(11 bài đầu)
Tháng Mười lại về, hết vụ Hè Thu tới vụ Đông Xuân. Với lúa ngắn
hạn, trên nhiều cánh đồng các vụ gieo và gặt như gối đầu liên tục, không còn
phân biệt theo mùa truyền thống... Ta lại nhắc nhau trách nhiệm loan Tin mừng
Cứu rỗi cho anh chị em.
Tin mừng đã đến trên quê hương này 480 năm. Một số nhà truyền giáo
thuở đầu đã nhìn truyền thống Đạo Hiếu của phương Đông như một cánh cửa rộng mở
để đưa mọi người và mọi gia tộc về với Thiên Chúa Cha, Đấng là nguồn gốc mọi
gia tộc trên trời dưới đất (x. Ep 3,15).
Thế nhưng rồi cánh cửa đã khép lại. Sau nhiều tranh luận của các
nhà truyền giáo, Tòa Thánh đã quyết định rằng người tín hữu Công giáo phương
Đông chỉ được bày tỏ tâm tình thiêng liêng đối với Ông Bà Tổ Tiên theo phụng vụ Rôma, và phải
ngưng những biểu lộ bên ngoài theo truyền thống văn hóa địa phương. Suốt hơn
200 năm, người Công giáo đành mang tiếng "theo Đạo là bỏ Ông bỏ Bà"
để giữ một đức tin tinh tuyền, chưa kể sự ngộ nhận ấy còn góp phần khiến cơn
bách hại thêm khốc liệt.
Năm 1964, Toà Thánh áp dụng cho người Công Giáo Việt Nam huấn
thị Plane Compertum est đã đề ra cho Giáo hội tại Trung
Hoa năm 1938, chấp thuận cho người tín hữu Á Đông được thờ cúng ông bà theo lối
xưa. Ngày 14-6-1965, Hội Đồng Giám Mục Việt
Cho tới nay sự giải tỏa đã được gần 50 năm, người Công
giáo Việt Nam đã mò mẫm từng bước để hội nhập lại vào một truyền thống bị gián
đoạn đã quá lâu đời. Nhiều luận văn của sinh viên Công giáo và nhiều sách báo
đề cập vấn đề này cũng như nhiều sáng kiến thực hành đã giúp hóa giải được phần
nào ngộ nhận nói trên.
Nhân dịp sắp đến kỷ niệm 50 năm việc áp dụng huấn thị Plane
compertum est, tôi cũng muốn được đóng góp cho anh chị em đồng đạo một kinh
nghiệm kiếm tìm và một số minh họa, mong phần nào gợi hứng để các bạn trẻ Công
giáo dấn thân cho mối liên kết dòng họ bên nội và bên ngoại của chính mình. Sau
nữa, tôi cũng mong được chia sẻ với đồng bào ngoài Công giáo những nỗi khó khăn
và những xác tín sâu xa của người Công giáo trên đường về với nguồn cội. Chắc
hẳn những chia sẻ chân thành cũng ôm theo nhiều vụng về, đôi khi thái quá hoặc bất
cập, mong được mọi người rộng lượng cảm thông và góp ý.
Tháng Mười mở đầu với lễ Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, vị thánh
gắn liền với giấc mơ Loan báo Tin mừng cho người Việt, và cũng là vị thánh được
nâng niu giữa tình gia đình và tình gia tộc. Xin ký thác cho Chị loạt bài này
như một phương án mới, một con đường giản dị để đến với anh chị em lương dân và
đưa họ đến với Chúa, không còn phải là con đường lẻ loi của từng người hay từng
gia đình nhưng là một con đường hành động tập thể: con đường dòng họ, họ Nguyễn
cho họ Nguyễn, họ Lê cho họ Lê, họ Trần cho họ Trần, họ nào truyền giáo cho họ
nấy.
Có thể là sẽ không kết thúc
được với Tháng Mười, phải kéo dài sang tháng Mười Một. Tuy nhiên như vậy cũng
có cái hay, để nói rằng tháng Mười chỉ là một khởi điểm để đưa sứ vụ loan báo
Tin mừng đi vào cuộc sống chứ không phải chỉ là tháng để hô hào suông. Một số
đoạn trích lại từ quyển "Về Với Cội Nguồn", Nxb PĐ 2012. Độc giả nào
muốn, có thể xem toàn văn quyển sách tại:
http://gpquinhon.org/qn/news/nuoc-man/Ve-voi-coi-nguon-633/#.UhHDl9IvnqE
Mọi góp ý xin gửi về: tinmunggiesu@gmail.com.
Lm TRĂNG THẬP TỰ VÕ TÁ
KHÁNH
Tự bản thân, Đạo Hiếu rất gần với Đạo Chúa. Đang khi một số tôn
giáo Á Đông tin luân hồi, cho rằng con người chết rồi đầu thai hóa kiếp thành
loài này loài khác thì Đạo Hiếu dạy rằng linh hồn Ông Bà Tổ Tiên bất tử, linh
hiển và gần gũi con cháu. Đạo Hiếu và Đạo Chúa có chung một niềm tin linh hồn
bất tử, tiếc thay, đã gặp một sự hiểu lầm suốt mấy thế kỷ.
