CHÚA NHẬT
3 THƯỜNG NIÊN B
THEO TIẾNG
CHÚA KÊU GỌI
+++
A. DẪN NHẬP.
Tuần trước chúng ta đã đề cập đến ơn gọi
của mọi người : Chúa muốn con người hợp tác với Chúa trong việc ban phát ơn cứu
độ vì Chúa không muốn làm việc một mình. Tuần này chúng ta suy niệm việc Đức Giêsu
khởi sự rao giảng Tin mừng cùng với lời kêu gọi “Hãy sám hối và tin vào Tin mừng”
để được vào Nước Trời và được hưởng ơn cứu độ Chúa thương ban.
Để thực hiện chương trình này, Chúa đã
chọn một số người cộng tác với Ngài trong việc rao giảng này, trước hết Chúa đã
gọi 4 ngư phủ đầu tiên làm tông đồ là Anrê và Phêrô, Giacôbê và Gioan. Trông thấy
các ông đang đánh cá, Chúa chỉ gọi các ông rất vắn tắt :”Hãy theo Ta”, thế mà các ông
đã dứt khoát từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
Thái độ từ bỏ dứt khoát của 4 tông đồ
là mẫu gương đẹp cho mọi Kitô hữu. Trong cuộc sống hằng ngày Chúa vẫn kêu gọi
chúng ta theo Chúa, Chúa vẫn khích lệ chúng ta cố gắng sống xứng đáng một Kitô
hữu chính danh. Muốn đáp lại lời mời gọi của Chúa, chúng ta cần phải nỗ lực làm
việc, chịu đựng vất vả hy sinh, đôi khi phải hy sinh cả tính mạng để tỏ lòng
trung thành với Chúa và xứng đáng là tông đồ của Ngài.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Gn 3,1-5.10.
Giona là một trong số 12 tiên tri nhỏ
của người Do thái, nên sách Giona cũng chỉ là một tác phẩm nhỏ. Sách này được
viết ra để loan báo tính cách phổ quát của Tin mừng, nghĩa là Thiên Chúa yêu thương
tất cả mọi người, muốn cho mọi người được ơn cứu độ, không phân biệt chủng tộc,
mầu da hay một nền văn hoá nào.
Thiên Chúa sai tiên tri Giona đến thành
Ninivê rộng lớn để công bố lời Thiên Chúa phán quyết hủy diệt những kẻ ngoại đạo,
theo những tư tưởng ông nhận được tại Israel. Ông ngại ngùng và cố tình đi hướng
khác, nhưng Chúa cho tầu chở Giona bị bão, thủy thủ quăng ông xuống biển. Một
con cá nuốt ông vào bụng rồi nhả ông trên bờ biển Ninivê. Cuối cùng Giona chỉ còn
đành theo lệnh Chúa vào thành rao giảng. Kết quả là thành Ninivê đã hoán cải
ngay sau lần giảng đầu tiên của Giona. Dân thành Ninivê đã được ơn tha thứ.
+ Bài đọc 2 : 1Cr 7, 29-31.
Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu Côrintô về giá trị của thực tại trần gian. Tất
cả chỉ mỏng manh không có gì là tuyệt đối vững bền, cho nên đừng dính bám vào của
cải trần gian. Chỉ có Chúa là Đấng tuyệt đối và là cùng đích và duy nhất của cuộc
sống, còn tất cả chỉ là tương đối và chóng qua.
Vì thế, thánh Phaolô đưa ra một lời kêu
gọi có vẻ nghịch lý nhưng thực sự đó là chân lý:”Ai có vợ hãy ăn ở như không có, ai than khóc hãy ăn ở như không than khóc,
kẻ hân hoan hãy ăn ở như không hân hoan, người mua sắm hãy ăn ở như không có
gì”. Chỉ những ai ý thức được chân lý này mới có thể từ bỏ tất cả để theo đuổi
mục đích tối hậu là chiếm hữu được Thiên Chúa.
+ Bài Tin mừng : Mc 1,14-20.
