VÂNG PHỤC THÁNH Ý CHÚA

Nhân lễ suy tôn Thánh giá

 

 

I. Ý NGHĨA SỰ VÂNG PHỤC THÁNH Ý CHÚA.

 

          Đức Kitô đã vâng lệnh thánh ý Chúa Cha, xuống thế mặc xác phàm để thực hiện ơn cứu độ. Vì sự bất tuân của Adong mà nhân lọai đã hư đi, nhưng nay nhờ sự vâng phục của Đức Kitô mà nhân lọai được cứu thóat. Trong phương diện thần học, ta phải hiểu vâng phục không phải là cam chịu cưỡng bách và lụy phục tiêu cực, mà là tự do chấp nhận ý định Thiên Chúa còn giữ kín trong mầu nhiệm, nhưng được Lời đề xướng để chúng ta tin. Vâng phục giúp con người phụng sự Thiên Chúa bằng cả cuộc sống và tìm được nguồn vui nơi Ngài.

 

          1. Tạo vật vâng phục Thiên Chúa.

 

          Không kể đến con người, nhưng ngay trong tạo vật, chúng ta cũng dự cảm được sự vâng phục và nguồn vui ấy.  Chúa buộc một chiếc móc nơi hàm Bêhêmoth (Gb 40,24), hoặc phân thây Rahab (Tv 89,11), cả hai đều chứng tỏ chủ quyền tối cao của Ngài.  Đức Giêsu khiến bão yên lặng hoặc trừ qủi thì cũng chứng tỏ “gió và biển cũng như quỉ dữ đều vâng phục Người” (Mt 8,27), và những cử chỉ uy quyền đó gợi lên niềm kính sợ có tính cách tôn giáo. Không những Thánh Kinh chỉ nhận ra vị Chủ tể của vũ trụ qua sự yên lặng của nó, mà còn ngỡ ngàng và tỏ lòng tạ ơn vì tạo vật đều phấn khởi vui mừng đáp lại tiếng của Thiên Chúa:”Các tinh tú vui mừng chiếu sáng…”; Ngài gọi chúng và chúng thưa lại :”Chúng tôi đây” và “chúng vui mừng chiếu sáng cho Đấng đã sáng tạo nên mình”(Tv 104,4; Hđ 42,23; 43,13-26).

 

          Đứng trước sự kiện các tạo vật mỹ miều nhất đã nhiệt liệt chu tòan sứ mạng Thiên Chúa giao phó trong vũ trụ, thì nhân lọai lại “dồn vào đàng bất mãn”(Rm 11,32), một cách vô ý thức và đau đớn nghĩ rằng đáng lẽ mình phải biết vâng phục, và Thiên Chúa cho họ thóang thấy cũng như hy vọng  sẽ có sự vâng phục tự phát và đồng nhất của tạo vật được cứu thóat nhờ sự vâng phục của Con Ngài”(Rm   8,19-22).

 

          2. Đức Kitô, gương mẫu sự vâng phục.

 

          Đức Kitô là Adong thứ hai đã hành động trái ngược hẳn với Adong thứ nhất.  Ngài đã làm nổi bật sự vâng phục tuyệt đối ở nơi Ngài,  đến nỗi thánh Phaolô đã nói :”Người tự tiêu diệt mình, tự nhận hình thể tôi tớ, trở nên giống như người ta, có dạng mạo như lòai người. Người đã tự hạ vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá”(Ph 2,8).

 

          Vì phần rỗi nhân lọai, Đức Kitô đã tự hủy mình đi  để cứu lấy thân phận đau khổ của con người sa ngã.

 

Lịch sử nhân lọai đã trải qua một tấm kịch bi đát, và nhân lọai không thể thóat khỏi tấm thảm kịch này nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa qua Đức Kitô, người Tôi Tớ của Giavê (Is 50,4). “Cũng như vì một người không vâng phục, muôn người hóa thành tội nhân, thì bởi một Đấng phục tòng khiến nhiều người trở nên chính trực”(Rm 5,19).  Sự vâng phục của Đức Giêsu Kitô là phần rỗi chúng ta và cho chúng ta tìm lại được sự vâng phục Thiên Chúa.

 

          Đời sống của Đức Giêsu Kitô “từ khi bước vào thế gian”(Dt 5,10) “cho đến khi chết trên thập giá”(Ph 2,8) là sự vâng phục, nghĩa là gắn bó với Thiên Chúa xuyên qua một lọat trung gian : các nhân vật, biến cố, định chế văn tự của dân tộc Người, các quyền thế. Đến “không phải thi hành ý muốn của mình mà là ý muốn của Đấng đã sai mình”(Ga,6,38; x.Mt 26,39), trong suốt đời sống.

 

          Người thi hành những bổn phận thông thường như vâng lời cha mẹ (Lc 2,51), và tuân phục quyền bính hợp pháp (Mt 17, 27). Lúc chịu thương khó, Ngài vâng lời tuyệt đối, tự nộp mình, không phản kháng những quyền lực bất nhân và bất công,”thực tập đức vâng phục qua các đau khổ của Người”(Dt 5,8), chịu chết để làm hy tế quý trọng nhất dâng lên Thiên Chúa, chính là hy tế của sự vâng phục”(Dt 10,5-10; x.Sm 15,22)

 

          3. Sự vâng phục của bậc tu trì.

 

          Nhờ sự vâng phục mà Người được tôn lên làm “Chúa” (Ph 2,11), được ban mọi quyền trên trời dưới đất (Mt 28,18), Đức Giêsu Kitô có quyền buộc mọi thụ tạo vâng lời Người. Chính nhờ Người, nhờ vâng phục Tin mừng của Người, và lời giảng dạy của Giáo hội Người, mà con người đạt tới Thiên Chúa trong đức tin (Cvtđ 6,7; Rm 1,5; 10,3).

 

          Tu sĩ là người hiểu hơn ai hết lời khuyên của Thầy Chí thánh :

 

                             Xả thân nếu muốn theo Thầy,

                             Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo.