Hoàn cảnh thế kỷ XVII đã khiến một số nhà truyền giáo ngộ nhận, cho
rằng việc thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là một tôn giáo, trong đó tổ tiên được
coi như những vị thần. Ngộ nhận này một phần là do chưa nghiên cứu cặn kẽ:
- Nhiều vị tưởng rằng khi cúng lễ gia tiên, gia chủ phải đọc những
lời thần bí rất tỉ mỉ. Thật ra, gia chủ không tụng kinh (đọc lớn một công thức)
cũng không niệm kinh (đọc thầm) mà chỉ nói với tổ tiên của mình như một đứa con
nói với người cha hiện đang còn sống, trong ngôn ngữ thông thường.
- Nhiều vị tưởng chữ "lễ" trong lễ gia tiên có cái ý
nghĩa nguyên thủy của nó là "các quy tắc của các lễ nghi tôn giáo".
Thật ra, chính Đức Khổng Tử đã giải thích chữ "lễ" theo một nghĩa
khác. Theo ngài, các "lễ" hoặc các nghi thức chỉ là phương tiện cho
người quân tử dùng để xử kỷ tiếp vật trong mỗi tình huống cuộc sống. Chúng nêu
rõ cách ứng xử người ta phải có trong nhà, ngoài phố, ở triều đình, ở các lễ
hội; chúng bộc lộ ra bên ngoài những tình cảm bên trong mà người ta cảm thấy
trong tình huống này hoặc tình huống nọ. Vậy, các nghi thức chỉ là những quy
phạm của phép xã giao, các quy tắc phép lịch sự mà mục đích gần nhất là giáo
hóa con người. Đó là những quy luật của "lễ phép xã hội", như chính
Khổng Tử nói, khiến ngày qua ngày người ta đến gần điều thiện và tránh xa điều
ác mà không ngờ. Nghi thức khi cúng gia tiên cũng mang ý nghĩa ấy, chỉ là những
lễ phép bày tỏ lòng kính trọng quý mến đối với tổ tiên mình.
- Lý do mạnh nhất đẩy Giáo Hội đến chỗ chấp nhận theo một thái độ
ngờ vực đối với sự thờ cúng tổ tiên, chính là vì một số người tin rằng vong hồn
của những người chết ở trong các bài vị, và người ta ghi rõ "đây là nơi ở
của hồn (ông A, bà B)", cách riêng là ở trong tấm lụa đặt trước bài vị,
được gọi là "hồn bạch", thường là tấm lụa đã phủ trên khuôn mặt người
hấp hối và được cho là hồn đã nhập vào đó. Tuy nhiên đó chỉ là tin tưởng sai
lạc của một số người. Theo những tin tưởng chính thống của người Hoa cũng như
người Việt, sau khi chết, con người được coi như đã vĩnh viễn rời bỏ cõi đời
này để an nghỉ ở cõi "suối vàng". Tại các từ đường, người ta chỉ giữ
lại bài vị của năm đời, còn các bài vị của những thế hệ xưa được đem chôn. Nếu
thật người ta tin bài vị là nơi hồn nương tựa thì sẽ không chôn như thế, vì
không còn bài vị, những hồn ấy sẽ ở đâu? Vả lại, ngày nay, các gia đình dễ dàng
thay thế các bài vị bằng những bức chân dung, cho thấy họ không nghĩ rằng linh
hồn các bậc tổ tiên ở trong các bài vị. Nếu hồn không ở trong các bài vị thì
vai trò của các bài vị ấy là gì? Dưới con mắt của người Hoa cũng như là người
Việt, ít ra là của các nhà nho, các bài vị chỉ có mục đích duy nhất là để nhắc
nhở người sống tưởng nhớ những người đã khuất.
Có những nhà truyền giáo cho rằng việc thờ cúng Ông Bà là một tôn
giáo nhưng lại có những nhà truyền giáo khác khẳng định rằng người Việt không
bao giờ xem tổ tiên của họ là "những vị thần", cũng không bao giờ xem
cha mẹ họ là "những vị thần tương lai" (Chỉ một số nhỏ tiền hiền ở
các địa phương được các triều vua phong thần làm "thành hoàng" của
làng xã, với cái nhìn tương tự như các thánh bổn mạng trong Kitô giáo chứ không
phải là những vị thần đúng nghĩa). Đã đành là có bàn thờ dành cho Tổ tiên và Tổ
tiên là đối tượng của một sự phụng tự nhưng phụng tự này chẳng là gì khác hơn
một phụng tự tưởng nhớ, khác với sự thờ Trời. Do đó có thể kết luận ngay rằng
sự thờ cúng tổ tiên không phải là một tôn giáo theo nghĩa đen của từ này (Chúng
ta vẫn thường được nghe trả lời như sau: "Chúng tôi chỉ thờ cúng ông bà
chứ không theo đạo nào cả."). Hơn nữa, khi truyền bá sự thờ cúng này,
người xưa (cụ thể như Đức Khổng Tử) nhắm thiết lập những mối liên hệ xác thực
giữa những người sống và những người chết, củng cố sự liên đới giữa các thế hệ
và phát huy kỷ luật xã hội, tức là chỉ vì những mục tiêu xã hội và chính trị
chứ không hề có ý tưởng tôn giáo nào.
Ta cứ giả thiết như việc thờ cúng này bắt đầu có ý nghĩa từ khi có
loài người, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai chữ "thờ" ấy. Con cháu thờ
ông bà, thế hệ sau thờ thế hệ trước. Còn người đầu tiên của loài người thờ ai?
Dĩ nhiên họ chỉ thờ Thiên Chúa. Hai chữ thờ đó khác nhau trời vực. Thờ Thiên
Chúa là tâm tình của thụ tạo lệ thuộc Tạo Hoá, tùng phục Ngài một cách tuyệt
đối và yêu mến Ngài với trọn tình con. Còn thờ tổ tiên là tưởng nhớ người xưa
và cố gắng không làm ô danh người xưa.
