KỶ LUẬT TRONG CUỘC SỐNG

***

I. SUY NIỆM LỜI CHÚA.

 

                    Chúng ta đọc : Lc 13,24; Mt 11,13.

         

          Gần đến lễ Cung hiến Đền thờ, Đức Giêsu vừa giảng dạy vừa tiến về Giêrusalem. Tình cờ có một người đến hỏi Đức Giêsu :”Thưa Ngài,  những người được cứu thoát thì ít, có phải không” ?  Câu hỏi này không phải là tình cờ vì theo quan niệm người Do thái : ngoài dân tộc họ ra, ít người được Thiên Chúa cứu rỗi.  Đây là một câu hỏi có vẻ tọc mạch và ngầm chứa một ý tưởng tự mãn và cục bộ.

 

          Đức Giêsu không trả lời rõ ràng và trực tiếp vì sợ có sự ngộ nhận. Nếu trả lời ít người được cứu rỗi thì người ta sẽ thất vọng, sợ không đến lần mình.  Nếu trả lời nhiều người được cúu, người ta sẽ ỷ y, buông lỏng mà không mau mắn lo phần rỗi của mình.

 

          Nên Đức Giêsu chỉ đưa ra phương cách để vào Nước Trời : Phải cố gắng qua cửa hẹp. Và như vậy cũng sửa sai quan niệm hẹp hòi và tự mãn của người Do thái : chỉ có họ mới được Thiên Chúa thương.

 

          Đức Giêsu dùng hình ảnh “đi qua cửa hẹp” để nói lên đòi hỏi của Tin mừng. Động từ “đi qua” muốn diễn tả sự thay đổi cách sống, bởi vì có rất nhiều người đứng trước cửa hẹp ấy, nhưng chỉ những người biết “đi qua” tức là thay đổi cuộc sống thì mới vào nhà được.

 

          Luật của Tin mừng luôn đòi hỏi phải chiến đấu. Đức Giêsu không đến để đem lại cho ta một cuộc sống dễ dãi, nhưng mang gươm giáo và đem con người vào một cuộc chiến cam go nhất chống lại sự dữ.

 

          Con đường rộng và hẹp được đề cập trong bài Tin mừøng hôm nay là hình ảnh khá quen thuộc trong các sách Khôn ngoan của người Do thái. Hình ảnh này nói lên sự chọn lựa mà con người phải thực hiện giữa thiện và ác, giữa khôn ngoan và khờ dại, giữa sự thật và gian dối. Đức Giêsu mượn hình ảnh này để đòi hỏi nơi các môn đệ một sự lựa chọn dứt khoát và sự dấn thân cho Thiên Chúa.

 

          Nhân dịp tĩnh tâm Mùa Chay, chúng tôi muốn chia sẻ với các bạn trẻ về một đề tài hơi khó nuốt :”Kỷ luật có cần cho giới trẻ không” ? Hy vọng các bạn trẻ sẽ nhìn ra sự cần thiết và ích lợi của nó trên con đường hoàn chỉnh con người mình, và đồng thời cũng là đòi hỏi của Tin mừng.

 

II. NÓI VỀ TỰ DO

 

1.    Tự do là gì ?

          Theo từ điển tiếng Việt của viện ngôn ngữ thì “Tự do là phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, làm theo ý muốn của mình trên cơ sở nhận thức được qui luật phát triển của tự nhiên và xã hội.

          Hay nói cách dễ hiểu hơn : Tự do là khả năng hành động theo ý mình, không bị ép buộc, hay bị kìm hãm.

 

          Ngoài ra, tự do có thể là tự do tinh thần hay tự do vật chất.

 

2.    Ranh giới của tự do

 

          Tự do không bao giờ tuyệt đối mà chỉ tương đối, nghĩa là tự do luôn có giới hạn, không phải muốn làm gì thì làm, bởi vì tự do của tôi bị giới hạn bởi tự do của người khác. Vì thế, ông Caro đã nói :”Ranh giới của tự do của tôi là tự do của người khác”. Chính vì vượt ranh giới của tự do nên mới có chiến tranh, gây thiệt hại và đau khổ cho nhiều người.

