CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN C

CẦU NGUYỆN CÙNG CHA TRÊN TRỜI

+++

 

A. DẪN NHẬP

 

          Chỉ xét trên bình diện con người với nhau, chúng ta thấy các chuyện như thỉnh cầu, thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng... là chuyện thông thường. Đối với Thiên Chúa. Đấng mà từ xưa dân Do thái đã có liên hệ mật thiết với Ngài – Và khi Đức Kitô giáng thế  khởi đầu “dân mới” thì những điều Ngài thực hiện giữa loài người  đã trở nên cụ thể và hiển nhiên với biết bao con người.  Có một lời kinh đã đáp lại lời thỉnh cầu của các tông đồ.

 

          Theo lời thỉnh cầu của một Tông đồ, Đức Giêsu đãõ dạy các ông một lời kinh tuyệt vời mà ta gọi là kinh Lạy Cha. Đây là một kinh nguyện khuôn mẫu của lời cầu nguyện cùng Cha trên trời. Với lời cầu nguyện này, chắc chắn những ước nguyện của chúng ta  sẽ được Cha trên trời chấp nhận :”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho”.  Lời thỉnh nguyện của ông Abraham dâng lên Thiên Chúa để xin tha thứ cho dân thành Sôđôma và Gômôra đã chứng tỏ điều đó (bài đọc 1).

 

          Đức Giêsu, trong bài Tin mừng hôm nay, còn dạy chúng ta phải có thái độ kiên trì trong khi cầu nguyện với dụ ngôn “người bạn bị quấy rầy”. Ngoài ra, Ngài cũng dạy chúng ta phải lấy tình con thảo mà cầu nguyện với Cha trên trời là Người Cha vô cùng nhân ái.  Nếu người cha trần thế chẳng tốt lành gì mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, huống chi Cha trên trời lại không đáp ứng cho con cái Ngài những điều tốt lành sao ? Hơn nữa, Ngài còn ban cho con người một điều vô cùng tốt lành nữa, đó là ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta.

 

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

 

          +  Bài dọïc 1 : St 18,20-32.

 

          Thiên Chúa cho ông Abraham biết dân thành Sôđôma và Gômôra phạm tội quá nhiều, Ngài định sai lửa trên trời thiêu rụi thành này. Ông Abraham đứng làm trung gian xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành này vì sự hiện diện của một số người công chính. Ông biết Thiên Chúa rất yêu thương : yêu thương chính ông và yêu thương con người.

 

          Vì thế ông dám “mặc cả”û với Thiên Chúa, từ con số 50 đến con số 10. Mỗi lần mặc cả của ông là mỗi lần tỏ ra  rằng Chúa chỉ muốn cứu vớt hơn là trừng phạt. Qua câu chuyện này chúng ta rút ra được hai điều quan trọng :

          a) Lòng thương xót của Chúa vì những người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi.

          b) Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho con người, nhất là qua trung gian của các thánh.

 

          +  Bài đọc 2 : Cl 2,12-14.

 

          Có những người cứ muốn cho tín hữu Côrintô tuân thủ các lề luật Đạo cũ. Thánh Phaolô nhắc lại cho họ biết rằng phép rửa tội trong Đức Kitô đã làm cho họ phục sinh, làm cho họ khỏi chết vì tội. Như vậy, qua phép Thánh Tẩy một Kitô hữu chết cho các tội lỗi trước đây, và bắt đầu sống một đời sống mới.

          Còn Đức Giêsu, bằng cái chết trên thập giá, đã trở thành vị Trung gian duy nhất đưa lại ơn tha thứ  của Thiên Chúa cho chúng ta.

 

          +  Bài Tin mừng : Lc 11,1-13.

 

          Abraham đã tin tưởng chuyển cầu cho người tội lỗi vì ông biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nhưng ông không dám đi xa hơn mức. Còn Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta tình thương vô biên của Thiên Chúa Cha, và khuyến khích chúng ta tuyệt đối tin tưởng vào Cha, với niềm tín thác của một trẻ thơ khi có những nhu cầu về tâm linh cũng như trần thế.

 

          Kinh Lạy Cha của Luca trong bài Tin mừng hôm nay khác với kinh Lạy Cha của Matthêu (6,9-13) : điều đó cho chúng ta biết khi cầu nguyện, điều quan trọng không phải là hình thức, nhưng quan trọng là nội dung : trước hết, xin cho Nước Cha trị đến, sau đến những nhu cầu của con người; và xin thì sẽ được nhận lời vì Cha trên trời không nỡ từ chối.

