G  H  E  N

________________________________________

Thứ  sáu yêu người chớ ghen ghét

Bài chia sẻ cho giới trẻ  Mùa chay 2005

Giáo hạt Đức trọng

 

          Chúng ta đã bước vào Mùa chay thánh. Theo thánh Phaolôâ thì đây là thời gian thuận tiện và là ngày cứu độ,  giúp chúng ta dọn lòng kỷ niệm việc Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho nhân loại và nhất là đón nhận hồng ân đổi mới trong lễ Phục sinh sắp tới.

 

          Nhưng câu hỏi được đặt ra với các bạn trẻ là tại sao Đức Giêsu lại xuống thế chịu chết chuộc tội cho thiên hạ ?  Thưa,  lý do vì loài người đã phạm tội bất trung.  Tại sao tổ tông loài người đã phạm tội ? Vì bị ma qủi cám dỗ. Vì sao ma qủi lại cám dỗ tổ tông ?  Vì ma qủi GHEN với tổ tông ,  nó đã không được ăn thì đạp đổ.  Ma qủi nhận thấy các ngài được làm con Chúa, được thừa hưởng mọi hồng ân hồn xác và được thừa hưởng Nước Trời.  Ma qủi phải phát ghen với cảnh sống hạnh phúc của ông bà nên ra công cám dỗ để ông bà phải chịu đồng số phận với chúng.  Như vậy sự ghen tương đã đến trong thế gian, len lỏi vào mọi nơi để làm hại con người (x. St.ch 3}

 

I. GHEN TRONG THÁNH KINH.

 

          1. Trong Cựu ước :

 Chúng ta thấy Cựu ước còn ghi lại nhiều cảnh ghen tương ngay từ thuở ban đầu, vì ghen tương người ta đã chém giết, đã làm khổ nhau như một số người điển hình :

                   * Cain giết Aben (St 4,8).

                   * Esau và Giacóp (St 27, 41)

                   * Anh em của Giacóp và Giuse (St 37,4.8)

                   * Apsalon và Đavít (2Sm 13,22)

 

          Chúng ta sẽ đưa ra đây vài trường hợp trong Cựu ước :

 

          a) Cain giết Aben (St.4).

          Chúa cho Adam và Evà chung sống với nhau để sinh sản loài người. Bà E-và sinh được hai con trai, là Ca-in và A-ben.

          Lớn lên, Ca-in làm nghề ruộng rẫy, còn A-ben chuyên nuôi chiên cừu. Và để tỏ lòng tôn phục Chúa, hai ông đem sản phẩm mình làm ra để tế lễ Chúa. Ca-in chọn những trái cây đèo đẹt, những thứ gạo lúa xấu lép đem dâng lên Chúa; trái lại A-ben dâng lên Chúa những con cừu đầu lứa béo tốt. Chúa nhận của lễ của A-ben, mà không nhìn đến lễ vật của Ca-in. Ca-in tức giận, sầm mặt xuống...

          Thấy vậy, Chúa hỏi ông :

          - Sao ngươi tức giận ? Nếu ngươi làm điều tốt việc phải, sao chẳng ngửa mặt lên ?... Ngươi chọn của thối của hôi dâng lên cho Ta. Như vậy ngươi có làm điều tốt việc phải không ?

          Ca-in đã chẳng biết nhận lỗi, đã chẳng nghe lời Chúa dạy mà sửa mình, lại còn thêm tức giận ghen ghét A-ben, âm mưu giết hại em.

          Hắn tìm dịp rủ em ra đồng vắng, và xông vào giết A-ben.

          Chúa liền gọi hắn đến và hỏi :

          - A-ben, em ngươi ở đâu ?

          Hắn giả vờ chẳng biết và thưa :

          - Tôi không biết. Tôi có phải là kẻ giữ em tôi đâu ?...