 

3.    Tự do và trách nhiệm

 

          Thiên Chúa ban cho con người có lý trí và tự do để con người có thể hành động theo lương tri, khác với con vật. Ngược lại, con vật chỉ hành động theo bản năng một cách mù quáng mà không hiểu biết gì . Ông Thomas Jefferson nói :”Cùng một lúc, Thượng Đế đã ban cho ta  đời sống và ban cho ta cả tự do để sống đời xứng đáng”.

 

          Vì có ý thức và tự do nên con người phải chịu trách nhiệm về các hành vi của mình theo phương châm : “Hữu công tắc thưởng, hữu tội tắc trừng” : Có công thì được thưởng, có tội thì phải phạt.

 

          Khi hành động vì ép buộc, không có tự do thì con người không phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

 

          Người ta luôn gặp sự khó khăn giữa tự do và nô lệ, bởi vì cái mình muốn thoát ra thì nhiều khi lại sa vào. Trường hợp này giống như lời thánh Phaolô đã dạy :”Có một sự giằng co trong con người : sự gì tốt lành tôi muốn thì tôi lại không làm, còn cai gì xấu tôi muốn xa lánh thì tôi lại làm.  Đúng như ông Shri Aurohindo nói :”Toàn thế giới đang hướng về tự do, tuy nhiên mọi sinh vật lại yêu thương các xiềng xích của mình. Đó là điều trái ngược đầu tiên và cái gút khó mở của xã hội chúng ta”.

 

          Thực tế chứng minh cho điều ông M.J Chenier nói :”Thượng Đế tạo ra sự tự do, con người tạo ra sự nô lệ”.

 

III. NÓI VỀ KỶ LUẬT

 

1.    Thế nào là kỷ luật ?

 

          Kỷ luật hay qui luật là những phép tắc đặt ra  để ngăn ngừa sự phóng túng, có thể làm hại cho bản thân hay cho người khác.

 

          Trong bất cứ một cộng đoàn nào, một xã hội nào, dù lớn hay nhỏ, cũng cần phải có kỷ luật hay qui luật để bảo đảm lợi ích cho cộng đoàn và từng cá nhân.

2.    Sự cần thiết cuả kỷ luật

 

          Bất cứ ở đâu cũng phải có kỷ luật hay qui luật, nơi thiên nhiên hay nơi con người.  Trong thiên nhiên mọi vật phải hành động theo một qui luật  đã được ấn định như mặt trời, mặt trăng phải quay theo một quĩ đạo nhất định để có thể phân định ngày đêm, năm tháng. Cây cối phải theo một quá trình : gieo hạt, nảy mầm, lớn lên, sinh hoa, kết quả.

 

          Con vật phải sinh ra theo dòng giống của nó, với tất cả đặc tính của nó, không có gì thay đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác, chúng hành động một cách máy móc theo bản năng đã được ấn định sẵn để con chó luôn là con chó chứ không thể biến thành con gà, tuy hình dáng có thể thay đổi, bản năng vẫn là một.

 

          Loài vật và loài thảo mộc không có tự do, chúng chỉ biết hành động theo một qui luật nhất định. Khi nói đến vấn đề tự do, người ta thường kể cho nhau nghe câu chuyện như sau :

 

          Một người đàn ông luôn bị chi phối bởi lý tưởng làm sao để mọi loài mọi vật được tự do hoàn toàn như ông nghĩ. Ngày nọ, khi đang đi dạo quanh khu phố nọ, ông thấy một ngôi nhà đang mở cửa. Nhìn vào, ông thấy một hồ cá có con cá vàng đang bơi trong đó. Người đàn ông tội nghiệp thay cho con cá, vì sao nó không được tự do và suốt ngày cứ phải quanh quẩn trong hồ nước như vậy.  Và ông nảy sinh ý định  cứu con cá ra khỏi cảnh tù túng đó.  Ôâng vừa tiến vào trong nhà có con cá đang nuôi trong hồ vừa nói thật lớn quyết định của mình :

          - Cá vàng ơi,  ngươi chính là một tù nhân bé nhỏ và đáng thương.  Ta sẽ đến để giúp ngươi thoát khỏi tình trạng tù túng này.