                                           (Mt 15,24)

 

          Muốn theo Chúa thì phải bỏ con người mình đi, nghĩa là quên mình đi  để chỉ thi hành thánh ý Chúa vì “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, kẻ đó không thể làm môn đệ Ta”(Lc 14,27). Qua câu Phúc âm đó, Chúa muốn đưa ra điều kiện tiên quyết để chúng ta biết thế nào là theo Ngài : đó là phải từ bỏ mình.  Từ bỏ mình để vâng phục Chúa trong mọi biến cố, trong việc thi hành bổn phận, trong sự vâng phục Bề trên…

 

          Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh vào điểm này khi nói :”Nhờ khấn giữ đức Vâng lời, các tu sĩ tận hiến ý muốn mình như của lễ bản thân dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó, được kết hợp với ý muốn cứu rỗi của Ngài  cách kiên trì và chắc chắn hơn. Vậy, theo gương Chúa Kitô, Đấng đã đến để làm theo ý Chúa Cha “tự nhận thân phận tôi tớ”(Ph 2,7) và đã học tập đức Vâng lời với những điều phải chịu đựng (x.Dt 5.8), các tu sĩ, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, lấy đức tin tùng phục các bề trên, đại diện Thiên Chúa, và nhờ các ngài hướng dẫn, họ phục vụ mọi anh em trong Chúa Kitô, vì tuân phục Chúa Cha đã phục vụ anh em và hiến mạng sống để cứu chuộc mọi người (x.Mt 20,28). Như thế, họ được liên kết chặt chẽ với sứ mệnh phục vụ của Giáo hội và nỗ lực đạt đến mức tuổi sung mãn của Chúa”(DT 14)

 

II. Ý NGHĨA CỦA ĐAU KHỔ VÀ THỬ THÁCH.

 

          Chúng ta đã thấy bổn phận của chúng ta  là những vật thụ tạo đối với Chúa, bổn phận đó là vâng phục Thiên Chúa, nhưng vâng phục Chúa như thế nào, làm sao biết được thánh ý Chúa ? Chúng ta có thể nói rằng thánh ý Chúa được thể hiện trong đời sống hằng ngày của ta  qua việc bổn phận, qua mọi biến cố, nhất là trong đau khổ và gian nan thử thách… Trong bài này, chúng ta chỉ chú trọng tới việc tuân phục thánh ý Chúa qua các đau khổ và gian nan thử thách để dọn lòng chúng ta mừng lễ Suy tôn Thanh giá Chúa.

 

          1. Sự cần thiết của nó.

 

          a) Theo sự hiểu biết thông thường của người đời, thì đau khổ và gian nan thử thách là một sự rủi ro, sự bất hạnh đáng tránh. Đau khổ xem ra không giúp ích gì cho con người mà chỉ phá họai hạnh phúc thôi. Vì thế, trong các lời cầu chúc, người ta thường chúc nhau gặp may mắn, được hạnh phúc như trong câu đối dịp mừng xuân mới :

 

                             Phúc mãn đường niên tăng phú quí,

                             Đức lưu quang nhật tiến vinh hoa.

                             (Phúc đầy nhà năm thêm giầu có,

                             Đức ngập tràn, ngày một vinh hoa)

 

          Nhưng xét cho kỹ, người ta lại thấy đau khổ và gian nan thử thách có ý nghĩa riêng của nó, và trong một bình diện nào đó, đau khổ lại là một sự cần thiết để giúp con người nên tốt hơn. Không cần các nhà hiền triết, mà ngay những người bình dân cũng có thể tìm được ý nghĩa của nó khi người ta bắt các thanh niên đến tuổi trưởng thành phải vào sống tự lập trong rừng sâu một thời gian, qua những thử thách cam go, người thanh niên mới được gọi là trưởng thành, và được đi kết bạn. Đúng là :

 

                             Có gió lung mới biết tùng bá cứng

                             Có ngọn lửa hừng biết rõ vàng cao.

 

b) Những hiền nhân quân tử, các bậc trượng phu  lại càng thấy gian nan thử thách  là cần thiết  và mặc cho nó một ý nghĩa trọng đại. Đau khổ và gian nan thử thách được coi như phương tiện tối hảo và bất khả khuyết để rèn luyện con người  trở nên anh hùng hào kiệt, bởi vì theo quan niệm nguời đời thì “vô họan nạn bất anh hùng”.

 

Cụ Phan bội Châu là người hiểu chân lý đó khi cụ nói :

 

                   Nếu phải đời bằng phẳng hết

                   Anh hùng hào kiệt có hơn ai.

 

          Muốn trở thành những anh hùng hào kiệt, dân thành Spartes đã huấn luyện thanh niên trong một chương trình dài hạn. Chính nhờ sự huấn luyện đầy cam go mà dân thành Spartes tuy nhỏ nhoi trở nên hào hùng, bách chiến bách thắng.

 

 

                             Truyện : Thành Spartes huấn luyện thanh niên

          Một kỷ luật sắt, một sức khỏe dồi dào, một sức chịu đựng bền bỉ, một tinh thần vững chắc và một lòng dũng cảm  là những yếu tố thành công của người dân xứ Spartes. Lật lại những trang cổ sử, nhìn về quá khứ xa xưa, chúng ta không khỏi thán phục sự hy sinh tuyệt đối quyền lợi cá nhân để phụng sự quốc gia của các chiến sĩ thời cổ Hy lạp. Dù nguồn nhân lực khan hiếm, dù chiến cụ kém cỏi, họ vẫn tương đồng chiến đấu với kẻ thù. Khác hẳn người Ai cập, vì nhu nhược, yếu kém, thiếu huấn luyện, đã đưa dân tộc họ vào cảnh xiềng xích, nô lệ qua bao thế kỷ.

 

          Vì nhận thấy nhân số ít ỏi, vũ khí thua sút hẳn đối phương, nạn xâm lăng luôn luôn đe dọa, họ đã tự tạo nên một hệ thống huấn luyện quân sự thật khắt khe, chu đáo, ngõ hầu có một quân đội  tuy ít nhưng rất có giá trị.

 

          Người ta thường nói : muốn tre thẳng phải uốn nắn từ khi còn măng, muốn nên con người phải dạy dỗ lúc còn bé. Người dân xứ Spartes đã thực hiện được điều này. Vì  thế, tất cả các em lên 7 tuổi đều được đưa vào trường huấn luyện quân sự. Ở đây, người ta rèn luyện cho các em  ý chí tranh đấu và quyết thắng, chỉ dẫn cho các em các chiến pháp, xây dựng tinh thần kỷ luật tự giác, huấn luyện thể chất để có sức chịu đựng bền bỉ; và tập đọc, tập viết. Nhờ thế, các em đã ý thức sự quan trọng của chiến thắng và thất bại, biết khép mình vào khuôn khổ kỷ luật, và chịu kham khổ ngay từ hồi thiếu thời.

 

          Hằng năm, một số trẻ em Spartes cử hành lễ “CHỊU ĐỰNG”, các em phải chịu đựng cho roi quất vào mình, máu chảy, thịt rách  nhưng không được thối chí hay khóc la. Châm ngôn của họ là đau không khóc, đói không than. Ngòai ra, các em phải tự mưu sinh , chiến đấu với thú rừng để sinh tồn.