          Ca-in đã phạm tội giết em, lại còn cả lòng dối trá với Chúa. Chúa kết án phạt :

          - Chính ngươi đã giết A-ben, em ngươi. Ngươi còn chối và dối gạt Ta.Máu của em ngươi đã kêu thấu đến Ta ! Từ nay ngươi phải lang thang lưu lạc trên mặt đất.  Ngươi cực khổ cầy cấy, nhưng đất sẽ chẳng sinh hoa màu cho ngươi. Ngươi phải đói khổ khốn nạn, vì tội giết người.

 

          b) Anh em của Gia-cóp bán em Giuse (St 37-43)

          Dưới đây chúng ta sẽ biết số phận của Giuse và số phận của các anh bán em ra sao :

          Ông Gia-cóp ở xứ Ca-na-an có 12 đứa con. Đứa út tên là Giuse, Ông thương cậu này hơn hết. Ông may áo đẹp cho cậu mặc, nên các anh em kia ghen ghét.

          Lại thêm vụ Giuse chiêm bao và kể lại cho các anh nghe, làm cớ cho họ ghen ghét thêm nữa. Cậu kể :

          - Em thấy chúng ta đang bó lúa ngoài đồng. Bó lúa của em đứng thẳng, còn bó lúa của các anh  sụp lạy xung quanh bó lúa của em.

          Các anh cậu nói :

          - Như thế là mày bảo chúng tao phải ở dưới quyền mày chứ gì. Đồ xấc láo...

          Giuse còn kể chiêm bao khác nữa :

- Em lại thấy mặt trời, mặt trăng và 11 ngôi sao sụp lạy em.

Cha cậu hiểu ý nên mắng :

- Lẽ nào tao và mẹ  mày, cùng các anh mày phải sụp xuống đất mà lạy mày sao ?...

          Thế là các anh cậu thêm ganh tức, còn cha cậu thì ghi nhớ sự việc lạ lùng đó trong lòng.

          Và lúc các anh Giuse đi chăn chiên ở Si-kem. Ông Giacóp bảo cậu đi thăm. Vừa thấy cậu ở đàng xa, các anh cậu bàn tính cách trả thù : người thì bảo giết nó cho chết, kẻ bảo bỏ xuống giếng. Bỗng họ thấy có mấy lái buôn người Ít-ma-en đi ngang. Họ liền bán Giuse cho chúng đem về Ai cập. Họ lấy áo em, nhuộm máu chiên, gửi về cho cha, bảo là cậu đã bị thú dữ ăn thịt rồi...

          Giuse bị bán làm nô lệ khổ sở bên Ai cập. Nhưng cậu luôn được Chúa thương gìn giữ che chở. Lần lần cậu được làm lớn trong triều đình, nhờ Chúa cho cậu giải thích được chiêm bao của nhà vua.

          Giữa lúc đó nạn đói lan tràn. Các anh cậu phải sang Ai cập mua lương thực, do Giuse coi bán cho mọi người. Vừa gặp Giuse, họ sấp mình sát đất lạy ông. Giuse nhận ngay ra anh em mình, nhưng ông giả vờ hỏi :

          - Các ngươi từ đâu đến ?

          Họ sợ hãi thưa :

          - Dạ, chúng con ở xứ Ca-na-an đến xin mua lương thực.

          Giuse làm ra vẻ nghiêm nghị , bảo :

          - Các ngươi là gián điệp, đến đây để dò thám. Chứ đi mua lương thực gì. Ta sẽ cho tống ngục các ngươi.

          Họ khiếp vía, run rẩy thưa :

          - Tất cả chúng con là con một người cha, tên là Gia-cóp, ở xứ Ca-na-an, là người lương thiện. Chúng con  không phải là gián điệp.

          Ông Giuse thấy họ sợ hãi run rẩy quá thì cảm động, bán lương thực cho họ. Lần lần ông tỏ cho họ biết ông là Giuse, là kẻ họ đã ganh ghét và bán cho người Ít-ma-en.  (St 37-38).