          Vừa đến bên hồ nước nhỏ, người đàn ông vội vã đánh thật mạnh vào chiếc hồ và cái hồ vỡ tan tành, nước chảy ra, chú cá vàng nằm ngáp ngáp trên nền nhà rồi cũng chết ngay sau đó trong sự tự do mà người đàn ông tạo cho nó.  Người đàn ông cảm thấy mãn nguyện vì đã giải thoát cho một con cá thực sự được tự do như ông tưởng.

 

          Ôâng tiếp tục đi qua những ngôi nhà khác, rồi nhìn vào những căn nhà có mở cửa  để tìm cách giải thoát cho những loài vật khác. Ôâng đến một căn nhà có chú chim vành khuyên , nó đang nhảy múa trong chiếc lồng được trang trí và bao bọc rất cẩn thận.  Ôâng vội tìm cách leo vào nhà và tìm đến chỗ con chim đang bị nhốt trong lồng rồi ông nói :

          - Chim ơi, mi sẽ được tự do.

          Vừa nói ông cũng vừa mở cửa lồng để thả con chim vành khuyên ra. Vừa bay ra khỏi lồng được vài phút thì con chim bị con chó nhảy đến cắn chết.

 

          Có lẽ chúng ta sẽ cười thầm về sự ngớ ngẩn của người đàn ông trên. Quan niệm của ông về tự do thật là ngược đời. Suy đi nghĩ lại ta thấy nhiều khi  chúng ta cũng đã từng hành xử  như người đàn ông đó, chúng ta cảm thấy khó chịu và muốn phá vỡ tất cả khi cảm thấy chúng ta bị bao bọc bởi một số luật lệ nào đó (R. Veritas).

 

3.    Ích lợi của kỷ luật

 

          Kỷ luật đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích cả tinh thần lẫn vật chất. Ích lợi tinh thần là giúp ta hoàn thiện con người mình, tiến lên đỉnh cao của trọn lành. Kỷ luật là khuôn mẫu và thước đo để rèn luyện con người.  Một danh nhân nói :”Nếu không có cái thước thẳng, sao biết mình đã có chỗ cong. Đã không biết được chỗ nào mình sai thì làm sao  biết sửa mình cho ngay ngắn được”.  Một đời sống có kỷ luật ví như một tòa nhà có họa đồ kích thước :

 

                                      Muốn tròn phải có khuôn

                                      Muốn vuông phải có thước.

 

          Chúng ta có thể chia thành 2 loại kỷ luật : kỷ luật bắt buộc và kỷ luật tự nguyện.

 

          Trong một cộng đoàn lớn hay nhỏ, phải có kỷ luật hay nội qui cho mọi người giữ nhằm bảo vệ công ích, ví dụ luật giao thông, luật xây dựng, luật thương mại, luật gia đình…  Loại kỷ luật này cần thiết để bảo vệ ích chung, nếu không thì sẽ trở nên rối loạn :”Ở đâu mà mỗi người gọi được là tự do  hành động theo ý mình và buông tha theo phóng túng thì hỗn độn mất trật tự nhanh chóng hiện ra lan tràn”(N. Machiavel).

 

          Còn một loại kỷ luật nữa là loại kỷ luật tự nguyện. Đây là kỷ luật cá nhân, mỗi người  tự đặt ra một số kỷ luật để mình giữ không ai bắt buộc như tôi phải đi ngủ và thức đúng giờ, tôi không hút thuốc, không uống rượu, không cờ bạc… Hoặc nghe lời người khác khuyên mà giữ chứ không ai bắt buộc ví dụ như  nghe lời khuyên của bác sĩ nên kiêng thứ này, kiêng thứ kia để khỏi bị tiểu đường, khỏi bệnh gút…

 

          Cũng có những kỷ luật tự nguyện được thực hiện trong tập thể, trong cộng đoàn như những người đi tu sống trong cộng đoàn dòng tu, giữ tu luật  cặn kẽ, hay có những người sống theo tôn chỉ của một tập thể… Tất cả đều nhằm hoàn thiện con người mình và bảo vệ lợi ích chung của tập thể.