 

          Khi đến tuổi trưởng thành 20, các thanh niên phải gia nhập vào quân ngũ trong thời gian 10 năm. Suốt thời gian này, nếu có gia đình đến thăm viếng thì sự thăm viếng chỉ là thầm lén mà thôi. Sau thời gian quân dịch pháp định từ 20 đến 30 tuổi, các chiến sĩ áo giáp  mới trở thành một công dân của xứ Spartres, và khi ấy họ mới có quyền  dự vào thành phần đại diện cho dân chúng (Theo báo Mai và Đa hiệu, 1970).

 

          Nguyễn công Trứ là con người hào hùng, thơ văn của ông chứa đầy hào khí của người trai.  Cuộc đời lận đận lên voi xuống chó của ông đã chứng tỏ ý chí sắt đá, muốn đào sông xẻ núi, làm những việc đội đá vá trời… Đúng là “nam nhi đáo thử thị hào hùng”(Nguyễn công Trứ). Vì thế, gian nan thử thách  không thể thiếu được đối với người muốn trở thành “Thông minh nhất nam tử, yếu vi thiên hạ kỳ”(Nguyễn công Trứ), hoặc muốn trở thành anh hùng hào kiệt.

 

          2. Thái độ của người đời.

 

          Trước những gian nan thử thách, ta thấy người đời có hai thái độ là chấp nhận hay từ chối. Trong thái độ chấp nhận, ta thấy có người chấp nhận một cách tự nguyện và chấp nhận một cách miễn cưỡng. Thái độ chấp nhận là thái độ của kẻ anh hùng, của người trượng phu, còn thái độ từ chối  là thái độ của những người hèn nhát, tiêu cực, họ sống như cây  cỏ vật vờ trước gió , không chịu nổi mưa nắng giãi dầu.

 

 

          a) Người anh hùng, trượng phu chấp nhận.

 

          Hạng người này không thích sống một kiếp sống tầm thường mà lại thích sống kiếp tung hòanh dọc ngang, hào hùng, mạo hiểm. Chính những đau khổ phải chịu, những gian truân phải trải qua làm cho họ tách biệt và vượt trên khối quần chúng tầm thường, làm cho họ trở nên những con người sắt đá mà không một trở ngại nào  có thể cản bước tiến của họ, do đó làm cho họ trở nên con người có giá trị.  Nguyễn công Trứ đã thâm hiểu tư tưởng này :

 

                             Bốn mùa ví những xuân đi cả

                             Góc núi ai hay sức lão tùng.

 

          Họ sẵn sàng chấp nhận hòan cảnh khó khăn vì biết rằng trời đất xoay chuyển, hết cơn bĩ cực tới thời thái lai. Họan nạn là giá anh hùng phải trả cũng như Champion nói :”Máu là mồ hôi của người anh hùng”.

Nhờ đó thành công của họ mới đáng kể vì như Corneille nói :“Chiến đấu có gian nan thì khải hòan mới được vinh hiển”.

Các thánh nhân cũng không thóat khỏi định luật đó, không có vị thánh nào “ngồi mát ăn bát vàng”(tục ngữ) mà phải chiến đấu để nên thánh vì “Lửa thử vàng, gian nan thử nhân đức” (Kn 3,6).

Họ vẫn sống hiên ngang và hãnh diện về thử thách của mình, vì per crucem ad lucem :

 

                             Phượng hòang gặp bước cheo leo,

                             Sa chân thất thế phải theo đàn gà.

                             Bao giờ mưa thuận gió hòa,

                             Thay lông đổi cánh lại ra phượng hòang.

                                                (Ca dao)

 

          b) Hạng người tầm thường.

 

          Những người tầm thường hèn yếu không thể hiểu được ý nghĩa của đau khổ và gian nan thử thách, họ chỉ biết nhìn gần mà không biết nhìn xa. Vì thế, khi gặp sự gian nan khốn khó, họ tìm cách chạy trốn. Nhưng trốn thế nào được vì như một nhà hiền triết nói :”Sự đau khổ ở chốn trần ai này có thể ví như  cái bóng của bạn. Khi bạn cố chạy nó, thì nó đuổi, khi bạn cố bắt nó thì nó chạy”. Vì thế, càng chạy trốn đau khổ bao nhiêu thì nó càng đuổi theo :

 

                             Gánh cực mà đổ lên non,

                             Cong lưng mà chạy cực còn theo sau.

                                           (Ca dao)

 

          Có người không dám đương đầu với đau khổ, họ chạy trốn không được thì đành chấp nhận một cách thụ động, bất mãn. Họ không còn lối thóat, chỉ biết than thân trách phận, than van khóc lóc cho bớt nỗi buồn. Nhưng càng khóc thì càng buồn, càng đau khổ thêm; nó còn chứng tỏ là con người hèn nhát, không biết cố gắng :

                             Kêu van, than khóc là hèn,

                             Hãy vì nhiệm vụ đứng lên làm tròn.

                                      (Alfred de Vigny)

          Có người không chạy trốn nỗi đau khổ, cũng không dám chấp nhận một cách thụ động thì lại đi tìm cái chết để giải thóat. Nhưng giải quyết bằng cái chết thì không giải quyết được cái gì, vì tự tử không phải là một giải pháp tốt.

Alfieri nói :”Sự thử thách lòng can đảm không phải là chết, mà là sống”.

 Và triết gia Aristote cũng khẳng định rằng :”Tự tử thường là một sự hèn nhát”.

 

          3. Ý nghĩa của đau khổ.

 

          Đau khổ là một thực tại, một định mệnh chung cho cả lòai người, không ai có thể trốn thóat đau khổ, không ai được miễn trừ. Từ cổ chí kim trong lịch sử nhân lọai, chưa thấy nói tới một người nào trong đời sống mà không gặp ít nhiều đau khổ, nhưng chưa chắc ai cũng tìm ra ý nghĩa của nó.

 

          a) Quan niệm người đời.

 

          Nói chung, người ta sợ đau khổ nhưng vẫn thấy đau khổ có lợi vì “Có đứt tay mới hay thuốc”(Tục ngữ). Hơn nữa, đau khổ là cái thông lệ của muôn vật, không gì được miễn trừ, nhất là con người. Con người từ lúc sinh ra cho đến chết phải trải qua bốn giai đọan :”Sinh, lão, bệnh, tử”, cho nên thái độ chung của con người là phải chấp nhận.

 

  Ông Tử Lang rất nghèo mà vẫn đàn hát vì cho rằng  nghèo của mình là do số phận, không cản trời, cũng không trách cha mẹ.