Thế nhưng trong thực tế, đối với nhiều người, các nghi lễ dành cho
tổ tiên cũng dần dần mang thêm một ý nghĩa tôn giáo. Người ta đi đến chỗ thờ tổ
tiên như thần thánh, và có khi dành cho tổ tiên một tâm tình thờ phượng tuyệt
đối như thờ phượng Thiên Chúa. Chính đây là điều không thể nào đi đôi với giáo
lý Kitô giáo. Chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và chân thật. Không thể thờ bất cứ
thụ tạo nào như Thiên Chúa được.
Nghi lễ thờ cúng ông bà ở các thế kỷ trước quả thật có bị lây nhiễm
một số tin tưởng sai lạc đáng ngại. Chẳng hạn, tin rằng hồn ông bà về hưởng của
cúng. Người ta sợ rằng không cúng tế thì hồn người chết sẽ đói khát, không đốt
vàng mã thì hồn người chết không có tiền tiêu. Những tin tưởng sai lạc như thế
cũng không thể đi đôi với giáo lý Kitô giáo.
Ngoài ra còn có những mê tín khác.
Các nhà truyền giáo đã tranh luận hết sức nghiêm túc qua nhiều năm,
một bên cho rằng những sai lạc trên đây có thể điều chỉnh được, một bên cho là
khó lòng thay đổi được não trạng của dân chúng. Cuối cùng, để bảo đảm cho niềm
tin của tín hữu được tinh ròng, Giáo Hội đã quyết định rằng người Công Giáo chỉ
được tôn kính tổ tiên theo cách Giáo Hội quen làm, chứ không được thờ cúng theo
hình thức cổ truyền địa phương. Giáo Hội biết đây là một chọn lựa phải trả giá
đắt, rất bất lợi cho công cuộc truyền giáo. Trước khi có quyết định ấy, số
người hưởng ứng Đạo Chúa tại Việt Nam càng lúc càng đông, cả đến trong triều
đình vua Lê cũng có nhiều người theo Đạo. Việc cấm thờ cúng tổ tiên theo lối cũ
đã khiến người ta tẩy chay tôn giáo mới, thậm chí đã thành một trong những lý
do biện minh cho các cuộc bách hại của nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn và chiến dịch
Văn Thân. Đã hẳn việc cấm thờ cúng nói đây có phần do ngộ nhận nhưng dù sao nó
cũng cho thấy đức tin Kitô giáo phải là một chọn lựa quyết liệt đến mức nào.
Mãi đến thế kỷ 20, khi Đạo Hiếu không còn bị ngộ nhận là một tôn
giáo và những tin tưởng sai lạc cũng không còn phải là chuyện chung của quảng
đại quần chúng, năm 1964, Toà Thánh đã chấp thuận cho người Công Giáo Việt Nam
được thờ cúng ông bà theo lối xưa. Ngày 14-6-1965, Hội Đồng Giám Mục Việt
Sau phần đầu nhắc lại mấy nguyên tắc về thái độ của Giáo Hội đối
với nền văn hoá và truyền thống của dân tộc, bản thông cáo nói đến thể thức áp
dụng Huấn thị "Plane compertum est" đã được Toà Thánh đã đề ra cho
Giáo hội tại Trung Hoa năm 1938. Nguyên văn:
1. Nhiều hành vi, cử chỉ xưa, tại Việt Nam, có tính cách tôn giáo,
nhưng nay vì tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình tập quá đã thay đổi nhiều,
nên chỉ còn là những cách biểu lộ lòng hiếu thảo tôn kính đối với tổ tiên và
các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái độ, nghi lễ có tính cách thế tục,
lịch sự và xã giao ấy, Giáo Hội Công Giáo chẳng những không ngăn cấm mà còn
mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng các cử chỉ riêng biệt của
mỗi nước, mỗi xứ, và tuỳ theo trường hợp.
Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó hoặc do hoàn cảnh,
có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc, lòng hiếu thảo, tôn
kính, hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ (như treo ảnh, hình,
dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng đèn hoa, tổ chức ngày kỵ giỗ) thì được
thi hành và tham dự cách chủ động.
2. Trái lại, vì có nghĩa vụ bảo vệ cho đức tin công giáo được tinh
tuyền, Giáo Hội không thể chấp thuận cho người tín hữu có những hành vi, cử chỉ
hoặc tự nó hoặc do hoàn cảnh, có tính cách tôn giáo trái với giáo lý mình dạy.
Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo không phù hợp với giáo
lý công giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng tùng phục và sự lệ thuộc của
mình đối với một thụ tạo như là đối với Thiên Chúa) hay những việc dị đoan rõ
rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những nơi dành riêng cho việc tế tự (của
các tôn giáo khác)... thì giáo hữu không được thi hành và tham dự. Trong trường
hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động, như đã ấn định trong giáo
luật khoản 1258.
3. Đối với những việc mà không rõ là thế tục hay tôn giáo thì phải
dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo dư luận dân chúng địa
phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn giáo (ngoài Kitô
giáo) mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như không trái với đức
tin, nên được thi hành và tham dự.
Trong trường hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng
lương tâm lúc ấy: nếu cần thì phải giải thích chủ ý của mình một cách thật khéo
léo, hợp cảnh, hợp thời. Sự tham dự cũng chỉ được có tính cách thụ động.
Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải dựa vào mà xét đoán
theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi người liên hệ không
được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của Toà Thánh, và sẽ bàn
hỏi với các giáo sĩ thành thạo.
Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải thích tường tận thông cáo
này không những trong những nhà thờ mà cả mỗi khi có dịp, không những cho anh
em giáo hữu mà cả cho người ngoài công giáo.
Loạt bài này khá dài, những ai không có giờ, chỉ cần đọc bài này và
một vài bài kế tiếp. Những ai muốn nhặt nhạnh thêm kinh nghiệm có thể đọc tiếp
những điều Chúa đã cho tác giả trải nghiệm hơn 20 năm qua, giúp hiểu ý nghĩa
một trào lưu văn hóa và vận hội nó đang đem lại cho sứ vụ loan Tin mừng của
Giáo hội.
Việc thực hành rất đơn giản, bất cứ giáo xứ hay giáo họ nào cũng
làm được.
Sau tết Quý Tỵ 2013 vừa qua tại giáo xứ Song Mỹ thuộc giáo phận Nha
Trang, một số bạn trẻ họ Võ đã có sáng kiến xin cha sở một thánh lễ cầu nguyện
cho những người cùng họ còn sống và đã qua đời. Với bức tâm thư trang trọng gửi
đến mọi gia đình họ Võ trong giáo xứ, đã có trên 100 người đến dự lễ. Sau thánh
lễ hơn 50 người đã ở lại gặp nhau tại hội trường giáo xứ. Họ chia sẻ tâm tình
thật chan hòa rồi thảo luận sôi nổi và đi đến bốn quyết định: Thứ nhất, đề cử
ra một ban liên lạc họ Võ Công giáo của giáo xứ; thứ hai, mỗi lần có người họ
Võ trên địa bàn giáo xứ qua đời, sẽ tặng một vòng hoa phúng điếu ghi dòng chữ:
"Ban Liên lạc họ Võ Công giáo giáo xứ Song Mỹ thành kính phân ưu";
thứ ba: anh chị em đồng tộc Công giáo sẽ nhắc nhau sống tốt hơn để khỏi phụ lòng
bà con đồng tộc ngoài Công giáo; Thứ tư: Từ đây về sau, mỗi năm tới ngày này,
đều xin lễ như thế và mỗi gia đình họ Võ Công giáo sẽ mời một gia đình họ Võ
người lương đến dự thánh lễ. Có thể lắm người được mời sẽ không đến nhưng nhiều
người khác sẽ đến. Họ sẽ hiểu thế nào là gia đình con cái Chúa, sẽ hiểu cách
người Công giáo tôn kính và cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.
Điều nhóm anh chị em ấy đã làm, thiết tưởng bất cứ nhóm đồng tộc
nào tại mỗi giáo xứ, dù đông người hay ít người, cũng đều có thể làm được. Sau
bao năm ly loạn, khi hòa bình lập lại, đa số người mình, lương cũng như giáo,
hiện không còn gia phả, không còn từ đường, lắm khi không còn nhớ ngày giỗ của
dòng họ mình. Thế nhưng khi ta nhận biết Thiên Chúa là Cha, Ngài đã cho lại
chúng ta tất cả và còn hơn thế nhiều. Không còn gia phả, nhưng chúng ta biết rõ
mình là anh em con một Cha trên trời. Không còn từ đường nhưng chúng ta lại có
chung một nhà Chúa là từ đường của muôn dân, bởi lẽ hai chữ từ
đường trong tiếng Hán dịch sang tiếng Việt không gì khác hơn là nhà
thờ. Có thể không còn nhớ ngày giỗ của dòng họ nhưng chúng ta có ngày
lễ của những vị thánh tử đạo cùng dòng họ. Trong số các thánh tử đạo người
Việt, có 28 vị ta không rõ thuộc họ nào; còn 69 vị khác thuộc về 17 dòng họ: họ
Bùi (2), họ Đặng (1), họ Đinh (3), họ Đỗ (3), họ Đoàn (3), họ Hà (2), họ Hồ
(1), họ Hoàng/Huỳnh (1), họ Lê (7), họ Nguyễn (24), họ Phạm (5), họ Phan (3),
họ Tạ (1), họ Tống (1), họ Trần (4), họ Trương (2), họ Vũ/Võ (6).
Thử hình dung xem, mỗi năm trong mái ấm từ đường của trăm họ tại
giáo xứ liên tiếp có ngày giỗ Công giáo của họ Lê, họ Nguyễn, họ Phạm, họ Phan,
họ Trần, vv… và các bà con đồng tộc người lương cùng đến dự. Rồi tới ngày tế
hiệp của họ, họ lại mời các đồng tộc Công giáo và cả vị thủ từ của từ đường
muôn dân là cha xứ đến dự. Dòng họ là con đường thật hồn nhiên để ta đến với
anh em và đưa anh em đến với Chúa. Ta có những cơ hội tốt nhất để giải thích
cho bà con lương dân hiểu giáo lý của Hội Thánh Công giáo về Đạo Hiếu và việc
thờ cúng Tổ Tiên để giúp họ nhận biết và thờ phượng Cội Nguồn muôn đời muôn
thuở là Cha trên trời.
Từ năm này sang năm khác, sự giao lưu gặp gỡ lương giáo sẽ ngày
càng thêm dày và thêm thân tình. Chắc hẳn sau năm, bảy năm, không ít người sẽ
nhờ đó mà nhận được ơn đức tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu.