 

IV. TƯƠNG QUAN GIỮA TỰ DO VÀ KỶ LUẬT.

 

          Con người hơn con vật ở chỗ có lý trí và tự do; con vật không có hai đặc tính đó. Con người có tự do và chỉ có tự do  để làm chủ được mình hay buông theo thú tính :”Một chiếc ghe trên con sông, có thể hoặc tự do cho trôi theo dòng nước, hoặc chèo ngược, bơi ngang tùy ý. Con người đối với sức lôi cuốn của sự vật cũng một thể. Tự do ở nơi đó và chỉ có bao nhiêu đó mà thôi” (Thiers).

 

          Con người phải sống theo một lý tưởng, phải làm chủ được mình, không chịu để cho sự vật chi phối. Phải làm chủ được mình mới có tự do, bằng không sẽ trở thành nô lệ. Vì vậy, ôâng Denophile nói :”Người ta không tự do một khi không làm chủ được mình”.

 

          Ngày nay nhiều bạn trẻ thích thoát khỏi  hàng rào kỷ luật, họ muốn sống tự do ngoài khuôn khổ theo đòi hỏi của thú tính theo phương  châm “Do as you please”, nghĩa là “Hãy làm những gì bạn thích” hay “Thích là làm”.

 

          Thái độ “Thích là làm” là thái độ căn bản làm nguyên nhân cho mọi thứ tội ác trên thế gian ngày này.

          Vì “thích là làm”, Adong-Evà đã bất chấp lề luật của Thiên Chúa và ăn trái cấm để gieo mầm sự chết cho cả loài người.

          Vì “thích là làm”, Cain giết em mình là Abel để thỏa lòng ghen tức.

          Vì “thích là làm”, Đavít đã ngoại tình với vợ quan Uria và lập mưu giết Uria để che đậy tội ác của mình.

          Vì “thích là làm”, Hêrôđê Cả giết các hài nhi ở Belem và vùng phụ cận với hy vọng tiêu diệt Đấng Thiên Sai.

          Vì “thích là làm”, các luật sĩ, biệt phái và thượng tế Do thái  đã tìm cách giết Chúa Giêsu để khỏi bị người sửa sai.

         

          Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết người ta đang cổ võ thái độ “thích là làm”.

           “thích là làm”, trai gái tự do làm tình chẳng cần hôn nhân.

          Vì “thích là làm”, người ta tự do ngừa thai hay thụ thai nhân tạo, tự do ly dị, tự do phổ biến phim ảnh sách báo khiêu dâm, tự do đồng tính luyến ái, tự do phá thai, tự do giết người êm dịu, tự do nhờ bác sĩ “giúp tự tử”, tự do buôn bán gian dối hay bóc lột nhân công để làm giầu.

 

          Thái độ “thích là làm” ở đây là thái độ bất chấp lề luật của Thiên Chúa, không đếm xỉa gì đến lợi ích của kẻ khác, chẳng lắng nghe tiếng phản đối của lương tâm, và lãng quên phẩm giá của chính mình. Khi sống theo thái độ này, người ta đánh mất nhân phẩm của mình để sống theo thú tính (Phạm quốc Hưng, Trong dòng đời, tr 89).

 

          Thái độ “thích là làm” vô kỷ luật ấy đã đem đến biết bao tại hại cho cá nhân cũng như cho xã hội bất cứ nơi nào.

 

          Tại sao Kenneth Anger gọi kinh đô chiếu bóng Hollywood vừa là một thiên đàng, vừa là một hỏa ngục ?

          Từ nhiều thập niên, Hollywood đã làm cho người ta cười để mà khóc, đem người ta vào sống trong nhung lụa vàng bạc, để rồi chết trần truồng trong nhục nhã thương đau.

          Hollywood là một biển nước mắt ! Cứ lâu lâu lại một câu chuyện tự tử, ám sát, cuồng loạn… rởn tóc gáy.  Những vụ như vụ cô Jeanne Eagels, cô Arlette Duncan, cô Olive Thomas, đạo diễn William Taylor… và mới hồi nào đây, nữ minh tinh Marylin Monroe… ai mà quên đi cho được ?

          Còn ở Việt nam bốn ngàn năm văn hiến của chúng ta thì sao ?