Bài Tin mừng hôm nay có thể được chia
thành 2 phần:
- Phần
một : Sau khi Gioan bị bỏ tù, Đức Giêsu khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng
ở Galilêa, một vùng đất có đa số là dân ngoại. Nội dung việc rao giảng của Ngài
là :”Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã
đến gần. Hãy sám hối và tin vào Tin mừng”.
- Phần
hai : Để loan báo Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên mà 3
trong 4 ông đã có dịp gặp Ngài trước kia ở Giuđêa do ông Gioan Tẩy giả giới thiệu
là Anrê và Phêrô, Giacôbê và Gioan. Ngài mời gọi các ông rời bỏ tất cả, từ bỏ cả
địa vị xã hội và gia đình của họ để trở nên Tông đồ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thiên Chúa vẫn mời gọi
con người
Bài Tin mừng hôm nay nói về những việc
xẩy ra sau khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng.
Chúng ta nhận ra hai ý tưởng chính :
* Tóm tắt việc Chúa rao giảng : giới
thiệu Nước Thiên Chúa và điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa : sám hối và tin
vào Tin mừng.
* Đức Giêsu chọn 4 tông đồ đầu tiên đang khi các ông thả lưới dưới biển.
I. ĐỨC GIÊSU ĐI RAO
GIẢNG TIN MỪNG.
1. Đề tài rao giảng.
Sau khi đã ăn chay cầu nguyện 40 đêm
ngày trong hoang địa, Đức Giêsu bỏ xứ Giuđêa vì ở đây không thuận tiện cho việc
rao giảng, nhất là sau khi Gioan bị bắt. Chúa trở về Galilêa để rao giảng Tin mừng
vì ở đây dân chúng dễ chấp nhận lời Chúa hơn ; đàng khác Hêrôđê cũng ít biết đến
Ngài nên không có gì đáng ngại.
Nội dung việc rao giảng của Đức Giêsu
là :”Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã
gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin mừng”.
Đức Giêsu loan báo cho họ biết thời giờ Thiên Chúa dự liệu đời đời để Nước
Người trị đến thì nay đã đến. Thời giờ mong chờ Đấng Cứu thế đã hết, vì Đấng Cứu
thế đã đến rồi. Chúa dạy họ hãy dọn lòng để thực hiện những điều kiện để được vào
Nước đó.
Đây là hai điều kiện để được vào Nước đó
:
a)
Hãy sám hối.
Sám hối là một thái độ cởi bỏ những
chướng ngại là tội lỗi, để sẵn sàng đón nhận những chân lý phải tin.
Sám hối là ăn năn thống hối về các lỗi
lầm của mình. Theo nguyên ngữ, Metanoia có nghĩa là trở về, có ám chỉ một thái độ
từ bỏ tâm trạng cũ, một não trạng xưa.
Việc sám hối đây không phải chỉ bỏ một số tội lỗi, hay lo buồn về một hành
vi quá khứ đáng tiếc, nhưng là quay trở về hoàn toàn. Từ quay trở về căn bản là
trở về với Thiên Chúa, con người sẽ trở về với chính mình. Với thái độ quay trở
về, thay đổi nào trạng cũ xưa, con người mới đáng đón nhận Tin Mừng từ Thiên Chúa
ban cho.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ bằng lời kêu gọi
“Hãy sám hối”. Lời này được gửi đến
ai ? Dĩ nhiên là gửi đến những người tội lỗi trước tiên, nhưng cũng gửi đến tất
cả mọi người nữa, kể cả những người tốt lành. Việc sám hối đối với những người tội lỗi thì dễ
hiểu, còn đối với người tốt lành thì khó hiểu, bởi vì họ không thấy có gì phải
sám hối. Họ thấy lỗi của người khác rõ ràng,
còn đối với họ thì rất mù mờ, họ có thể lên án người khác mà lại quên chính bản
thân mình. Đúng như người ta nói :Bàng
quan giả tỉnh, đương cục giả mê” : việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
Truyện : việc mình thì quáng.