 

          Thi sĩ Nguyễn Du đã diễn tả tư tưởng này trong truyện Kiều :

 

                             Ngẫm hay muôn sự tại trời

                             Trời kia đã bắt làm người có thân

                             Bắt phong trần, phải phong trần

                             Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

 

          Biết như vậy, nhiều người đã biết tìm cách yên ủi mình để dễ dàng chấp nhận số phận như cô Clairon đã khuyên: “Muốn tự an ủi những điều thống khổ của mình, thì nên nghĩ đến điều mình khỏi chịu thống khổ”. Hơn nữa, người anh hùng còn sẵn sàng chấp nhận một cách tự nguyện vì biết rằng đời anh hùng lúc nhục lúc vinh là lẽ thường :

 

                             Nước dưới sông có khi trong khi đục

                             Trang anh hùng có khi nhục khi vinh.

                                                (Tục ngữ)

          + Họa phúc khôn lường.

 

          Trong đời người, ai cũng gặp những lúc sung sướng và những lúc đau khổ. Nhưng nhiều lúc trong chính cái mình cho là hạnh phúc lại trở thành cái bất hạnh, và ngược lại, cái bất hạnh lại trở thành cái phúc cho mình  bởi vì cổ nhân đã nói :”Họa trung hữu phúc”. Trong câu ca dao dưới đây, ta thấy người bình dân đã hiểu được cái tư tưởng “Họa phúc khôn lường” :

 

 

                             Vợ đẹp càng tổ đau lưng,

                             Chè ngon tức bụng, điếu thông quyện đờm.

                                                (Ca dao)

 

                                      Truyện : Tái ông thất mã.

          Một ông lão ở gần cửa ải có con ngựa tự nhiên đi sang nước Hồ mất. Người quen thuộc đều đến hỏi thăm. Ôâng lão nói :”Mất ngựa thế mà phúc cho tôi biết đâu”.

          Cách mấy tháng, con ngựa về lại quyến thêm được con ngựa hay nữa. Người quen kẻ thuộc đều đến mừng rỡ. Ôâng lão nói :”Được ngựa thế mà họa cho tôi đấy biết đâu” ?

          Từ khi được ngựa hay, con trai ông lão thích cưỡi, chẳng may ngã què chân. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm. Ôâng lão nói :”Con què thế mà phúc cho tôi đấy, biết đâu” ?

          Cách một năm, có giặc Hồ. Nhà vua bắt lính đi đánh giặc. Quân lính mười ngừơi chết đến chín. Chỉ còn con ông lão, vì què, không phải đi lính, mà cha con vẫn có nhau.

                             (Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 120)

 

          + Đau khổ là thầy dạy khôn.

 

          Nhờ những đau khổ phải chịu, con người được thêm kinh nghiệm : “Lần trước bị đau, lần sau phải chừa”(Tục ngữ); hoặc :”Phải một cái, rái đến già”(Tục ngữ).

  Không phải sự sung sướng luôn luôn là tốt và có thể ngược lại như ông Nicolas Malebranche nói:”Phải nói đúng sự thật : niềm hoan lạc là một điều tốt, và đau khổ luôn luôn là một điều xấu; nhưng không phải luôn luôn có lợi được hưởng lạc, và nhiều khi chịu đựng đau khổ lại có lợi”.

Thi sĩ Alfred de Musset cũng đồng ý như vậy :

 

                             Điều thống khổ là thầy nhân thế

                             Khổ chưa từng chưa dễ tự tri.   

                                     

          + Biện chứng của hoan lạc.

 

          Như trên đã nói, trong đau khổ đã chứa sẵn cái hoan lạc, và ngược lại, cũng như trong sự sống đã bao hàm sự chết, và ngược lại.  Mùa xuân làm nảy rộ những mầm tươi vui cho cuộc sống. Nhưng bên chiếc nôi lớn của vạn  vật đang nhô ra ánh sáng chào mùa xuân mới, ta đừng quên trước đó và ngay lúc đó, đã diễn ra sự đau đớn da diết của cuộc sinh tồn :

 

                             Sương như búa bổ mòn gốc liễu

                             Tuyết nhường cưa xẻ héo cành ngô.

 

          Hai câu óan hận xa xưa nghe sao tóat lạnh tử khí. Vậy mà trong gốc liễu bị sương “bổ mòn” và lòng cây ngô đồng bị tuyết “xẻ héo” đã xẩy ra một cuộc xung đột giữa mùa đông và mùa xuân. Và ở đây, phần thắng về đâu sẽ thể hiện như một tất yếu. Từ ngay những gốc cũ cành xưa, cây liễu sẽ đẹp như thơ… “Lơ thơ tơ liễu buông mành” và cây ngô đồng sẽ xòe cánh dài trong mùa xuân, mùa hạ.  Do đó :

 

                             Ví không có cảnh đông tàn

                             Thì đâu có cảnh huy hòang ngày xuân.

          Vẫn rất đúng khi có người nói : mùa đông là mùa chết. Nhưng vẫn rất đúng khi có người nói lại : mùa đông là mùa của sự sống sắp chào đời. Hai ý, đúng cả hai. Đây không phải theo thái độ “hai phải” hay “ba phải” tầm thường, mà là theo cách nhìn biện chứng để thấy cuộc sống về thực chất…

                             (Báo Đại đòan kết, năm 2, số 1, năm 1978, tr 7)

 

          Chúng ta cũng đã từng nghe biện chứng của đời sống khi Chúa Giêsu nói :”Nếu hạt lúa miến lúc gieo xuống đất mà chẳng mục đi, nó chỉ trơ trơ thôi. Nó có mục đi, mới sinh được nhiều lúa. Ai yêu sự sống mình sẽ mất sống; còn ai mất mạng sống mình ở đời này sẽ giữ linh hồn được sự sống đời sau”(Ga 12,24-25). Như vậy, ta có thể kết luận được rằng  chính sự đau khổ sẽ đem ta đến niềm hoan lạc, mặc dầu nó chưa đến ngay.

 

          b) Quan niệm của chúng ta.

 

          Chúng ta đã hiểu biện chứng của sự sống qua sự so sánh với việc  hạt lúa bị mục nát đi, và thấy đau khổ là cần thiết và ích lợi. Hơn nữa, Chúng ta còn phải tin vào Chúa quan phòng. Chúa đã tạo dựng nên muôn vật một cách khéo léo thì Ngài cũng an bài mọi vật một cách không kém tài tinh.  Sách Thánh đã dạy chân lý đó :”Lạy Chúa, Chúa an bài xếp đặt mọi sự cách êm ái”(Kn 8,1). Mọi sự xẩy đến đều nằm trong chương trình an bài  không thể sai lầm được của Thiên Chúa, và mọi sự, mọi biến cố đều nhằm đem lợi ích lại cho con người chúng ta, mặc dầu ta không biết.