Với hy vọng ấy, tôi tha thiết mời quý độc giả, mỗi người hãy gặp gỡ
những người Công giáo cùng dòng họ trong giáo xứ, trao đổi và thảo luận xem sẽ
bắt đầu công việc như thế nào. Họ nào loan Tin mừng cho họ nấy: Rủ nhau sống
tốt, hẹn nhau trong một thánh lễ truyền thống hằng năm, và mời bà con đồng tộc
người lương cùng đến dự.
Dĩ nhiên việc gieo trồng không kém phần vất vả nhưng rồi mùa gặt
đến, giọng hân hoan, mặt rạng rỡ, ta sẽ ôm những bó lúa trĩu nặng trên tay mà
trở về trong tiếng hát tạ ơn vì những bà con cùng dòng họ với mình và cả nhiều
anh chị em khác đã trở nên con cái Chúa. Cúi xin Chúa chúc lành cho những ước
mơ đang lớn dậy trong lòng chúng ta.
Ngày truyền thống đồng tộc Công giáo mở ra một cánh cửa giao lưu,
để ta có thể mời anh chị em đồng tộc người lương đến với mái từ đường của trăm
họ. Tình thân cần được tiếp nối qua sự thăm viếng. Giáo xứ nào cũng có những
nhóm thăm viếng các bệnh nhân, người neo đơn hoặc già cả. Giờ đây, sẽ thêm một
đối tượng nữa là những gia đình có thiện cảm với Đạo Chúa qua việc tham dự ngày
truyền thống đồng tộc tại nhà thờ Công giáo. Mỗi lần đi ngang nhà, ta nhớ ghé
thăm.
Câu chuyện có thể không bao giờ cạn là chuyện chia sẻ những thông
tin về gia phả. Sau chiến tranh hầu hết chứng từ bị mai một, việc dựng lại gia
phả riêng từng cụm từng nhóm lắm khi hết sức khó, khiến nhiều người nản lòng bỏ
cuộc. Việc tìm tòi liên hệ nói kết giữa những nhánh đã đứt đoạn hằng thế kỷ và
đã trôi dạt tới những địa phương khác nhau, mặc dù lý thú, càng là chuyện chẳng
có mấy hy vọng.
Xưa gia phả dòng họ thường được bảo quản trong một hộp sơn son thếp
vàng đặt trên bàn thờ của từ đường. Hằng năm vào dịp tế đầu xuân (xuân thủ)
hoặc dịp giỗ chung của gia tộc, người ta thỉnh gia phả xuống và ghi tên những
người đã khuất trong năm qua. Việc chép gia phả gắn liền với ngày giỗ chung,
cho nên khi việc cúng giỗ đứt đoạn, gia phả cũng đứt đoạn.
Bên cạnh những khó khăn vì chiến tranh ly loạn, còn có một khó khăn
đến từ tấm lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên. Ngay cả khi ở từ đường
vẫn còn gia phả ghi rõ tên vị thủy tổ, phần đông trong gia tộc vẫn không biết
vị thủy tổ tên gì, chỉ vì các thế hệ con cháu hết sức kính trọng tên của tổ
tiên, không bao giờ nhắc tới. Đàng khác, gia phả được ghi bằng cổ văn và cổ tự,
con cháu có mở ra cũng không đọc được.
Tòa Thánh đã giải tỏa lệnh cấm về việc thờ cúng Tổ Tiên từ nửa thế
kỷ, nhưng mãi đến nay, thành kiến "theo Đạo bỏ ông bỏ bà" vẫn chưa
được gột sạch. Để hóa giải những hiểu lầm đã quá ăn sâu, thiết tưởng người tín
hữu Công giáo cần nhập cuộc vào nỗ lực tìm nguồn cội của dòng họ mình. Mất gia
phả là thảm trạng chung cả cho người lương lẫn người giáo. Bao nhiêu năm chiến
tranh loạn lạc, nay ít gia tộc còn giữ được gia phả lâu đời. Do thời thế đổi
thay, nhiều bi ký, bút tích và sử liệu đã thành tro bụi, những chứng cứ tìm
được thật hiếm hoi, không đủ rọi sáng những khoảng tối và những tồn nghi lịch
sử. Người ta đành hài lòng với những suy diễn và phỏng đoán. Chẳng ai nỡ trách
ai.
Một giải đáp chung hiện đang được các gia tộc cố gắng làm xong sớm,
là chuyển các bản gia phả bằng Hán Nôm sang chữ quốc ngữ. Càng ngày số người
thông thạo Hán Nôm càng hết sức hiếm hoi, việc chuyển dịch các gia phả sang
quốc ngữ càng trở thành một việc khẩn cấp. Đó là những đề tài mà những ai quan
tâm tới cội nguồn có thể nói mãi không hết.
Một phương tiện khác là hỏi han chia sẻ qua điện thoại. Nếu ta có
lòng với người đồng tộc, thì sẽ sớm có hàng chục và hàng trăm số điện thoại.
Nếu máy có 2 sim, ta cho những số điện thoại này vào một sim. Nếu chỉ có một
sim, nên lưu rõ cả họ và tên để máy sẽ tự động xếp những người đồng tộc vào một
chuỗi. Khi liên hệ đồng tộc vượt ranh giới làng xã, cũng cần ghi thêm vài chi
tiết sau tên của mỗi người, để khi họ gọi đến, ta nhận ra ngay đó là ai.
Câu chuyện về gia phả có thể giúp bạn nhập đề vào Tin mừng của Chúa
rất sớm, bởi lẽ câu đầu tiên của bộ Tin mừng bàn về gia phả: “Sách gia phả của
Đức Giêsu Kitô…”
Tùy lúc, câu chuyện về gia phả có thể là thông tin vắn tắt qua điện
thoại, hoặc chia sẻ tại bàn ăn, mạn đàm bên tách cà phê.