Thi sĩ La Fontaine, một nhà thơ ngụ ngôn
của Pháp, có kể chuyện như sau : Một hôm, Chúa tể sơn lâm triệu tập cả triều thần
nhà thú lại và phán bảo :
- Hiện nay tất cả chúng ta đều bị bệnh
dịch hoành hành. Theo trẫm xét thấy thì hẳn có người đã phạm tội xúc phạm đến
Thượng Đế. Bởi vậy, theo ý trẫm thì tất
cả mọi người đều phải thú tội. Ai có tội nặng hơn cả thì phải làm con vật hy
sinh đền tội. Có như vậy, mới mong Thượng Đế nguôi cơn giận, tha phạt cho toàn
dân. Thế là mọi người đều lần lượt thú nhận tội lỗi.
Trước hết sử tử thú nhận hay ăn cừu, ăn
nai, đôi khi ăn cả thịt người.
Sau sử tử, các con thú khác cũng ra trước
mặt mọi người thú tội một cách công khai.
Cuối cùng, một chú lừa hiền lành, khờ
khạo, than rằng mình cũng có ăn một ít cỏ mà không xin phép chủ ruộng.
Thế là cả hội đồng đứng lên la hét buộc
tội chú lừa, cho chú lừa là kẻ phạm tội nặng nhất, là nguyên nhân của tai họa.
Lắm khi chúng ta cũng có thái độ của
thú đối với người đồng loại của chúng ta. Tội ác đè nặng con nguời của chúng
ta, chúng ta không thấy được. Nhưng một lỗi lầm nhỏ bé của người bên cạnh đã
khiến chúng ta phẫn uất và lên án gắt gao.
Sám hối là nhận diện con người của chúng
ta, và khi cảm nhận được lòng tha thứ của Chúa, chúng ta hãy sẵn sàng tha thứ
cho những người chung quanh.
(Cử hành phụng vụ
Chúa nhật, năm B, tr 117)
Con người sám hối trước hết phải thấy
không hài lòng với chính mình và kế đó phải mong muốn cho mình được tốt hơn. Phải
ý thức có một cái gì đó sai lạc hoặc ít ra là còn thiếu. Cảm nghiệm sám hối bắt
đầu với sự nhận biết rằng mình chưa phải là con người hoàn thiện, mình chưa phải
là điều mình phải là.
Sám hối cũng cần có một sự can đảm :
can đảm nhận ra thực trạng của mình, can đảm phá bỏ con đường cũ để theo con đường
mới, phải giết con người cũ để mặc lấy con người mới. Sự can đảm này rất cần
thiết, bởi vì con người thường thích đi trên những đường xưa lối cũ, con người
thường đã lún sâu trong những thói quen đã ăn sâu, cho nên thay đổi là rất khó.
Sám hối còn đòi con người biết hạ mình
khiêm nhường nhận lỗi lầm của mình, không đổ lỗi cho người khác, con người biết
cam đảm nói lên : lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Khiêm nhường hạ mình xuống
là một điều kiện để được Chúa ban ơn tha thứ.
Truyện : ma qủi và sám hối.
Một hôm Satan kêu trách Chúa rằng :
- Chúa thật là bất công ! Cụ thể là có rất nhiều kẻ phạm đủ thứ tội ác, thế
mà Ngài vẫn hay tha tội cho chúng. Có nhiều kẻ sa đi ngã lại nhiều lần cùng một
thứ tội, mà khi chúng ăn năn sám hối thì Ngài vẫn tha thứ cho chúng. Còn tôi, tôi
chỉ phạm tội không vâng lời Ngài duy chỉ một lần, thế mà Ngài kết án phạt tôi
phải hoả ngục đời đời, và không bao giờ tha thứ cho tôi Bấy giờ Thiên Chúa ôn tồn nói
với tên qủi kia rằng :
- Sở dĩ Ta tha tội cho con cái loài người tội
lỗi vì chúng khiêm tốn nhận mình là kẻ có tội, và hồi tâm sám hối, quyết tâm
canh tân đời sống. Còn ngươi, từ ngày ngươi phạm tội kiêu ngạo bất tuân lời Ta
và bị phạt trong hoả ngục đến nay, đã có bao giờ ngươi khiêm nhường nhận lỗi và
hồi tâm sám hối để xin Ta tha thứ cho ngươi hay chưa ?
b) Hãy tin vào Tin Mừng.