 

          Một tài liệu so sánh rất lý thú đã viết như  sau :”Nếu đem một miếng sắt thường trị giá 5 Mỹ kim làm thành những cái móng ngựa thì sẽ bán được 10 Mỹ kim. Nếu đem miếng sắt đó làm thành kim may thì bán được 350 Mỹ kim. Nhưng nếu đem làm thành dây gió của lọai đồng hồ quí giá thì số tiền bán được lên tới 250.000 Mỹ kim. Giá trị cứ tăng theo tùy theo miếng sắt được tôi luyện, trui dũa. Càng được tôi luyện thì giá trị lại càng cao, đó là một luật tự nhiên và tất nhiên.

 

          Đời sống Kitô hữu cần phải trải qua thử thách, cần phải trải qua khi vui khi buồn, khi mạnh khỏe lúc ốm đau, khi cô đơn lúc đòan tụ, vì tất cả những sự này hợp lại làm ích cho sự tăng trưởng cả thể xác lẫn tinh thần.  Một câu danh ngôn đã nói :”Nếu mặt trời mà cứ chiếu sáng mãi trên một khu vực, thì sẽ khiến khu vực đó thành ra bãi sa mạc hoang vu”. Đời sống Kitô hữu chúng ta cần những đám mây, cần có những ngày u ám và đen tối, những ngày giông tố, bão bùng cũng như những ngày quang đãng nắng ráo.

 

          Thánh Giacôbê khuyên chúng ta :”Hỡi anh em, hãy coi thử thách trăm bề thọat đến cho anh em như là sự vui mừng trọn vẹn, vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sinh ra nhịn nhục”(Gc 1,1-2).

 

 Còn thánh Phaolô, người đã được đem lên đến tầng trời thứ ba  đã nói :”Và, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với  sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bầy ra cho chúng ta”(Rm 8,18).

                   (Ms Phạm xuân Hiển, Báo Rạng đông, sô 77, 1972, tr 40,42)

 

III. CHÚNG TA VÂNG THEO THÁNH Ý CHÚA.

 

          Trên đây ta đã bàn đến quan niệm người đời đối với những đau khổ và gian nan thử thách. Đấy mới là đứng trên bình diện tự nhiên và lối sống ở đời. Ở đây, chúng ta phải tiến lên trên bình diệân siêu nhiên để chúng ta tin vào sự quan phòng của Chúa, và mặc cho những đau khổ, gian nan thử thách chúng ta chịu một ý nghĩa thiêng liêng cao cả hơn.

 

          1. Không có hạnh phúc tuyệt đối ở đời.

 

          Chúng ta hãy nhìn xem chung quanh mình, ở đâu cũng thấy khổ, và không gặp được người nào hòan tòan sung sướng  mà không vương chút đau khổ. Mọi người đang ngưỡng vọng vềà một thứ hạnh phúc tòan hảo, một thứ hạnh phúc không có trên trần gian này. Tại sao vậy ? Vì nguyên tổ chúng ta  đã phạm tội lỗi nghĩa cùng Chúa nên thứ hạnh phúc đó bị cất đi, đau khổ xuất hiện trên mặt đất (x.St 3,17-18).

 

          Khi xuất hiện trên đời, con người đã chào đời bằng một tiếng khóc. Rồi trong kiếp sống trần gian, con người lại phải trải qua bốn giai đọan sinh, lão, bệnh, tử; và khi lìa khỏi cõi đời này chúng ta lại được người đời đưa tiễn bằng tiếng khóc :

 

                             Lọt lòng nghe khóc oa oa

                             Đó là tiếng khóc của ta khóc đời.

                             Thác đi nghe khóc ai ơi,

                             Đó là tiếng khóc của đời khóc ta.

                                               

 

          Càng đi tìm hạnh phúc tuyệt đối, con người càng thấy chán nản và thất vọng vì trong sự sung sướng nào  cũng hàm chứa mầm mống của đau khổ. Nếu sự sung sướng còn ngầm chứa đau khổ thì làm sao gọi được là hạnh phúc tòan hảo được, nhất là sung sướng quá lại hóa ra đau khổ vì “Cực lạc sinh bi ai”. Vì thế, có một thi sĩ nói rất chí lý :

 

                             Hoa nở để mà tàn

                             Trăng tròn để mà khuyết

                             Mây hợp để mà tan

                             Nước đầy để mà vơi…

 

bởi vì cái gì đi đến chỗ tròn đầy thì lại bị khuyết, không có cái gì vĩnh viễn tòan hảo.Cái biện chứng của sự sống và niềm hoan lạc ở trên đã chứng tỏ vì “Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt”

”(Xuân Diệu).

                                      Truyện : Vua Omar đi tìm hạnh phúc.

          Trong truyện cổ văn chương Hy lạp có kể : có một ông vua muốn đi tìm hạnh phúc. Oâng cho vời các triết gia đến để hỏi ý kiến. Có một triết gia tâu : “Muốn tìm được hạnh phúc, nhà vua hãy tìm cho bằng được người nào hạnh phúc nhất trên trần gian và xin họ cho cái áo lót mà mặc”. Ôâng đi tìm khắp cả thiên hạ, đi suốt cả mấy chục năm mà không gặp.

          Khi về già gần chết, nhà vua tình cờ gặp bác nông phu mồ hôi nhễ nhãi, vai vác cầy, vừa đi vừa hát vui vẻ. Nhà vua bèn hỏi :

- Chắc nhà ngươi được hạnh phúc lắm nhỉ ?

          - Thưa, đúng thế, tôi được hạnh phúc.

          - Nhà ngươi cho ta xin cái áo lót.

          - Thưa, tôi chỉ có cái quần đùi thôi, không có áo lót.

          Thế là nhà vua buồn phiền bỏ đi vì không tìm được hạnh phúc, không có thể kiếm được cái áo lót của anh nông phu mặc vào cho được hạnh phúc.

 

          Câu  truyện này chỉ có tính cách ngụ ngôn và dạy rằng : người ta không thể tìm được hạnh phúc ở đời này, người ta chỉ có thể tìm được hạnh phúc tương đối, và hạnh phúc đó không ở trong của cải, chức quyền, danh vọng nhưng ở ngay trong lòng mình.

 

          2. Hoan lạc và đau khổ đối với ta.

 

          a) Hoan lạc hay đau khổ ở trong lòng ta.

 

          Tại sao có những người ở trong hòan cảnh túng thiếu, họan nạn, rủi ro mà vẫn thấy vui vẻ; trái lại, có những người sống trong của cải, chức quyền, danh vọng, được đủ mọi sự mà vẫn cảm thấy đau khổ ? Tại sao lại có sự trái ngược như vậy ? Cái gì tạo nên đau khổ hay sung sướng ?