 

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

                                                Lạy Cha chúng con ở trên trời.

I. KINH LẠY CHA CỦA CHÚNG TA.

 

          1. Cơ hội đưa đến Kinh Lạy Cha.

 

          Các môn đệ ở gần Đức Giêsu, thấy Ngài cầu nguyện nhiều, cầu nguyện lâu giờ, nhất là trước những biến cố trọng đại.  Ngài là bậc Thầy của sự cầu nguyện. Các môn đệ đã được chứng kiến tận mắt những lần Ngài cầu nguyện, không những bằng mắt thấy mà còn bằng tai nghe. Vào thời đó, cầu nguyện, theo tiếng Do thái, có nghĩa là “kêu lên”, và như vậy các môn đệ đã nghe tiếng Đức Giêsu cầu nguyện.

 

          Cha George viết :”Các môn đệ phải nghe Đức Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho một ý tưởng cầu nguyện riêng. Đức Giêsu đã muốn người ta nghe Ngài cầu nguyện, Ngài muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Ngài”(Cahiers-Évangiles”, số 5, tr 43).

 

          Thời Đức Giêsu có nhiều nhóm tu đạo khác nhau do hình thức hay kinh kệ của họ, trong trường hợp ở đây, chúng ta có nhóm Gioan Tẩy giả. Cách cầu nguyện riêng của mỗi nhóm diễn tả mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa là mối dây hiệp nhất của nhóm.

 

          Hôm nay, một môn đệ được ảnh hưởng do việc Đức Giêsu cầu nguyện và vì thấy Gioan Tẩy Giả đã dạy các đệ tử của ông cầu nguyện, nên đã xin Ngài dạy về sự cầu nguyện :”Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”.

 

          2. Đức Giêsu dạy Kinh Lạy Cha.

 

          a) Hoàn cảnh của kinh Lạy Cha.

 

          Đức Giêsu đã dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, nhưng chúng ta không biết rõ ở nơi nào. Thánh Matthêu đặt kinh Lạy Cha trong bài giảng trên núi. Đây chắc là do sự sắp xếp lại để dạy giáo lý cho Kitô hữu. Thánh Luca nói một cách trống : Ngày kia.

 

          Thánh Luca đặt kinh Lạy Cha này sau câu chuyện xẩy ra ở Bêtania. Như vậy, ta có thể biết được rằng kinh Lạy Cha này Chúa dạy ở chung quanh Giêrusalem, không xa Bêtania, trong cuộc hành trình lên Giêrusalem lần thứ nhất.

 

          Kinh Lạy Cha được lưu truyền từ thế kỷ thứ 9 rằng Chúa dạy trên núi Cây Dầu đối diện với Giêrusalem theo như những điều kiện kể trên kia có lẽ đúng.

 

          So sánh hai kinh Lạy Cha của Matthêu và Luca, ta thấy kinh Lạy Cha của thánh Matthêu dài hơn kinh Lạy Cha của thánh Luca. Trong thánh Luca không có lời nguyện :”Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” và không có lời xin :”Xin cứu chúng con khỏi sự dữ”. Kinh Lạy Cha của thánh Luca tuy ngắn hơn, nhưng cũng đầy đủ ý nghĩa không thiếu gì. “Vâng ý Cha” gồm trong lời nguyện “Nước Cha trị đến”, và “Cứu chúng con cho khỏi sự dữ” gồm trong lời cầu :”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.

 

          b) Nội dung kinh Lạy Cha.

 

          Kinh Lạy Cha gồm hai phần với 5 lời xin :

          * Phần I : hướng về Chúa với hai lời cầu :

                   - Xin cho danh Cha cả sáng.

                   - Nước Cha trị đến.

          * Phần II : hướng về lợi ích của chúng ta với 3 lời cầu :

                   - Xin cho chúng con lương thực hằng ngày.

                   - Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.

                   - Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.

 

          Kinh Lạy Cha là kinh khuôn mẫu Chúa dạy chúng ta hãy dùng mà cầu nguyện. Theo đó, nội dụng sự cầu nguyện có ba phần : Phần thứ nhất là những lời Chúa dạy phải cầu xin mỗi khi cầu nguyện. Phần thứ hai là lời khuyên hãy kiên trì trong khi cầu nguyện. Phần thứ ba là hiệu nghiệm của lời cầu xin đích thực.

 

II. CẦU NGUYỆN VÀ KINH LẠY CHA.

 

          1. Cầu nguyện là điều cần thiết.

 

          *  Cầu nguyện nơi các tôn giáo.

 

          Mọi tôn  giáo đều có sự cầu nguyện, nhưng hình thức thì khác nhau, rất đa dạng. Mỗi tôn giáo đều có hình thức cầu nguyện đặc biệt, như Gioan Tẩy giả  hình như cũng có cho các người theo ông. Chính vì vậy, các môn đệ của Đức Giêsu cũng muốn cho mình phải có một hình thức cầu nguyện riêng của mình nên mới thưa với Ngài :”Xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”. Đức Giêsu đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các ông một công thức kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Luca ghi lại có ngắn hơn của Matthêu nhưng cũng chứa đủ những điều cần biết để cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện những gì.

 

          *  Chúa dạy chúng ta cầu nguyện.

 

          Trong sách Tin mừng, rất nhiều lần Đức Giêsu đã truyền cho chúng ta phải cầu nguyện và cầu nguyện liên, ví dụ :”Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”. Trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài cũng khuyên bảo chúng ta hãy cầu nguyện và cầu xin cùng Cha trên trời :”Hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì cửa sẽ mở ra cho”(Lc 11,10).

 

          Ngày xưa, có người đặt vấn đề với thánh Augustinô:”Nếu Thiên Chúa biết những nhu cầu của chúng ta trước cả khi chúng ta xin, thì tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện” ? Ngài đã trả lời :”Bởi vì Đức  Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện”. Có lẽ không có câu trả lời nào hay hơn câu trả lời này.

 

          * Một vấn nạn cho việc cầu nguyện.

 

          Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người thời này, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thứùc : cầu nguyện là đào nhiệm :  đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên... cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những qui luật chính xác của tự nhiên... cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người... không Chúa, không Thầy... bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm (Noel Quesson). Chúng ta nghĩ thế nào ?

 

          Ông Blaise Pascal, nhà toán học nổi tiếng vào thế kỷ 17 đã nói về vấn đề ấy :”Cầu nguyện là một trong những phương cách Chúa chọn để chia sẻ quyền năng vô biên của Ngài với chúng ta. Giống như ơn hiểu biết của Chúa đã ban quyền năng cho mỗi người chúng ta thế nào thì lời cầu nguyện cũng ban quyền năng cho mỗi người chúng ta như thế. Nói cách khác, Chúa đã sắp xếp vũ trụ theo một cách thức mà chúng ta có thể gây được ảnh hưởng trên vũ trụ  không phải chỉ bằng việc sử dụng trí thông minh của mình mà còn bằng việc sử dụng  cả sức mạnh do lời cầu nguyện của mình nữa.

 

          Không phải ai cũng có thể gây ảnh hưởng đến đời sống con người bằng quyền năng của trí thông minh mình, nhưng trái lại dù ngu dốt mấy đi nữa, ai cũng có thể ảnh hưởng đến đời sống con người bằng sức mạnh của lời cầu nguyện, sức mạnh do chính Chúa chia sẻ cho chúng ta.

          Chúa đã tạo dựng chúng ta  không phải để chúng ta làm khán giả đứng ngắm nhìn quyền năng tạo dựng của Ngài, mà trái lại Ngài cho chúng ta thông phần vào quyền năng tạo dựng ấy. Đây chính là một phần ý nghĩa của câu “Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”.

 

          2. Hiệu lực của việc cầu nguyện.

 

          Trong bài đọc thứ nhất (St 18,20-32) chúng ta nghe một câu chuyện thật hấp dẫn về sự tin tưởng của Abraham vào lòng tốt lành và nhân từ của Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không dung tha hình phạt cho hai thành Sôđôma và Gomôra  nếu có 50 người công chính trong thành sao ?  Thiên Chúa trả lời :”Tha chứ” ! Nếu chỉ có 45 thì sao ? Hay 30 ? hay 10 thì sao ? Thiên Chúa cũng vẫn đồng ý tha thứ. Thật đáng tiếc, vì 10 người vô tội thôi vẫn không thể tìm thấy, mà chỉ có 4 người là ông Lót, vợ ông, và hai người con gái. Thiên Chúa đã giữ lời hứa với Abraham vì ông tin tưởng nơi Ngài mà cứu 4 người khỏi bị tiêu diệt. Nếu chúng ta đặït tất cả sự tin tưởng ở Thiên Chúa, lòng bao dung của Ngài sẽ ban cho chúng ta rộng rãi hơn là điều chúng ta nghĩ tưởng.