Phải thi hành hai điều kiện thì mới được
vào Nước Trời : Sám hối và tin vào Tin Mừng Nhưng Tin Mừng nào ?
Ở đây Marcô dùng một từ ngữ chuyên môn.
Thoạt đầu chữ “Tin Mừng” gợi lên những buổi trọng đại trong đời sống xã hội. Sứ
giả của nhà vua được sai đi thông cáo cho toàn dân thiên hạ biết những sự vui mừng
có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc của họ. Nào là việc mới có một hoàng đế lên
ngôi, ngài vừa có một thái tử, ngài lập đông cung thái tử lên chức kế vị ngai vàng,
chẳng hạn... Đó là những Tin mừng vì mật
thiết liên hệ đến đời sống ấm no của chư dân. Nhưng phần lớn, đó chỉ là những tin
mừng chủ quan và hạn chế.
Tin Mừng đích thực cho mọi thời và mọi
nơi đúng như lời các thiên sứ đã loan báo cho mục đồng là Chúa Cứu thế đã giáng
sinh. Thành ra khi sách Tân ước dùng chữ Tin Mừng và giục chúng ta tin vào Tin
Mừng, thì chúng ta phải hiểu đây chính là
sứ điệp cứu độ : Thiên Chúa đã thi hành
kế hoạch cứu thế của Ngài khi sai Con của Ngài đến chịu chết và sống lại cho loài
người chúng ta. Đó là Tin Mừng của Thiên Chúa công bố trong thời đại cuối cùng.
Và nội dung Tin Mừng ấy toàn nói về Đức Giêsu Kitô ; và cũng là chính Đức Giêsu
Kitô. Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa là công bố kế hoạch cứu thế của Ngài
trong Đức Giêsu Kitô, là công bố đới sống và sự nghiệp của Đức Giêsu Kitô, là công
bố chính Đức Giêsu Kitô. Nên Tin Mừng và
Đức Giêsu Kitô cũng là một.
Vậy, đã có Đức Giêsu Kitô là sứ giả đặc
biệt của Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng ; Ngài đã đến đất Galilêa dân ngoại để
làm chứng Tin Mừng phải được mang đến cho các dân tộc. Hơn nữa Người đã rao giảng
Tin Mừng khi thực hiện việc chịu chết và sống lại để cứu thế ; thì không những
từ nay người ta phải hối cải và tin vào Tin Mừng, và hơn nữa phải có nhiều người
đi rao giảng Tin mừng ấy.
(GM
Nguyễn sơn Lâm, Lời Chúa các Chúa nhật năm B, tr 244-245)
II. ĐỨC GIÊSU CHỌN 4
TÔNG ĐỒ ĐẦU TIÊN.
Đức Giêsu bắt đầu chức vụ công khai bằng
rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.
Tin Mừng này rõ ràng ngày càng liên hệ đến bản thân và chức vụ của Ngài.
Thời gian tại thế ngắn ngủi mà ý định mà mọi người khắp thế giới phải được nghe Tin Mừng cứu độ.
Vậy việc gọi và chọn môn đệ để huấn luyện và sai đi là cần
thiết.
Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên vào thời
gian trước ngày rao giảng và làm phép lạ tại Capharnaum. Các ông này là những
người bình thường chuyên nghề đánh cá, tính tình thì mộc mạc dễ thương, không có
cao vọng gì.
1. Chúa gọi Phêrô và Anrê.
Từ Giuđêa trở về, các ông lại tiếp tục
công việc thường nhật của các ông là đánh cá. Chính trong lúc đang hành nghề mà
Chúa đã kêu gọi các ông. Các ông sinh sống bằng nghề đánh cá ở Biển hồ. Biển này
dài 21 cây số và rộng 12 cây số, mang nhiều tên khác nhau : Biển hồ, hồ Gênêsareth
hoặc biển hồ Tiberiade. Gọi là Tiberiade vì vua Antipas muốn lấy lòng vua Tibère
nên khi xây một thành phố ở Biển hồ đã lấy tên Tibère mà đặt. Tại đây, khi nghe tiếng Chúa gọi, các ông đã
bỏ tất cảø mà đi theo Chúa.