Bản gia phả Mátthêu giúp ta trình bày thật hồn nhiên phần lịch sử
ơn cứu rỗi từ ông Abraham tới Chúa Giêsu, với 42 đời, được Thánh Matthêu tỉ mỉ
ghi chú là 3 lần 14, tức là 6 lần 7 đời, và gián tiếp nói rằng chỉ một mình
Chúa Giêsu là bộ bảy thứ bảy, là đỉnh cao và là sự toàn bích…
Người nghe sẽ rất lý thú khi được biết bản gia phả thứ hai của Chúa
Giêsu Kitô, ghi trong sách Luca, phăn ngược lên đến tận Ađam: “Ađam bởi Thiên
Chúa”. Thiên Chúa là Cội Nguồn của mọi cội nguồn.
Điều ấy đem lại an ủi cho những người gốc họ này nhưng nhiều thế hệ
qua đã mang một họ khác. Người ta không còn bị hụt hẫng vì chuyện cải họ. Dù có
chuyện cải họ hoặc dù chỉ phục hồi gia phả được một số đời ít ỏi, thì ta vẫn
biết chắc chắn rằng có một Thiên Chúa duy nhất là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là
Cha chung hết mọi người. Bốn bể là anh em vì tất cả đều là con cái của cùng một
Cha trên trời.
Về điểm này, có một chi tiết cần lưu ý. Hiện đang nở rộ trào lưu
nói về Cha Trời của những người hòa đồng tôn giáo. Ngôn từ có vẻ giống nhau
nhưng sự thật hoàn toàn khác. Nơi mạc khải Kitô giáo, ta được biết Thiên Chúa
là Cha chính là nhờ được Con một Ngài là Đức Giêsu Kitô đến tỏ cho biết (Ga
1,18). Chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha chính là nhờ Đức Giêsu Kitô ban
Thánh Thần để Thánh Thần thốt lên trong lòng ta: “Abba!”, thân thiết như em bé:
“Ba ơi, Bố ơi!”. Thiên Chúa Cha nơi Kitô giáo không lẻ loi một mình nhưng hiệp
nhất với Con Ngài và Thánh Thần Ngài thành Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi.
Lần giở Kinh Thánh, ta sẽ thấy lý thú về chuyện gia phả. Đang khi
những bản gia phả nhân loại chưa được 200 năm hầu hết đều đã tan vào hư vô thì
những bản gia phả cổ trong bộ Kinh Thánh đã hơn 3000 năm qua vẫn được bảo trì.
Nơi quyển đầu tiên của bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế Ký, bản gia phả ở 11 chương
đầu mang tính dã sử. Từ chương 12 trở đi, câu chuyện bắt đầu với một người đồng
thời với các vua Hùng đầu tiên của ta là ông Abraham. Ta chỉ biết về các Hùng
Vương ở con số 18 vị vua, mấy ai biết được tên 18 vị vua ấy. Lạc Long Quân, Âu
Cơ, Lục Tộc, Hùng Vương Thứ Sáu, Tiết Liêu, Hùng Vương Thứ Mười Tám, Mỵ Nương,
Sơn Tinh, Thủy Tinh… Tất cả những truyền thuyết ấy lãng đãng mơ hồ… được kể lại
theo truyền khẩu vỏn vẹn trong dăm trang. Đang khi đó, ông Abraham đã trở thành
một gia tộc rồi một dân tộc, với những trang gia phả chính xác. Chỉ bốn thế hệ
đầu tiên của lịch sử ơn cứu rỗi đã lấp đầy gần bốn mươi chương của sách Sáng
Thế Ký, từ chương 12 đến chương 50. Nhờ đâu mà những trang gia phả ấy và cả bộ
sách Kinh Thánh dày cộm được bảo tồn không suy suyễn qua thời gian đằng đẵng?
Một sự kiện khác cũng dễ khiến người nghe phải suy nghĩ: Người ta
thường trân trọng những nguồn cội biết được cách bấp bênh qua những trang phả
liệu mù mờ, đang khi ấy nguồn cội đầu tiên mà Kinh Thánh giới thiệu vẫn sờ sờ
nơi cuộc sống thường nhật thì người ta lại thản nhiên gạt bỏ.
Những người rao giảng về Cha Trời bảo rằng
Cha Trời giáng cơ dạy người ta ghi lại những bài giáo lý. Sách Koran của Hồi
giáo cũng bảo rằng Đấng Allah đọc cho Tiên tri Mahômét viết lại những lời Ngài
dạy. Đang khi đó, Kinh Thánh của Do Thái giáo và Kitô giáo thì khác. Đây là câu
chuyện về một gia đình, một gia tộc rồi một dân tộc và cả nhân loại. Thiên Chúa
can thiệp vào lịch sử rồi sau đó mới cho người viết lại lịch sử ấy để giúp mọi
người hiểu Ngài yêu thương nhân loại và yêu thương mỗi người tới mức nào.
Từ câu chuyện gia phả, ta nên sớm giới
thiệu cho người ta quyển Kinh thánh, cả Cựu ước và Tân ước, đồng thời tóm tắt
cho họ nội dung Kinh Thánh sau đây để họ có thể đọc Kinh thánh với tâm trạng
hồn nhiên của một người đi tìm sự thật.