 

          2. Trong Tân ước.

 

          Có những người thù ghét Chúa Giêsu, tìm cách làm hại Ngài :

                   * Những thầy thượng tế : Mt 27,1.20 : Lc 22,2.

                   * Người Giuđa : Mt 27,22.25.

                   * Những kinh sư và Biệt phái : Mt 12.14 ; Mc 3,6 ; 11,18 ; Lc 11,53-54.

 

          a) Mười môn đệ và anh em Giacobê.

Các môn đệ đ theo Chúa Giêsu, mỗi ông đều nuôi một tham vọng riêng. Mỗi ông sẽ được một địa vị cao hay ít ra một chức vụ nào đóù trong nước mà Đức Giêsu sắp thiết lập. Việc cãi cọ giữa các môn đệ và anh em Giccôbê và Gioan  xin một chức vị lớn trong nước của Ngài đã minh chứng điều đó . Phúc âm kể :

 

“Bấy giờ bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Giêsu, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. Người hỏi bà :”Bà muốn gì”?  Bà thưa :”Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong Nước Thầy”.  Đức Giêsu bảo :”Các ngươi không biết các ngươi xin gì ! Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắo uống không”? Họ đáp :”Thưa uống nổi”.  Đức Giêsu bảo :”Chén của Thầy, các người sẽ uống ; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho ; Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được”.

          Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó. Nhưng Đức Giêsu gọi các ông lại và nói :”Anh em biết : thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy : Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,20-28).

 

          Thời gian đầu , các môn đệ đều có tham vọng và tính ghen tương một các rất tự nhiên, rất bình thường, phù hợp với lối suy luận của mọi người ; nhưng Đức Giêsu đã giáo dục và huấn luyện các ông để các ông bỏ những tham vọng trần tục ấy để thay vào đó là lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.

 

          b) Anh cả và đứa em hoang đàng (x. Lc 15,11-32).

          Dụ ngôn người con hoang đàng trở về được người cha đón tiếp rất thân tình. Không những người cha đã tha thứ mà còn làm tiệc ăn mừng vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.  Nhưng người con cả thì không chấp nhận lối cư xử của người cha :

“Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến  nhà nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.  Người ấy trả lời :”Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”.  Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ.  Cậu trả lời cha:”Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng”!

          Nhưng người cha nói với anh ta :”Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy” (Lc 15, 25-32).

 

II. GHEN TRONG VĂN CHƯƠNG.

 

          1. Trong kho tàng văn học.

          Theo Tự điển Thanh Nghị thì ghen là nổi giận, uất ức vì thấy người ta hơn mình, chiếm  vật sở hữu của mình.

          Đúùng thế, đây là một trong các mối tội đầu – mà chúng ta đọc trong các lễ ngày Chúa nhật- thứ sáu “yêu người chớ ghen ghét” khiến người ta buồn sầu, giận dữ hay có thái độ khinh bỉ khi thấy kẻ khác hơn mình. Ghen tương là thái độ buồn phiền, cau có khi thấy kẻ khác làm điều lành. Kinh Thánh lên án nặng với tội này vì nó luôn nghịch với Đức ái (x. Gl 5,21).

 

          Trong văn chương người ta dùng chữ ghen này một cách rất rộng rãi, áp dụng cho cả trời đất cùng hoa lá cỏ cây :

                                      Lạ gì bỉ sắc thư phong,

                             Trời xanh quen thói má hồng đáng ghen.

                                                 (Nguyễn Du)

          Để diễn tả sắc đẹp của nàng Thúy Kiều, một trang quốc sắc thiên hương, đẹp đến nỗi không tả bằng lời, thi sĩ Nguyễn Du đã phải dùng lối so sánh bằng cách nhân cách hoá cảnh vật để mô tả sắc đẹp của nàng :

                                      Làn thu thủy nét xuân sơn,

                             Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

 

          2. Trong kho tàng ca dao tục ngữ.

 

          Chúng ta có thể tìm được nhiều câu ca dao diễn tả sự ghen tương của con người trong tương quan cá nhân cũng như xã hội, nhất là trong lãnh vực tình yêu và gia đình :

 

                                      Rõ ràng giấy trắng mực đen,

                                    Duyên ai phận nấy chớ ghen mà già.