2. Chúa gọi Giacôbê và Gioan.
Hai ông này là anh em con ông Giêbêđê vàøbà
Salomê, làm nghề chài lưới và thường hợp tác với Simon và Anrê (Lc 15,10) và sống
không cách xa nhau. Sau khi Chúa gọi, hai ông cũng mau mắn bỏ mọi sự mà theo Chúa.
3. Cách thức Chúa gọi.
Chúa gọi các ông một cách gọn gàng và đơn
sơ :”Hãy
theo Ta”. Vừa nghe, chúng ta thấy 4 ông này tưởng chừng bị thôi miên, vừa
nghe một tiếng nói đã đứng lên theo ngay, không suy nghĩ, không tính toán.
Thật ra, bốn ông này không xa lạ gì với
Chúa Giêsu. Ít ra, hai người đã biết Chúa Giêsu lúc ông Gioan Tẩy giả giới thiệu
cho Anrê và Gioan khi Chúa Giêsu đi ngang qua “Đây là Con chiên Thiên Chúa, Đấng
gánh tội trần gian”. Hai ông nghe xong liền đi theo Chúa Giêsu, đàm đạo với
Ngài từ 4 giờ chiều tới tối. Sau đó, ông Anrê lại giới thiệu Simon cho Chúa Giêsu
và Chúa đã nói với Simon :”Ngươi sẽ được
gọi là Kê-pha” nghĩa là đá.
Ta có cảm giác như Đức Giêsu có cái
nhìn hết sức lôi cuốn. Ngài không nói :”Ta có một hệ thống thần học muốn đầu tư
vào các ngươi, Ta có một số triết thuyết muốn các ngươi suy nghĩ , Ta muốn được
thảo luận với các ngươi”. Nhưng Ngài chỉ phán :”Hãy theo Ta”. Tất cả đều bắt đầu
bằng một xúc động từ thâm tâm, làm nảy
sinh lòng trung thành không gì lay chuyển nổi.
Nói thế không có nghĩa là một khi đã theo Chúa Giêsu chẳng có ai suy nghĩ
gì cả, nhưng phần đông chúng ta, theo Chúa Cứu thế như là “phải lòng”, là bắt đầu yêu
vậy. Nói theo số đông, sở dĩ chúng ta
theo Chúa Giêsu chẳng phải do điều Ngài đã phán, nhưng do tất cả những gì vốn tự
có nơi Ngài.
Truyện : Montalembert và cô con gái.
Văn hào Montalembert có một
cô con gái dâng mình làm nữ tu. Ông viết :”Người
tình ấy là ai, chết treo trên cây thập giá mà có thể lôi kéo như vậy ? Người
tình ấy là ai mà có một sức hấp dẫn không cưỡng lại được, như một con chim mồi
sà xuống và cuốn đi ? Phải chăng đó là một người ? Không. Đó là Thiên Chúa. Đó
là bí ẩn, đó là chìa khóa đưa vào cõi thâm sâu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thành
công và đòi hỏi một cuộc hy sinh như thế”.
Ngài không gọi để họ gặp mọi
sự dễ dãi, thoải mái, Ngài gọi họ để phục vụ. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà họ
phải dành cả đời sống, phải hăng say gấp rút để cuối cùng, phải chết cho Ngài và
cho đồng loại. Ngài gọi họ vào một nhiệm vụ mà chẳng những họ không được gì cho
riêng mình, nhưng còn phải hiến dâng tất cả cho Ngài và cho tha nhân.
4. Thái độ của các ông.
Khi Đức Giêsu kêu gọi các ông
theo Ngài, các ông đã có thái độ nào ? Ta hãy nghe thánh Marcô kể lại :”Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền
cùng với các người làm và đi theo Ngài”.