Thiên
Chúa đầy tình yêu thương đã tạo nên mọi loài mọi vật để chúng chia sẻ sự tốt
lành của Ngài. Cách riêng, Thiên Chúa đặc biệt yêu thương con người. Ngài đã
tạo nên họ giống hình ảnh Ngài, ban cho họ có khả năng nhận biết và yêu mến
Ngài, đồng thời đặt họ làm chủ mọi thụ tạo trên trái đất để họ cai trị và sử
dụng chúng mà ngợi khen Ngài.
Tiếc
thay, con người không vâng phục Thiên Chúa. Con người muốn đi tìm một thứ hạnh
phúc ngoài Thiên Chúa. Hậu quả là tình nghĩa với Thiên Chúa bị cắt đứt, con
người phải xa lìa Thiên Chúa, bị đau khổ, phân rẽ, và cuối cùng là phải chết.
Tuy nhiên, Thiên Chúa đầy yêu thương vẫn không bỏ mặc con người trong nỗi tuyệt
vọng. Ngài hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến để cứu vớt con người.
Để
thực hiện lời đã hứa, Thiên Chúa đã chọn cụ Abraham để qua ông, Ngài gầy dựng
một dân tộc là dân Israel, chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời. Qua Môsê, Thiên
Chúa đã cứu dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, trong biến cố Vượt qua và Xuất
hành, cũng qua Môsê, Thiên Chúa còn ban cho
dân Israel Giao ước và Lề luật để họ trở thành dân riêng của Ngài. Qua các ngôn
sứ, Thiên Chúa dạy dỗ họ đón nhận Đấng Cứu Thế.
Khi
tới giờ đã định, Thiên Chúa đã cho Đấng Cứu Thế ra đời. Chúa Giêsu Kitô, Đấng
Cứu Thế, chính là Con Một của Thiên Chúa đã trở thành con người để làm cho ta
trở thành con Thiên Chúa. Ngài đã đến sống giữa chúng ta để cho ta biết tình
thương của Chúa Cha và để dẫn đưa chúng ta về cùng Chúa Cha trong một gia đình
là gia đình con cái Thiên Chúa, tức Hội Thánh. Ngài đã chết để hoà giải ta với
Thiên Chúa, và đã sống lại để ban cho ta sự sống mới làm con Thiên Chúa.
Sau
khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Cha và Chúa Giêsu đã gửi Chúa Thánh Thần đến, để
hướng dẫn Hội Thánh tiếp tục công việc của Chúa Giêsu, mà đem ơn cứu rỗi đến
cho mọi người bằng lời rao giảng và việc cử hành các bí tích. Chúa Thánh Thần ở
với ta, làm cho ta được kết hợp nên một với Chúa Giêsu. Ngài soi sáng và thúc
đẩy ta sống mến Chúa yêu người như Chúa Giêsu dạy, để ta xứng đáng là con cái
Cha trên trời, theo như chương trình yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho ta.
Cùng với mọi người trong Hội Thánh, ta góp phần hoàn tất
lịch sử, đợi ngày Chúa Giêsu tỏ bày vinh
quang của Ngài và của những người
được cứu chuộc. Ngày ấy Chúa Giêsu sẽ tiếp thu mọi sự, biến đổi thành vũ
trụ mới mà dâng lên Thiên Chúa Cha.
Qua
ba giai đoạn mặc khải, dần dần ta được biết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần là Ba Ngôi Thiên Chúa. Cũng nhờ Thiên Chúa mặc khải, ta biết Ba Ngôi khác
nhau ấy hợp nhất thành một Thiên Chúa mà thôi. Đó là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba
Ngôi.
Kinh Thánh không phải là một quyển sách
giáo khoa nêu nguyên tắc rồi hướng dẫn áp dụng thực hành. Nó là quyển sách ghi
lại công trình tình thương của Thiên Chúa, qua một lịch sử chưa hoàn thành
nhưng đã có đoạn kết. Nó được hình thành từ cuối thế kỷ 13 trước Công nguyên và
kết thúc đầu thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, do hằng trăm ngòi bút thuộc những
trình độ và thời đại khác nhau họp lại, mà đọc xong lại thấy từ đầu tới cuối
hết sức thống nhất, chẳng khác nào một tác phẩm do cùng một người phác thảo và
thực hiện, do cùng một người đề ra ý chính, các phần đoạn của thân bài rồi viết
từ nhập đề đến kết luận.
Điều đó
cho thấy Kinh Thánh được thực hiện do một tác giả thần linh vượt trên toàn bộ
lịch sử. Tác giả đích thật ấy là chính Thiên Chúa, còn tất cả những người đã
cống hiến tài năng chấp bút diễn tả chỉ là những dụng cụ.
Một khi
đã quen, bạn sẽ từ câu chuyện đang nói để chuyển sang Kinh Thánh rồi lại từ
Kinh Thánh chuyển sang cuộc kiếm tìm của bạn và người đồng tộc.
Trong lịch sử, việc thờ cúng tổ tiên theo truyền thống Việt
Thà đui giữ lấy đạo nhà,
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Đang khi đó người Công Giáo thì chọn lựa ngược lại. Có đến trên
130.000 Kitô hữu đã chấp nhận chết vì dành cho đạo hiếu đối với Cha Cả trên
trời sự ưu tiên vượt trên đạo hiếu đối với tổ tiên dưới đất.