                                                (Ca dao)

 

          Ghen là một tính xấu thâm căn cố đế trong lòng người ta rồi, mặc dầu người ta không để ý tới, có khi không biết, nhưng vẫn hành động theo tính ghen.  Mọi người đều chấp nhận tính ghen tương đó, coi như là lẽ đương nhiên.  Trong ca dao có nhìều câu nói về vấn đề này. Ví dụ :

 

                                      Ớt nào là ớt chẳng cay,

                                Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.

                                      Vôi nào là vôi chẳng nồng,

                                Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.

 

          Cổ ngạn cũng có câu :”Ghen là căn bệnh thiên nhiên, nhất là đàn bà”. Thi sĩ Nguyễn Du cũng chấp nhận thực tế đó khi đặt vào miệng Hoạn Thư lời chống chế trước việc làm ghen tương của mình :

                                      Rằng :”Tôi chút phận đàn bà,

                                Ghen tương, cũng thể người ta thường tình.

 

          Phải chăng ghen tương ở trong lòng cũng xuất đầu lộ diện trên gương mặt, không thể giấu được vì “Hữu ư trung xuất hình ư ngoại”, nên người ta nói :

 

                                      Tôi đã biết vợ anh rồi,

                             Quăn quăn tóc trán là người hay ghen.

 

          Ghen tương là đặc tính của người đàn  bà. Họ không thể chấp nhận được tình yêu chia sẻ.  Họ sẽ có những hành động quyết liệt khi ở trong những hoàn cảnh đó :

 

                                      Cái cò trắng bệch như vôi,

                                         Có ai lấy lẽ chú tôi thì về.

                                      Chú tôi chẳng đánh chẳng chê,

                                         Thím tôi móc ruột, lôi mề, ăn gan.

                          hoặc :

                                      Ta rằng ta chẳng có ghen,

                                         Chồng ta ta giữ, ta nghiến, ta nghiền ta chơi.

 

          Đàn ông cũng không thoát khỏi được tính ghen tương. Khi họ đã ghen thì cái ghen ấy rất thâm trầm, độc ác cho đối tượng phải lao đao khổ sở :

 

                                      Cô kia mà hát đa đoan,

                                      Anh cầm con dao lá trúc,

                                      Anh rạch lá gan cô mày.

                                      Ruột non anh quấn trên cây,

                                         Ruột già anh quấn làm dây kéo thuyền.

 

III. GHEN TRONG ĐỜI THƯỜNG.

 

          Ghen là hiện tượng tâm lý rất bình thường, nó có mặt mọi nơi mọi lúc, mặc đủ mọi hình thức. Nó có mặt nơi người già, nơi người trẻ. Nó chi phối đời sống con người mà không mấy ai để ý tới. Thói ghen tương phát triển mạnh là nhờ ở chỗ người ta không biết là mình ghen.  Ghen mà không biết là mình ghen, cái đó mới nguy. Tính ghen tương thúc đẩy ta vui khi kẻ khác bị chuyện buồn, và khiến ta buồn khi người khác gặp điều vui.

 

          Người ta thường nói phải ghen mới yêu, không ghen là không yêu.  Có người cho ghen  là mới yêu thương nhưng nếu ghen quá thì sẽ mất tình yêu, nghĩa là chỉ ghen có mức độ. Tôi thấy có một người đàn ông bị nghi là người vợ ngoại tình, đêm ngày ông ta lo lắng canh giữ, thậm chí bạn đêm ở cùng giường với vợ mà phải sẵn một con dao để đề phòng.

 

Thánh Chrysostome cho chúng ta biết ý kiến của ngài về tính ghen tương :”Người ta nói :có yêu mới ghen, không yêu thì có ghen làm gì. Nhưng chưa chắc ghen là dấu hiệu của tình yêu”.

 Ngài còn cho chúng ta biết hai loại ghen : ghen thâm trầm mới là cái ghen đáng sợ ; ghen ồ ạt chỉ là cái ghen nhất thời.

 

* Ghen ồ ạt xẩy ra là khi người ta không kềm chế được lòng mình, cơn ghen đã đi đến chỗ nổ tung, bất chấp hậu quả, người ghen hành động theo cơn nóng giận, và được coi như một cơn điên nhỏ.

                             Truyện : chiếc máy hát.

Một buổi chiều mùa hạ oi ả, gia đình nọ hai vợ chồng đã luống tuổi cùng với đàn con đem máy hát ra ngoài hiên vặn chơi. Khi nghe bài Tỳ bà cô Bốn Khâm thiên hát, ông cụ gật gù khen : hay, hay...một lát lại : Hay... Bà cụ đứng phắt dậy, bằng cả hai tay hắt cái máy hát xuống sân :”Này hay, này... “ Điều đáng suy nghĩ là ông cụ không hề bước chân “xuống xóm” bao giờ, không biết chị em cô Bốn, cô Năm già trẻ thế nào.

 

          Lại một chuyện ghen khác : Một ông thầu khoán mua được chiếc xe hơi mới, đưa người tình đi chơi lén, bà vợ điều ta biết rõ, liền cùng với tài xế đem xe ra khỏi thành phố, đến một quãng đường vắng, đổ xăng thiêu rụi chiếc xe, rồi về, mặc dầu nó là gần nửa gia tài của ông bà.                          

                   (Nhất Thánh, Đất lề quê thói, 1970, tr 80-81)

 

* Ghen thâm trầm là cái ghen có tính toán, có mưu lược nhằm hạ đối thủ bằng những thủ đoạn rất tinh vi, đưa đối thủ đến chỗ tại hại không thể lường được.

 

                             Truyện : Ghen ngầm

Vua Ngụy đem một người con gái đẹp dâng vua Kinh. Vua Kinh lấy làm thích và yêu lắm.

          Phu nhân là Trịnh Tụ biết thế, chính mình cũng yêu mến người con gái, có khi lại yêu mến hơn vua. Người con gái ấy muốn ăn mặc, chơi bời gì, phu nhân cũng đều sắm sửa cho đủ cả.

          Vua khen : Phu nhân biết ta yêu mến tân nhân, mà đem lòng yêu mến tân nhân quá, ta thật có khác nào như người con có hiếu thờ cha mẹ, người bầy tôi trung thờ vua vậy.

          Phu nhân đã chắc bụng vua không ngờ mình là người ghen, nhân dịp mới bảo tân nhân rằng

          - Vua yêu mến nhà người lắm, nhưng ghét cái mũi ngươi. Giá tự nay, hễ ngươi trông thấy vua, ngươi cứ che lấy cái mũi đi, thì vua yêu mến được mãi đấy.

          Tân nhân theo lời, từ đó mỗi lần trông thấy vua, là che ngay mũi lại.

          Vua thấy thế, bảo với phu nhân rằng :

          - Tân nhân trông thấy ta mà cứ che mũi là ý làm sao ?

          Phu nhân trước thưa :

          - Tôi không được rõ.

          Đợi vua cưỡng hỏi nữa, mới thưa rằng :

          - Tôi nghe đâu như tân nhân có nói hơi vua khí nặng, lấy làm khó chịu.

          Vua phát giận bảo :

          - À nếu thế thì xẻo mũi nó đi.

          Vua vừa nói đoạn, thì một viên quan hầu cầm dao ra xẻo ngay mũi tân nhân.Vì phu nhân đã dặn một viên quan hầu đứng chực sẵn đấy trước, hễ thấy vua phán gì, là làm ngay lập tức.

                             (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, quyển 2, tr 100-101)

 

III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA.

 

          1. Theo Kinh Thánh.

          Thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Philipphê đã khuyên họ phải ở khiêm nhường tôn trọng nhau, tránh hiềm thù ganh tị nhau. Ngài khuyên :”Đừng làm vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác hơn mình” (Pl 2,3).

 

          Thánh Phêrô cũng khuyên chúng ta phải tránh sụ ghen tương :”Anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian  ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng mọi lời nói xấu gièm pha” (1Pr 2,1).

 

          Thánh Giacôbê xác nhận :”Ở đâu có ghen tương, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa”(Gc 3,16).

 

          Ngày Chúa nhật, chúng ta thường đọc kinh Bảy mối tội đầu, chắc chúng ta còn nhớ :”Thứ sáu yêu người chớ ghen ghét” , Như vậy ghen ghét là một trong những nết xấu làm đầu, cần phải sửa trị.

 

          2. Theo người đời.

          Người đời cũng công nhận có sự ghen tương và coi ghen tương là một thói xấu, nó làm cho con người đau khổ vì thua kém người ta hay ít ra sợ người khác hơn mình.

 

          Victor Hugo nói :”Ganh ghét là tự thú nhận sự thua kém của mình”.

 

          Còn Pierre Charron nói:”Sự khác biệt giữa ghen ghét và ước muốn là : vì ước muốn, ta ham thích điều sung sướng của người khác, còn về sự ghen ghét, ta sợ người khác tham dự vào hạnh phúc của mình”

 

          M. Cervantes nói rõ :”Người ghen bao giờ cũng nhìn sự vật qua ống kính phóng đại : nó làm nhỏ thành to, người làm ông khổng lồ, nỗi ngờ thành sự thật”.

 

          Từ ngữ GHEN ít khi đi một mình và thường có một từ khác đi kèm theo là GHÉT : đã ghen thì thường là ghét. Cho nên người ta hay dùng chữ GHEN GHÉT : vừa ghen lại vừa ghét :

 

                                      Trâu buộc thì ghét trâu ăn,

                                    Quan võ thì ghét quan văn dài quần.

 

          Chúng ta hay mắc vào cái tội ghen tương do tự ái, không muốn cho ai hơn mình. Ai hơn mình thì khó chịu và tìm cách hạ người ta xuống bằng những lời nhẹ nhàng nhưng với ác ý là ngầm hạ người ta xuống. Sách Châm ngôn nói:”Kẻ ghét ghen, môi miệng khéo vờ vĩnh, nhưng thâm tâm vẫn đặt chuyện lừa lọc” (Cn 26,24).

 

                                      Truyện : phê bình vì ghen

          Một hôm, người ta khen tụng một cô gái có đôi má lún đồng tiền. Má lún đồng tiền tức là một trong mười cái thương của người Việt nam :

                                      Một thương tóc bỏ đuôi gà,

                                      Hai thường ăn nói mặn mà có duyên.

                                      Ba thương má lún đồng tiền...

          Không ngờ trong đám đông có người khó chịu . Cô ta chìa môi anh đào dài... dài... và với một liếc mắt sắc như dao bửa cau, phụng phịu nói:

          - Có gì đâu. Mấy đường gân của mặt chị ấy bị tật, sụp xuống đấy mà !

          Thì ra cô coi lời khen trên kia như lời chỉ trích nhan sắc mình vậy..

 

          SCHOPENHAUER nói :”Những kẻ tiểu nhân lấy làm thỏa thích khi được dịp thổi lông tìm vết nơi người xuất chúng”.

 

          Một hôm, vua Léopold II đi xem triển lãm hội họa. Đứng trước bức tranh thần tình của Henri de Croux, nhà vua lắc đầu nói :

          - Hình Chúa chịu nạn không đẹp.

          Hoạ sĩ đáp lại :

          - Thưa đưc vua, đúng hơn là chúng ta đây không tốt.

         

          Cho nên phê bình kẻ khác, tức là để lộ chân tướng của mình ra trên mái nhà.

          Chúa đã nói trước :”Miệng lưỡi nói ra bởi cái chứa trong bụng”.

          Buộc tội kẻ khác, tức là buộc tội chính mình. Lời tôi lên án, sẽ lên án tôi.

                             (Vũ minh Nghiễm, Vươn, 1966, tr 247-248)

 

          Thi sĩ Nguyễn Du khuyên chúng ta đừng rước tiếng ghen vào mình :

 

                                      Dại gì chẳng giữ lấy nền,

                                Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình.

 

          Trở lại câu chuyện ái tình và ghen tương. Thánh Chrysostome nói có lý : chưa chắc ghen mà đã yêu.   Ghen tương là một cảm xúc mà người thường lầm với ái tình. Nó phát sinh lòng tin rằng mình đủ tư cách  để người khác yêu mình và cũng do lòng muốn rằng người khác phải lệ thuộc mình. Muốn diệt lòng ghen thì phải tập cho mà không đòi hỏi.

 

          Dưới đây là một truyện thực của một bà đã nén được lòng ghen và học được cách yêu. Bà đó nói :

          ‘Mười năm trước, tôi bị tính ghen dầy vò. Tôi luôn luôn sợ mất chồng. Mà thái độ của nhà tôi không có gì cho tôi ghen cả. Nếu có thì tôi đã đỡ khổ vì tôi khỏi phải nghi ngờ. Tôi bị ám ảnh như con mụ điên, lục túi nhà tôi rồi, ngó cả vào chỗ gàn tàn thuốc trong xe hơi, xem nhà tôi có giấu gì trong đó không. Đêm thì tôi khóc mà ngày thì tôi tưởng tượng ra  những cớ để nghi ngờ.

 

          “Một hôm tôi soi gương, thấy hình thù tôi mà ghê. Tóc bù, mặt không phấn sáp, mắt long lên mà quần áo tôi thì y như cái bao bố trùm lên một cây chổi. Tôi tự nhủ :”Mình sợ mất chồng. Mà hình thù mình như vậy thì chồng nào mà thương cho được, giá có mất chồng, cũng là đáng”. Từ hôm đó, tôi trang điểm, và nhà tôi nhận thấy rằng từ thái độ đến nhan sắc của tôi đều thay đổi, ân cần với tôi hơn, và tôi hết ghen”.

                   (Dorothy Carnegie, Ng hiến Lê dịch, Luyện tinh thần, 1967, tr 132-133).

 

          Muốn diệt lòng ghen tương cần phải biết khiem  nhường, tôn trọng kẻ khác. Chính cái tự ái đã làm cho ta ghen tương và chính sự ghen tương này dầy vò tâm trí chúøng ta làm ta phải lao đao khổ sở.

          Vì thế, ông Rivarol nói :”Sự khiêm nhường luôn có quan hệ với khoan hồng và sự kiêu ngạo dính dáng với ganh tị”.

Tốt nhất ta hãy nói :

                                      Ai nhất thì tôi thứ nhì,

                                         Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba.

                                                (Ca dao)

 

          Hãy cố gắng ở khiêm nhường bằng cách quên mình đi, chú ý tới kẻ khác, chia vui sẻ buồn với họ như thánh Phaolô dạy :” Vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc” thì chúng ta sẽ thấy mình được an vui và sẽ hết ghen tương :

 

Con người có nhu cầu nói về mình, kể lể về mình, làm người ta thương cảm mình, nânh đỡ mình.  Hãy lắng nghe người khác, lắng nghe nữa không mỏi mệt, nghe say mê. Có những người chết dần mòn vì không bao giờ gặp được người biết kính trọng và yêu thương họ để chăm chú lắng nghe họ”.

                      ( V. Ghika)

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Đà lạt

                  


Mục Lục