Tác giả hình như muốn cho chúng ta thấy hai ông đã phải hy sinh lớn lao : hai ông
không những bỏ chài lưới, nhưng bỏ cả cha già tức là bỏ cả gia đình để theo Chúa.
Chúa đã lôi cuốn được người ta bỏ mọi sự
mà theo Ngài. Mà Chúa cũng muốn cho người ta thấy rằng muốn theo Chúa thì phải
bằng lòng bỏ tất cả.
Thực vậy, các tông đồ đầu tiên
thoát ly mọi sự trước kia đã ràng buộc các ông là để gắn bó với Chúa Giêsu. Các
ông đi theo Ngài một cách tin tưởng mà không hỏi xem Ngài sẽ dẫn các ông đi đến
đâu và tương lai sẽ ra sao. Các ông đi theo Ngài để chia sẻ vui sướng, nhưng đồng
thời cũng đồng lao cộng khổ với Ngài. Các
ông đi theo Ngài để lãnh nhận lời giáo huấn, lấy đó là mẫu mực cho đời sống
mình trước hết, để rồi sau đó tuyên xưng giáo thuyết của Ngài và truyền bá giáo
thuyết đó cho mọi người.
Truyện : Ai yêu tổ quốc hãy theo ta.
Trận chiến giữa Pháp và hai
nước liên kết Ý và Áo đầu năm 1796, kết liễu ngày 17.11.1796 như sau :
Đại tướng Bonaparte đưa quân
đến một địa điểm, có cái cầu bắc qua trận tuyến địch. Trong lúc trận thế đang
nguy, Đại tướng Bonaparte hô tiến qua cầu. Không một ai qua ! Đại tướng xuống
ngựa, giựt lá cờ quân đoàn chân bước qua cầu, miệng hô :”Ai yêu tổ quốc thì
theo ta”. Ngó lại, trên cầu chỉ có một
mình mà lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của quân địch. Khi ấy có cậu bé mới 13
tuổi đánh trống thúc quân. Hai tay đập mạnh vào trống chân bước qua cầu theo Đại
tướng. Quân sĩ tràn theo qua cầu, Đại tướng Bonaparte toàn thắng và cũng chấm dứt
cuộc chiên tranh ấy.
Tám năm sau, Bonaparte là hoàng
đế Napoléon trở lại chỗ cũ, có nghi lễ đón tiếp rất linh đình. Hoàng đế Napoléon
muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 21 tuổi hiện trong quân đoàn đó.
Hỏi đến Vidal thì cậu đã đi
nghỉ phép để đưa đám tang mẹ. Hoàng đế Napoléon bãi bỏ tất cả lễ nghi quân cách,
đi thẳng đến làng Vidal, theo sau đám tang đến huyệt, đọc bài điếu văn. Rồi đi
bộ với Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đếá Napoléon đáp
:”Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên đường đau
khổ con cho ta theo con cho có bạn” (Ms
Lê văn Thái, Những tia sáng tập
2, tr 5).
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho
ta cách thức mở ngỏ lòng ra để Chúa Giêsu bước vào ; đồng thời cũng cho chúng
ta thấy rõ cái giá chúng ta phải trả nếu chúng ta muốn làm được điều này : chúng
ta phải thực hành những gì các Tông đồ đã
làm, chúng ta phải sẵn lòng chấp nhận cái giá các ngài đã phải trả, chúng ta phải
sẵn lòng thiêu hủy mọi chiếc cầu phía sau chúng ta để bước theo Chúa Giêsu bất
cứ nơi nào Ngài muốn dẫn đi.
Nếu chúng ta quyết định làm điều
các Tông đồ đã làm, nếu chúng ta quyết định liều bỏ mọi sự vì Chúa Giêsu thì Ngài
cũng sẽ làm cho chúng ta những gì Ngài đã
làm cho các vị ấy. Ngài sẽ biến chúng ta nên những thành viên chia sẻ công việc
của Ngài, và ban cho đời sống chúng ta một ý nghĩa mới vượt quá mọi niềm ước mơ
vĩ đại nhất của chúng ta.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt