhà, Ma-ri-a ẵm con đến trước mặt Giu-se. Sau khi cùng
nhau dâng lên Gia-vê Thiên Chúa lời ca ngợi tạ ơn lấy từ Thánh vịnh, Giu-se
dùng quyền gia trưởng, đã cắt bì và đặt tên cho con trẻ là Giê-su, tên mà thiên
sứ đã dạy đặt cho hài nhi khi ngài đến gặp Ma-ri-a tại nhà nàng ở Na-da-rét (Lc. 1, 31) cũng như khi ngài báo mộng cho
Giu-se về việc vợ chàng mang thai (Mt. 1,
21). Bất giác Giu-se nhớ lại những giờ phút căng thẳng chàng đã trải
qua cách đây chín tháng. Chàng nhớ lại tuần lễ chay tịnh chàng đã sống, chàng
cũng nhớ lại ý định từ bỏ Ma-ri-a để trốn đi. Tự nhiên mắt Giu-se mờ đi và
Ma-ri-a thấy hai dòng nước mắt chảy xuống trên đôi má của chồng. Nàng ôm chặt
con vào lòng và cúi đầu xuống, vì chính nàng cũng cảm thấy nước mắt mình đang
trào ra...
Giê-su
lớn lên như thổi, chẳng mấy chốc mà tay chân của bé ngấn lên bụ bẫm; đôi mắt đã
có thể chú ý nhìn những khuôn mặt thân quen hằng ngày đến bên chỗ bé nằm. Để có
tiền chi dùng trong nhà, Giu-se đi kiếm việc làm tại các nhà trong thành
Bê-lem, khi thì đóng một cái khạp đựng gạo, khi thì sửa một cánh cửa bị hư, hay
một mái nhà dột... Chàng mừng vì thấy mình biết lo xa, đã đem theo trong túi
hành lý khi rời Na-da-rét một ít dụng cụ tối cần; chàng chỉ mượn thêm những thứ
khác cồng kềnh không mang theo được.
Hơn
một tháng trôi qua kể từ ngày Giu-se đưa được vợ con từ hang đá ngoài đồng vào
thành phố. Ngày lễ thanh tẩy theo luật Mô-sê đã đến. Hai vợ chồng chuẩn bị đưa
con lên đền thờ để dâng cho Gia-vê Thiên Chúa. Chính Ma-ri-a đã nhắc chồng về
việc này. Thật ra không phải Giu-se quên hay không quan tâm, chàng còn nhớ kỹ
và tính từng ngày. Nhưng trong thâm tâm của chàng có một ý nghĩ, hay đúng hơn,
một câu hỏi mà Giu-se đã nhiều lần tìm cách xua đuổi nhưng vẫn cứ xuất hiện ám
ảnh chàng. Đó là câu hỏi tại sao vợ chồng chàng phải thi hành các lề luật chỉ
dành cho người dân bình thường, vì chính sứ thần Thiên Chúa đã khẳng định với
họ về lai lịch của Giê-su. Tuy hài nhi đã được cưu mang và sinh ra như mọi trẻ
em khác, nhưng đó chính là “Con Đấng Tối Cao, là Con Thiên Chúa” – như Ma-ri-a
đã cho Giu-se biết sứ thần đã nói với nàng như thế. Còn Giu-se thì đã được báo
mộng rằng Ma-ri-a cưu mang là do quyền năng của Chúa Thánh Thần và nàng sẽ sinh
ra Đấng cứu muôn dân Người khỏi tội lỗi. Vậy thì luật Mô-sê đâu phải dành cho Người?
Tuy thắc mắc như thế, nhưng Giu-se không dám trao đổi với Ma-ri-a, ngay cả khi
được nàng nhắc nhở.
Cho
đến khi ngày phải thi hành luật thanh tẩy đến, chưa kịp chia xẻ với vợ về suy
nghĩ của mình, Giu-se đã cùng vợ đưa con trẻ đi Giê-ru-xa-lem. Chàng đã sắm một
cặp chim câu non, của lễ mà luật đã quy định cho những cặp vợ chồng nghèo dâng
để chuộc lại con trai đầu lòng khi đã tiến dâng cho Thiên Chúa. Khi đến nơi,
Ma-ri-a và Giu-se thấy nhiều đôi vợ chồng khác cũng đưa con đến thi hành lề
luật như họ. Nhìn cảnh những gia đình giàu sang, có kẻ hầu người hạ, đem dâng
những lễ vật đắt tiền, Giu-se tuy không có ý nghĩ ghen tức đối với họ, nhưng
cảm thấy một chút gì chạnh thương đối với vợ con của mình. Đang suy nghĩ mông
lung như vậy, Giu-se giật mình khi Ma-ri-a kéo tay chàng để tiến lên trao con
trai vào tay vị tư tế. Khi vị này trả con lại cho hai người, Giu-se có cảm
tưởng như ông ta nhìn họ một cách chú ý hơn. Chàng đang tự hỏi không biết có
phải là vì thấy cảnh nghèo nàn của họ mà ông ta tỏ ra thương hại không thì bên
cạnh chàng một cụ già xuất hiện, đưa hai tay ra phía trước như muốn xin ẵm bé
Giê-su. Thấy cụ già không có vẻ gì bất thường, lại tỏ ra phúc hậu và lịch sự,
Ma-ri-a trao bé Giê-su cho cụ. Bấy giờ Giu-se mới hiểu ý nghĩa cái nhìn của vị
tư tế, vì hình như cụ già đã đi theo hai vợ chồng từ lâu mà chàng không biết.
Trước sự ngạc nhiên không chỉ là của đôi vợ chồng trẻ, mà còn của tất cả những
người hiện diện, kể cả vị tư tế, cụ già nói:
–
Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con đã được thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh
quang của ít-ra-en Dân Ngài. (Lc.
2, 29-32)
Mọi
người sửng sốt khi nghe những lời cụ già vừa nói và tất cả đều quay nhìn đôi vợ
chồng trẻ. Vì hiểu được ý nghĩa của những lời đó và chàng nghĩ rằng Ma-ri-a
cũng hiểu nữa, Giu-se cảm thấy lòng chàng rộn lên một niềm vui sướng vì một
cách nào đó, cụ già xác nhận lời của sứ thần về lai lịch của hài nhi Giê-su.
Nhưng niềm vui của chàng vụt tắt khi nghe cụ già nói tiên tri về hai mẹ con:
–
Cháu là dấu hiệu bị người đời chống báng.
Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn bà... (Lc. 1, 34-35)
Giu-se
nhớ lại lời Ma-ri-a đã có lần nói với chàng về nhiều thử thách đang chờ đợi gia
đình họ ở phía trước.
(Còn tiếp)