          - Những câu chuyện thương tâm cuồng loạn như vậy đâu có thiếu !  Có phải vì họ thiếu tiền ? thiếu tình ? thiếu cả danh vọng ?

          - Họ chỉ thiếu có một điều : thiếu kỷ luật !  Họ chán đời vì họ đã vượt biên giới của lạc thú, nên bị lạc thú phản công.

                    Say không còn biết chi đời…

                    Nhưng…

                    Trời đất nghiêng ngửa

                    Mà trước mắt thành sầu không sụp đổ”.

                              (Vũ hoàng Chương)

          Say đến nỗi trời đất nghiêng ngửa, mà thành sầu cũng vẫn đứng trơ trơ, không sụp đổ đi được, thôi thì

 

                             Dầu sao bình cũng vỡ rồi

                             Lấy thân mà trả nợ đời cho xong

                                      (Nguyễn Du, Kiều)

 

          Lời cụ lang Hypocrate nói khi bắt mạch người thời đại thượng cổ, đến nay vẫn không sai một ly :“Càng nuôi thân, anh càng làm hại nó” (Vũ minh Nghiễm, Dừng, 1967, tr 53-55).

 

          Theo lời quân tử Aristote, con người ta rất cần lạc thú, vì con người ta rất cần sống. Nhưng triết gia Platon nói :”Lạc thú quá mức sẽ quay giáo phản bội”. Như vậy người ta nói không sai : “Cun cút nó vụt vào lưng” !

 

          Đến đây chúng ta hãy đọc lại lời thánh Phaolô Tông đồ khuyên nhủ tín hữu Côrintô :”Anh em đừng sống theo đam mê xác thịt” (1Cr 16,3). Phải có một nếp sống quân bình, đừng thái quá, đừng bất cập mà ở mức trung bình theo đúng cương vị của mình theo câu châm ngôn bằng tiếng La tinh :”Virtus in medio stat” : nhân đức đứng ở mức trung dung.

 

Truyện : Cái lọ thăng bằng.

 

          Một hôm Đức Khổng Tử vào thăm miếu Hoàn Công nước Lỗ. Thấy một cái lọ nghiêng, ngài nói :

          - Ta nghe nói nhà vua có một vật quí, để dạy đời. Bỏ không thì nó nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng. Nếu quá đầy, thì lại đổ. Vật quí ấy có phải cái lọ này không ?

          Rồi ngài sai học trò đổ nước vào. Quả nhiên, đầy quá, thì lọ đổ. Bỏ không, thì lọ lại nghiêng, đổ vừa thị lọ đứng thẳng.

 

          Lạc thú trên đời cũng thế.

          Không có lạc thú, thì đời sẽ nghiêng ngả rũ tàn như hoa không sương, buồm không gió…

          Nhưng nếu thúc ngựa đuổi theo lạc thú, thì đời ta sẽ bị sụp đổ. Chỉ khi nào biết kính trọng giới hạn của Thiên Chúa đã ấn định cho lạc thú, biết dừng lại sau hàng rào bảo vệ của cửa sổ ngũ quan, ta mới có thể đứng thẳng, hít lấy hạnh phúc vào lồng ngực.

 

          Đến đây chúng ta có thể kết luận : Tự do không có nghĩa là phá bỏ mọi lề luật và muốn làm gì thì làm. Nếu như vậy là sự phóng túng, buông thả chứ không phải là tự do.  Người ta chỉ nói về tự do như một phẩm chất của con người có lý trí chứ không thể nói về tự do của cây cỏ hay chim muông cầm thú, vì chúng không có lý trí mà chỉ sống theo bản năng tự nhiên.

 

          Tự do đích thực nơi con người là thể hiện phương hướng làm điều tốt, hướng về điều tốt, hữu ích và phù hợp với đặc tính hữu lý của con người. Vì bản chất tốt đẹp nơi con người đã bị tổn thương, khuynh hướng ngã về sự thiện đã bị tổn thương vì tội lỗi  nên chúng ta chỉ có thể sống thật khi đặt mình sống như những tạo vật của Thiên Chúa, Đấng tác tạo nên chúng ta và đã ban cho chúng ta sự tự do.

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Giáo xứ Kim phát

Đà lạt

         


Mục Lục