          Một triết gia đã nói :”Tư tưởng của ta làm sao thì đời ta như vậy”. Câu nói đó rất hợp tâm lý vì trong con người  có mối tương quan tâm sinh lý rất chặt chẽ : người khỏe mạnh thì dễ vui tươi, người bệnh họan sẽ buồn chán.  Mình cho là khỏe mạnh thì sẽ khỏe mạnh, mà cho là bệnh thì tức khắc bị bệnh, không thiếu những người đã mắc bệnh tưởng mà hóa ra bệnh thật, mặc dầu họ không có bệnh gì.

 

          Ta có thể đem ra một ví du : Trong một phòng triển lãm, mọi người đang ngắm bức ảnh “Thác Cam ly”. Đứng trước bức tranh ấy, mỗi người có một ý nghĩ riêng, một tâm tình riêng : người khen đẹp, người chê xấu, người thấy vui, người thấy buồn. Tại sao đứng trước cùng một bức ảnh mà mỗi người lại có một tâm tình riêng tư như vậy ? Đó là vì mỗi người đã mang sẵn một tư tưởng, một tâm trạng riêng tư, rồi họ phóng chiếu tâm tư của mình lên bức ảnh để mặc cho bức ảnh một mầu sắc hợp với tâm trạng của mình đang chứa sẵn trong lòng. Về điểm nay, ta thấy Nguyễn Du nói rất tâm lý :

 

                             Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

                             Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ?

 

          Một ví dụ khác trong truyện Kiều : Đứng trước mộ Đạm Tiên, ai nấy đang đi hưởng xuân trong ngày hội Đạp thanh, tâm hồn thanh thóat, hòa mình vào với cỏ cây mây nước, niềm vui phơi phới nở trong lòng, không để ý đến :

 

                             Sè sè nấm đất bên đàng

                             Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh

 

Trong khi đó, nàng Kiều cảm thấy một nỗi buồn man mác trổi dậy trong lòng. Nàng thương khóc cho kiếp đời của Đạm Tiên đang thời xuân sắc mà “Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương”, bởi vì nàng Kiều linh cảm thấy rằng đời mình sẽ không khác gì số phận của Đạm Tiên…

          b) Hãy quên đi những bất hạnh.

 

          Hãy nghĩ tới những thành công trong đời mình mà quên đi những thất bại, rủi ro. Ai trong đời đã không có lúc thành công, vui vẻ…? Tại sao trong bài nhạc du dương ta chỉ chú ý tới mấy cung ngang khó chịu : cái khó chịu của nốt cảm âm là để chuẩn bị cho cái khoan khóai của nốt chủ âm. Công dụng của cảm âm chỉ có thế, nó chỉ là cung lướt qua, tại sao ta lại dừng ở cảm âm phụ thuộc ấy mà quên đi chủ âm là chính ?

 

Thi sĩ Tú Mỡ là con người vui tính, lạc quan, yêu đời. Người ta hỏi làm sao mà vui được như vậy ? Ôâng cho biết : hãy tạm quên tất cả những đau buồn, những thất bại mà chỉ nghĩ đến những cái hạnh phúc, những   may mắn và thành công của mình đang và đã được hưởng.

 

          c) Nhìn đời bằng con mắt lạc quan.

 

          Trong đời sống của mình, ai lại không gặp những cảnh thất bại buồn chán ? Ai không phải chịu đau khổ ? Nhưng không phải đời  chỉ là bể khổ như nhà Phật chủ trương “Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”, vì trong một năm  có mùa đông ảm đạm thì cũng có mùa xuân tươi sáng chứ đâu chỉ có một mùa xuân triền miên ! Hãy nhìn đời bằng đủ mầu sắc mà sự vật có. Nếu không thì nhìn bằng con mắt mầu hồng hơn là bằng mầu tím : nhìn đời thấy đáng ghét, ai cũng là kẻ thù của mình, ai cũng chỉ tạo cho mình những sự đau khổ…! Mầu tím chỉ làm cho ta thêm bi quan để rồi nhìn đời và tự hỏi như thi sĩ Tản Đà Nguyễn khắc Hiếu :

 

                             Đời đáng sống hay không đáng sống

                             Nhấp chén quỳnh xin hỏi bạn tri âm.

 

          Hãy tập nở nụ cười trên môi, nụ cười sẽ giúp con người dễ vui tươi hơn. Người Anh quốc luôn nhắc nhở câu “Keep smiling”(Hãy giữ nụ cười). Bạn hãy vào rừng và thử cười vang xem trong rừng có gì ? Chắc cả khu rừng cùng cười với bạn. Nếu bạn vui cười thì đời cũng cười theo và bạn tạo cho những người khác một niềm vui. Đừng bao giờ có nét mặc đám tang kẻo mọi người cùng phải khóc với bạn. Đời đâu phải là một đám tang !

 

          d) Tự nguyện chấp nhận đau khổ.

 

          Ôâng Lesseps, giữa bao nhiêu chua cay đau đớn, vẫn giữ được khuôn mặt vui tươi như hoa nở. Có người lấy làm lạ, ông trả lời :

          - Có chi đâu. Tôi chiến thắng đời sống phức tạp, bằng cách luôn luôn niềm nở sống.

 

          Bóng mặt trời, khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chặn lối ta đi. Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía  mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi trước, và lui về phía đàng sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết cả sức mạnh mà làm hại ta.

 

          Ôâng Herbert Casson nói :”Nếu không cởi mở được phương diện phóng khóang và dễ dãi của bản tính ta, thì ta sẽ phải rầu rĩ suốt đời”. Trái lại, nếu cởi mở được tâm hồn, nếu biết giữ cho tính tình được đều hòa, cho quả tim được hô hấp thanh thả thì các gây cấn trên đời đều phải thay đổi bộ mặt dữ tợn đi.

          Trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta thấy khi phải cưỡng bách vác thập giá Chúa, ông SIMON phản kháng ầm ĩ. Nhưng (người ta truyền rằng) khi con mắt của ông  gặp được con mắt hiền từ của Chúa, là mỗi thấy thập giá nhẹ, nhẹ dần. Không phải vô lý mà thánh Têrêsa    Hài đồng nói :”Các khổ giá trên đời, nếu kéo lê thì thấy nặng, nếu ẵm lên thì thấy nhẹ”.

