BÀI THỨ 104
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
II. Tôn Vinh Thiên Chúa
‘Khi Chúa Giêsu lên khỏi mặt nước và bắt đầu
cầu nguyện, thì bỗng bầu Trời mở ra và Chúa Thánh Linh ngự xuống trên Ngài dưới
hình chim bồ câu, trong khi đó tiếng từ Trời cao phán: Đây là con yêu dấu của
Ta, Ngài rất đẹp lòng Ta, các con hãy nghe lời Ngài.’
1. Trong quang cảnh đáng ghi nhớ này, mầu nhiệm Ba Ngôi trước kia mới chỉ
được nhìn thoáng qua, nay trở thành hiển nhiên: chính Chúa Cha phán dạy, chính
Chúa Thánh Linh lấy hình bồ câu ngự xuống và cả hai Đấng đều hướng về Ngôi Lời.
Ngôi Lời! Đó là một hối nhân đang cúi
mình trước một người phàm. Thực là một tương phản vô cùng cảm động!
Dĩ nhiên đây không phải là một dấu chỉ tượng trưng hoàn toàn, nhưng hợp
với giác quan chúng ta. Giác quan là con đường tuy mờ tối nhưng qua đó chân lý
thần linh đến với chúng ta. Ở đây Ba Ngôi tỏ ra đại lượng và khôn ngoan khi hạ
mình xuống để thích hợp với trình độ chúng ta: một cụ già oai nghiêm, một chim
bồ câu hiền hòa. Đàng khác, tình yêu thăng hóa mọi sự thấp hèn: người mẹ khi trò
chuyện với đứa con nhỏ dại lại chẳng lựa những lời mà chỉ hai mẹ con mới hiểu đó
sao? Sau này khi được lên Trời, chúng ta sẽ có thêm các cảm quan khác và lúc đó
chúng ta mới hiểu biết được chân lý tinh tuyền và mới chiêm ngắm được chính Ba
Ngôi Thiên Chúa rạng ngời.
2. Nếu đám đông không thấy được tầng Trời và chim bồ câu ngự xuống, thì
ít ra tiếng nói đó cũng vang dội tới tai mọi người[1]. Trong các lần mạc khải, sự
kiện đó không phải là hiếm hoi. Trẽn đường đi Damas, chỉ thánh Phaolô nhìn thấy
bộ mặt chói ngời của Chúa Giêsu, còn các bạn đồng hành với ông chỉ nghe thấy tiếng
nói: ‘Saolô, Saolô, sao con bách hại ta?’
Ở đây đám đông cũng không được chứng kiến cảnh tượng Ba Ngôi xuất hiện, thật là
một điều lạ, tuy nhiên nếu suy ngắm chúng ta sẽ tìm thấy hàm chứa nhiều ý nghĩa
trong đó.
Chúa Giêsu cố tránh những vinh dự. Đó là lối cư xử cố hữu của Ngài. Ngài
đã theo đuổi đường lối đó suốt 30 năm, và chẳng bao giờ quên. Khi biết người ta
đến tìm mình để tôn lên làm vua, thì giữa đêm tối Ngài trốn lên núi. Ở núi
Tabor, Ngài chỉ cho ba chứng nhân thấy vinh quang của Ngài, nhưng lại cấm họ không
được tiết lộ cho tới khi Ngài về Trời. Trong trường hợp chúng ta đang suy ngẫm đây,
Ngài cũng cư xử như thế. Giờ Ngài tỏ mình ra chưa đến. Chúa Giêsu rút lui âm thầm
để người ta khỏi hoan hô và theo Ngài. Đàng khác, Ngài muốn biến cố quan trọng
này thức tỉnh dân chúng: tiếng nói vang lên trong không trung đã thức tỉnh được
lòng người mà không thể tỏ ra mình là ai. Ngược lại, chim bồ câu đỗ xuống trên đầu
Ngài một cách hữu hình đã làm Ngài được mọi người đặc biệt chú ý. Nếu không Ngài
cũng được coi như các hối nhân khác.
Thêm vào bài học khiêm nhường cố hữu đó còn một bài học khác nữa: tất cả
công trình của Thiên Chúa, không được xây dựng trên sự hiển nhiên trực tiếp, nhưng
trên một số chứng cớ nào thôi. Đấy là điều thuộc phạm vi đức tin. Giờ đây chúng
ta cũng tin Chúa Giêsu do chứng cớ của thánh Gioan, cũng như sau này khi Chúa
phục sinh, chúng ta tin vào những bằng chứng của các Tông Đồ.
Đó là lý do tại sao thánh Gioan tẩy giả cũng được tham dự đầy đủ vào thị
kiến này.
ĐIỀU DỐC QUYẾT
1. Cảm tạ Thiên Chúa về mạc khải đầu tiên và
rõ ràng về Ba Ngôi. Thành thật tin kính hình thức Chúa đã dùng để mạc khải.
2. Làm quen với những giới hạn, những bóng tối
thường gặp thấy nơi những cuộc tâm giao thần linh, nhất là trong buổi đầu.
----------o0o---------
[1] Ở đây chúng ta chấp nhận ý kiến cho rằng Chúa Giêsu đã âm thầm đi khỏi
bờ sông