 

          Xưa kia thánh Gioan Vianney đã nói :”Tôi biết có một quyền lực nào đó còn mạnh hơn cả Thiên Chúa; một người cầu nguyện làm cho Thiên Chúa phải nói “Yes”, khi Ngài đã nói “No”.

          Và thánh Gioan Chrysostômô đã nói về sức mạnh của sự cầu nguyện bằng những từ này :”Thiên Chúa điều khiển thế giới, nhưng cầu nguyện điều khiển Thiên Chúa”.

 

          3. Cầu nguyện và khoa học.

 

          Sự cầu nguyện cũng có ảnh hưởng tới khoa học. Sức mạnh của lời cầu nguyện cũng đang được khoa học hiện đại kiểm nghiệm qua những hiệu quả lạ lùng. Bác sĩ Alexis Carrel (18173-1944), người đoạt giải Nobel về y khoa năm 1912 đã viết trong cuốn sách nhan đề “Man, the Unknown” như sau :

          Cầu nguyện là hình thức mạnh mẽ nhất của nghị lực  mà chúng ta có thể phát sinh ra được. Ảnh hưởng của sự cầu nguyện trên thân thể và tâm trí giống như những tuyến hạch nằm kín đáo trong cơ thể tạo nên sức mạnh đề kháng. Chỉ trong sự cầu nguyện, chúng ta có được sự hiệp nhất thật hoàn hảo và nhịp nhàng giữa thân xác, tâm trí và tinh thần. Nó làm cho thân phận cỏ cây yếu đuối của con người trở thành một sức mạnh không thể lay chuyển được”.

 

          Vào tháng 5 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y học và Đức tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha sĩ. Những báo cáo cho thấy là những người có Đức tin và được cầu nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có Đức Tin sau khi được giải phẫu tim.  Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho thấy là  những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì  ít bệnh tật từ 25% đến 35% so với những người không có tôn giáo. Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thống miễn dịch, dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường.

                   (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 261)

 

 

III. THÁI ĐỘ KHI CẦU NGUYỆN.

 

          1. Phải kiên trì.

 

          Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta : khi cầu nguyện phải biết kiên trì, và để minh hoạ cho thái độ đó, Ngài đưa ra một dụ ngôn về “Người bạn bị quấy rầy”. Nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại nằn nì đến độ sỗ sàng, để giúp đỡ, người bạn khác ở xa mới đến.

 

          Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do : cho để khỏi bị quấy rầy nữa, hoặc là vì tình bạn... Sau khi kể dụ ngôn, Đức Giêsu lý luận theo kiểu  a fortiori (huống chi) : người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua thái độ kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành  quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.

 

          Có người thắc mắc hỏi :”Thiên Chúa đã biết tất cả mọi sự ngay trước khi chúng ta cầu xin, tại sao Đức Giêsu còn nhắc bảo chúng ta :”Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ” ? Ba động từ như ba lệnh truyền lặp đi lặp lại. Đành rằng Chúa thông biết mọi sự, cần gì phải xin, phải tìm, phải gõ ? Thánh Augustinô giải thích “Hãy xin, Ngài sẽ cho. Những điều Ngài cho, Ngài chưa cho ngay để càng làm tăng thêm ước muốn của chúng ta và làm tăng giá trị  cho của Ngài ban cho”.

 

          Tiếp theo lời giải thích của thánh Augustinô, chúng ta có thể lý luận thêm :

          Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Ngài sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái (Carôlô).

 

          Một hôm thánh Phanxicô Salêsiô nói :”Nếu một em bé thấy con chó dữ đàng xa, hung hăng nhào tới em thì em bé sẽ làm gì? Chạy trốn ư ? Không thể được vì em chưa đủ sức. Vậy em phải làm sao ? Chỉ còn một cách là  em la lên thật to cầøu cứu cha mẹ. Và cha mẹ em sẽ chạy đến để bênh vực em và cứu sống em”.