                             (Vũ minh Nghiễm, Dừng, 1967, tr 263-264)

 

          3. Thánh hóa đau khổ và thử thách.

 

          Đau khổ ở đâu cũng có, không ai tránh được. Vấn đề đặt ra ở đây không phải là chấp nhận đau khổ hay không  mà là chấp nhận đau khổ với ý hướng nào ? Vấn đề của chúng ta bàn là  hãy tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, trao phó cho Ngài tất cả với tâm tình con thơ yêu mến để được sống trong sự bình an thật của Chúa.

 

          a) Thánh ý Chúa trên hết.

 

          Chúa khôn ngoan hơn ta, Ngài xếp đặt mọi sự một cách tài tình vượt trên sự khôn ngoan của lòai người. Hãy phó dâng cho Chúa tất cả và tin tưởng phó thác cho Ngài như thánh Têrêsa Hài đồng đã làm.

                                      Truyện : Con chọn tất cả

          Một ngày kia, chắc là chị Léonie nghĩ mình lớn rồi không tiện chơi em phỗng nữa. Chị cầm cả cái rổ con của chị đầy những áo, những mụn vải đẹp và nhiều đồ quí hóa khác, có cả em phỗng đang nằm trơ hơ ở trên, chị đến với hai chúng con mà bảo rằng :

- Cho em chọn, em nào muốn lấy gì thì lấy.

          - Chị Céline nhìn, rồi chọn lấy búi chỉ lụa ngũ sắc. Còn con, con nghĩ một giây rồi nói :

          - Em chọn ráo.

          Con vừa nói, vừa vơ lấy cả rổ, cả em phỗng.

          Cử chỉ thơ ngây này coi như một toát yếu của đời  con. Đến sau, khi con đã biết ái mộ đường nhân đức, con hiểu rằng muốn nên thánh, cần phải chịu đau khổ nhiều, phải luôn luôn tìm sự trọn hảo nhất, phải quên mình đi cho hẳn. Đàng trọn lành thánh thiện có nhiều bậc, mỗi linh hồn được tự do  tiến tới theo ơn Chúa, được tự do hành động nhiều ít tùy sở nguyện; tắt một lời, được tự do chọn  trong những cách hy sinh mà Chúa muốn.

 

          Vậy như hồi thơ ấu, con đã kêu cùng Chúa rằng :

          Lạy Chúa, con chọn ráo, con không muốn làm thánh nửa vời; con chẳng sợ như thế thì phải chịu đau khổ nhiều  vì Chúa đâu, con chỉ sợ điều này là không bỏ được ý riêng con thôi. Xin Chúa nhận lấy ý riêng con, bởi vì con chọn tất cả những sự Chúa muốn, con chọn trót ý Chúa (Têrêsa Hài đồng, Một tâm hồn, Kim Thiếu Dịch, 1960, tr 23).

 

          b) Tìm sự bình an trong Chúa.

 

          Một khi đã trao phó hết cả đời mình cho Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy tâm hồn mình được bình an trong những cơn thử thách. Gặp thử thách mà nói là bình an thì kể là vô lý, nhưng bình an đây không phải là bình an bên ngòai, nhưng là bình an trong tâm hồn, bình an của Chúa ban. Đang lúc các tông đồ buồn phiền vì phải xa lìa Chúa, đang lúc họ sợ trước sự dữ sắp xẩy tới thì chính lúc đó Chúa lại nói :”Thầy để lại sự bình an cho các con… Thầy không ban sự bình an thế gian quen cho. Lòng các con đừng bối rối sợ hãi nữa”(Ga 14,17)

          Người Kitô hữu, nhất là tu sĩ, đã biết mục đích của đời mình, họ biết những thử thách là dịp lập công, là dịp để chứng tỏ lòng trung tín.  Họ cảm ơn Chúa  khi Ngài gửi cơn thử thách tới. Trong cơn thử thách, họ tin rằng Chúa hằng ban ơn giúp sức để họ chịu đựng cho can trường.

 

          Hiểu như thế, người Kitô hữu trong cơn thử thách luôn hưởng sự bình an trong tâm hồn. Bởi vì “Đối với ai phải luận phạt thì cây Thánh giá là cái chi điên rồ,  nhưng đối với anh em là những người được cứu rỗi, thì cây Thánh giá là sức mạnh”(1Cr 1,18).

 

                                      Truyện : Nhạc sĩ Beethoven bị điếc.

          Với ông Beethoven, thế giới mới của ca nhạc đã được xuất hiện. Năm 1822, chính lúc ông đã leo lên tới đỉnh sự vinh quang, thì bỗng nhiên ông bị điếc đặc. Hôm đó, muốn thân hành điều khiển cái bài Fidelis của mình đã dọn; thử đi thử lại, cứ thấy người với đàn làm sao ấy, thì ra ông đã điếc lúc nào rồi. Ôâng kêu lên :”Tôi điếc rồi” ! Mất ông, thế giới ca nhạc mất to quá, mà sự thật đó không thể chữa được.

 

          Ai đáng phàn nàn hơn, có lẽ nhất ông Beethoven, song ông chẳng phàn nàn, không rên rỉ, chẳng tiếc, ông chỉ nói :”Tôi sẽ nắm lấy số phận ngay ở cổ họng”, nghĩa là tôi sẽ hòan tòan theo thánh ý Chúa định; và ông đã phải chịu điếc như vậy cho đến khi qua đời, là năm 1827.

                             (Trần công Hóan, Truyện hay 3, 1963, tr 55-56)

 

          c) Tuân phục thánh ý Chúa trong hết mọi sự.

 

          Hãy tuân phục thánh ý Chúa trong hết mọi sự và vô điều kiện. Chính vua Đavít đã làm gương cho chúng ta : Khi Đavít ra khỏi thành Giêrusalem để trốn thóat cuộc bắt bớ của con là Absalon, thầy cả thượng phẩm Sađốc truyền mang theo ngài hòm bia để làm vật cấp cứu trong cơn nguy hiểm gần gũi như thế và làm một sự bảo đảm cho cuộc trở về may mắn cho nhà vua. Nhưng vua thánh xin thầy cả thượng phẩm truyền đem hòm bia trở về thành vì Chúa sẽ đưa vua về bình an, nếu Chúa muốn. Đọan vua nói thêm :”Nếu, trái lại, Chúa dạy tôi : ngươi không đẹp lòng Ta, Ta sẽ rút lòng yêu của Ta khỏi người. Ta không muốn ngươi cai trị dân Ta nữa, Ta muốn lột khỏi ngươi chiếc áo hồng bào để mặc cho kẻ địch của ngươi, đuổi ngươi khỏi ngai vàng, để đem đặt kẻ thù của ngươi vào đó, và ban cho nó vinh quang, thì tôi sẵn sàng, xin hãy làm cho tôi như ý Chúa muốn”.