 

          Em bé đó chính là hình ảnh mỗi người chúng ta với sức riêng yếu đuối không thể tự mình bước tới được một bước trên con đường cứu rỗi. Và con chó đó chính là ba địch thù lợi hại của con người : ma quỉ, thế gian và xác thịt. Phải làm gì đây ? Phải kêu cứu, phải cầu nguyện với Chúa, nếu không, đời ta sẽ gặp nguy khốn.

 

          Phải cầu nguyện, nhưng phải cầu nguyện thế nào để đạt hiệu quả tối ưu ? Ta hãy nghe thánh Phanxicô Salêsiô trả lời tiếp :”Con ruồi đậu trên đoá hoa này liền vội vãø bay sang đoá hoa khác, luôn hay thay đổi, còn con ong mật thì lặng lẽ hoạt động, dừng lâu, hút cạn nhụy hoa rồi đem về tổ làm thành mật ngon ngọt. Không nên có thứ Kitô hữu-ruồi, mà phải là Kitô hữu-ong mật, nghĩa là phải kiên trì cầu nguyện”.

 

          2. Cầu nguyện trong tình nghĩa cha con.        

 

          Dân Do thái đã gọi Thiên Chúa là “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Osée 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16 ; Khôn ngoan 5,5vv..)

 

          Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Ngài dám thưa cùng Thiên Chúa :”Abba, Cha ơi”... từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Ngài ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định  Ngài là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu”, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Ngài yêu mến Con Một của Ngài” (Quesson).

 

          Cha Jean-Luc Vesco nói thêm :”Lời cầu nguyện Kitô giáo, giúp môn đệ Đức Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha.Trong lời cầu nguyện của người con thảo,  người Kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô:”Lạy Cha” (Ga 4,6; Rm 8,15). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diễn tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con  có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ  nối kết tất cả các Kitô hữu với Thiên Chúa”(Jérusalem et son prophète, Cerf, tr 72).

 

          Trong khi cầu nguyện, chúng ta hãy mang lấy tâm tình của Đức Giêsu đối với Cha Ngài, chúng ta hãy lấy tư cách của người con nói chuyện với cha. Cha trên trời luôn luôn là người Cha thương yêu của chúng ta, Ngài thích chúng ta nói chuyện với Ngài trong tư cách của một người con.  Ngài sẽ lấy làm vinh dự  khi chúng ta kêu Ngài bằng “Abba, Cha ơi”.

 

          Tướng Marc Arthur nói lên tâm sự của ông là một người cha :”Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc kinh nguyện đơn sơ hằng ngày : Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng.... Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

 

          Hôm nay Chúa dạy chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và trong tinh thần con thảo. Cầu nguyện ! Đó là một từ ngữ của đức tin. Một Kitô hữu mà không cầu nguyện thì còn nghĩa gì nữa .Thế nhưng, phải nhận là điều đó không dễ dàng, cầu nguyện cũng là một thử thách.

 

          Ngày nay có người cho việc cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay, hẵy xắn tay áo lên. Cầu nguyện là một ma thuật của những người sơ khai không biết những qui luật chính xác của tự nhiên... Cầu nguyện là một sự tha hoá; hãy đảm nhận tầm vóc của con người... không Chúa, không Thầy... hãy gạt bỏ những điều mê tín.

 

          Trái ngược với khẳng định của một số người, bác sĩ Alexis Carrel, trong cuốn sách nhan đề“Man, The Unknown” đã không tiếc lới ca tụng giá trị và sự cần thiết của việc cầu nguyện. Ông nói :”Cầu nguyện là một hành vi sáng suốt của con người”. Theo bác sĩ, cầu nguyện đúng nghĩa là thực thi cái chức năng “con người thụ tạo” con người của ta với Đấng Sáng Tạo Tối cao, tức là Thiên Chúa.

 

Truyện : Một đứa bé cầu nguyện.

 

          Một đứa bé nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe đến ngủ, em bé đã xin quỳ gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời “Xin Chúa cho con chóng lành bệnh”. Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu.  Hôm sau thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là “Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không” ?  Bác sĩ nhìn em bé cảm động nói :”Cháu hãy để cho Chúa liệu... Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm : cháu đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội, rước lễ” (Mỗi ngày một tin vui”.

                                                                  

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Đà lạt

 

         

 

         

 

         


Về trang Mục Lục