 

          Chúng ta cũng phải nói như thế, bất kỳ chúng ta sống trong hòan cảnh nào. Chúng ta ý tứ đừng bỏ việc thực hành điều đó với cái lý lẽ mơ hồ là chúng ta không thể nhịn nhục anh hùng như thế được. Vì quả thực chính Chúa hành động trong ta, miễn là chúng ta không chống lại ân sủng Ngài.

 

          d) Phải thực hành hằng ngày.

 

          Mỗi ngày và mỗi lúc, hãy noi gương thánh nữ Gertrude lặp đi lặp lại :”Xin cho thánh ý Chúa được nên trọn trong con”. Và mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, ta hãy ý thức hơn  khi đọc :”Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, nghĩa là không phải ý riêng của ta mà thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện nơi ta. Nên thánh không hệ tại việc đọc kinh nhiều hay làm nhiều việc hãm mình nhưng là do sự cố gắng tuân phục thánh ý Chúa.

 

                                      Truyện : Thày dòng tuân phục ý Chúa.

          Có một thầy dòng làm được rất nhiều phép lạ, song trong đời sống, thầy chẳng có gì là đặc sắc hơn anh em.  Muốn tìm hiểu sự thánh thiện nơi thầy, Cha Bề trên gọi thầy đến và hỏi thầy có hãm mình hay làm việc gì khác thường chăng.

          Nghe Bề trên hỏi điều như thế, thầy dòng đứng ngẩn ra một lúc rồi thưa rằng  mình chẳng hề hãm mình hay làm sự gì khác thường; hằng ngày mình chỉ chăm chú đến một điều là muốn sự Chúa muốn, và chẳng muốn sự gì Chúa không muốn. Và trong thực tế,  tâm trạng của thầy hòan tòan lệ thuộc vào thánh ý của Thiên Chúa. Thầy nói :

          - Hạnh phúc chẳng làm con hớn hở, gian nan không khiến con buồn sầu, bởi vì con nhận ra mọi sự đều do ở Chúa. Hết mọi lời con nguyện đều nhằm một mục tiêu là để xin cho thánh ý Chúa được hòan tòan thực hiện nơi con. Mà cho được như vậy, tất nhiên phải có sự hy sinh.

          Cha Bề trên hỏi thêm thầy rằng :

-Vừa mới rồi, kẻ nghịch đốt ruộng nương hoa mầu nhà dòng, làm chết các muông súc, thầy có lấy việc đó làm khó chịu không ?

- Thưa Cha, không, vì bao giờ con cũng nghĩ rằng : việc gì Chúa đã làm tức là việc hay, và con nhìn thấy thánh ý Chúa trong mọi biến cố.

Nghe nói thế, Cha Bề trên liền nhận ra rằng thầy ấy là người có nhân đức cao, và rất đẹp lòng Chúa  (Trần công Hóan, truyện hay 6, 1963, tr 77-78).

 

KẾT LUẬN

 

Qua phần trình bầy ở trên chúng ta đã thấy sự cần thiết và ích lợi của đau khổ và gian nan thử thách cũng như ý nghĩa thiêng liêng cao quí của nó. Muốn được rỗi, muốn lên thiên đàng, muốn nên thánh, thiết tưởng không có con đường nào khác ngòai đường thánh giá, con đường hy sinh, chịu khổ. Phải vất vả lắm mới được.

 

                             Truyện vui : Phương pháp rẻ tiền.

          Một bà đeo đầy nữ trang trên người  nhưng gương mặt thì sần sùi đầy những thẹo, vào một thẩm mỹ viện hỏi bác sĩ :

          - Bác sĩ có thể làm cho da mặt tôi phẳng phiu hơn không ạ ?

          - Được chứ. Tôi sẽ làm cho da mặt bà mịn màng như trước khi thẹo.

          - Thưa bác sĩ, làm như vậy thì tốn chừng bao nhiêu ạ ?

          - Thưa tốn độ 100.000 đồng.

          Bà khách kêu lên :

- Trời ! Sao đắt dữ vậy ? Có cách nào rẻ hơn không bác sĩ ?

Bác sĩ gật đầu đáp ngay :

- Có chứ ! Bà có thể mua một miếng vải mỏng về che mặt. Cách đó tốn mấy ngàn thôi.  

                             (Lý đình dù, Truyện đọc hai người, 1971, tr 20-21)

 

          THÁNH GIÁ là một cái gì khủng khiếp, man rợ, nhưng nó lại cần thiết vì không có đổ máu thì không có ơn cứu chuộc. Thánh Phaolô nói:”Đối với ai phải luận phạt thì cây thánh giá là cái chi điên rồ, nhưng đối với anh em là những người được cứu rỗi, thì cây thánh giá là sức mạnh”(1Cr 1,18).

 

          Hãy vui lòng vác Thánh giá thì cây Thánh giá sẽ nhẹ đi vì ta có đủ sức chịu đựng, vác nổi một cách dễ dàng với ơn Chúa :”Tôi có thể chịu đựng mọi sự nhờ Chúa ban sức mạnh cho tôi”(Pl 4,13). Ta nên nhắc lại một lần nữa lời của  thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nói :”Các khổ giá trên đời, nếu kéo rê thì thấy nặng, nếu ẵm lên thì thấy nhẹ”.

 

Hãy theo gương Mẹ Maria mà XIN VÂNG cho ý thức và thực hiện chữ Vâng đó. Nhờ thực hiện tiếng Vâng đó mà Đức Maria được gọi là  Đấng Đồng Công cứu chuộc lòai người. Mẹ đã vui lòng đứng kề bên thánh giá Chúa để chia sẻ sự thống khổ của Chúa Giêsu trên thánh giá. Chúng ta cũng hãy theo gương Mẹ cộng tác vào công cuộc cứu  cứu thế của Chúa bằng chính sự tuân phục của chúng ta trước những gian nan thử thách của đờøi sống. Trong khi chịu đau khổ, ta hãy vui lên vì phần thưởng của chúng ta đang chờ đón :”Anh em hãy vui mừng, tuy rằng có phải sầu khổ vì nhiều thử thách trong ít lâu. Ngõ hầu đức tin anh em được thử thách trở nên quí hơn vàng (thử lửa) mà được ca tụng vinh hiển và tôn trọng  khi Chúa Kitô hiện ra”(1Pr 1,6-7).

 

          Ôi Giêsu ! Trước ngày thuyền về Bến,

          Ước làm sao sóng gió đánh tả tơi,

          Con ước ao được khổ lắm trên đời,

          Để kết lại một tràng hoa Thánh giá.

                   (Xuân Ly Băng)

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Lễ Suy tôn Thánh giá

2008

 


Mục Lục