Phía trên bàn thờ gia tiên của nhiều gia đình Công Giáo có trưng
bày ảnh các Thánh Tử Đạo Việt
Trước kia, khi các vị Tử Đạo Việt Nam chưa được tuyên phong hiển
thánh, chỉ có một lời nguyện cho nội bộ Giáo Hội Việt Nam, vỏn vẹn ba dòng
nhưng hết sức sâu sắc về Đạo Hiếu. Trong dịp phong thánh, khi viết bộ lễ Các
Thánh Tử Đạo Việt
"Lạy Chúa, Chúa đã làm cho xuất hiện trên toàn cõi Việt
Chỉ vài dòng ngắn ngủi đủ ghi lại cả một lịch sử bi hùng và lý do
sâu xa nhất cho việc tuyên xưng đức tin của người Công Giáo Việt
Không hiểu tại sao lời nguyện ấy lại khác với lời nguyện trong sách
lễ Rôma tiếng Anh và tiếng Ý, có thể dịch như sau: "Lạy Thiên Chúa là
nguồn gốc mọi tình phụ tử, Cha đã giữ cho Thánh Anrê và các đồng bạn tử đạo
được trung thành với thập giá của Con Cha đến đổ máu đào. Nhờ lời các ngài
chuyển cầu, xin cho chúng con biết tỏa chiếu tình yêu Cha giữa anh chị em chúng
con để chúng con đáng được gọi và thực sự là con cái Cha." (Lời nguyện số
3)
Đang khi tưởng nhớ các vị tuẫn đạo Việt Nam, Giáo Hội cầu nguyện
cho mọi dân tộc nhận biết Thiên Chúa tuyệt đối là Cha thật duy nhất của mọi
người và là nguồn gốc mọi tình phụ tử trên trời dưới đất. Lời nguyện số 1 trên
đây vừa đầy ắp kỷ niệm về Đạo Hiếu, vừa vạch ra được một linh hạnh cho người
Việt và cả một trách nhiệm rất lớn với hai chiều kích: Phải sống thật tuyệt vời
cả về đạo hiếu trần gian lẫn đạo hiếu trên trời, để giúp cho cả đồng bào người
Việt lẫn các dân tộc trên thế giới nhận biết tình cha của Thiên Chúa. Ước gì
hạt ngọc quý báu ấy sớm được đem lại vào phụng vụ, ít ra là cho giờ Kinh Chiều
I.
Tới đây cũng xin nhắc đến một đóng góp khác rất đáng trân trọng đã
bị quên mất, cần được phục hồi. Nơi các Kinh nguyện Thánh Thể (Kinh tạ ơn)
trong bản dịch Sách Lễ Rôma 1992 có hai điểm khác hẳn bản dịch trước đó:
- Khi thưa với Ngôi Cha, mọi chữ "Domine" đều được chuyển
thành "Cha" thay vì dịch sát chữ là "Chúa".
- Ở lời nguyện cầu cho kẻ
chết của các Kinh nguyện Thánh Thể 1, 2 và 3 đều có thêm mệnh đề: "Đặc
biệt xin Cha nhớ đến các bậc Tổ tiên và thân bằng quyến thuộc chúng con đã lìa
cõi thế".
Đó là hai đóng góp của linh mục đoàn Giáo phận Kontum được Ủy Ban
Phụng Tự trực thuộc HĐGMVN lúc ấy tiếp nhận. Nay trong bản dịch (xxxxx) đóng
góp thứ hai vẫn còn được duy trì, còn đóng góp thứ nhất bị quên mất. Thiết
tưởng đây là một đóng góp hết sức ý nghĩa, có tác dụng lớn trong việc loan báo
Tin mừng và xây dựng lòng đạo cho Dân
Chúa.
Xin được trở lại việc áp dụng huấn thị Plane compertum est.
Lắm người, không những ngoài Công giáo cả không ít tín hữu Công
giáo hiểu quan điểm mới của Giáo hội Công giáo cách quá đơn giản, tưởng rằng
qua việc cho phép tái lập bàn thờ gia tiên, cúng giỗ và nhang đèn,... Giáo hội
cũng chấp nhận luôn cả những tiểu tiết của dị đoan mê tín. Đây là một điểm hết
sức quan trọng cần xác định ngay từ đầu để tránh ngộ nhận.
Quan điểm mới của Giáo hội Công giáo, được khẳng định vào năm
1964-1965, dựa trên bước tiến tích cực về phong hóa, "những tin tưởng sai
lạc kia cũng không còn phải là chuyện chung của quảng đại quần chúng", tuy
nhiên sang đầu thế kỷ 21, diễn biến thực tế lại rất đáng lo ngại, người tín hữu
Công giáo cần biết nhận định và chọn lựa sáng suốt.
Những năm 1930, cuộc vận động của các tác giả Tự Lực Văn Đoàn trên
các báo Phong Hóa, Ngày Nay cũng như qua các tiểu thuyết của họ, đã giúp thay
đổi được não trạng quần chúng, phá đổ được nhiều tệ đoan xã hội, cách riêng là
những mê tín về phong thủy, phương hướng, ngày giờ, đồng bóng. Tiếc thay, vài
chục năm trở lại đây, do chạy theo lợi nhuận du lịch, các nơi đã đua nhau phục
hồi các lễ hội dân gian cách thiếu chọn lọc, mở đường cho nạn mê tín lại lan
tràn cách tệ hại.
Mở Google, gõ "mê tín", ta gặp hằng ngàn bài lên tiếng về
một tệ nạn mới của xã hội: cầu cơ, xin keo, xin xăm, coi ngày giờ, xem hướng,
đốt vàng mã, ông địa, thần tài... Người ta dựng nên cả những văn phòng, những
trung tâm nghiên cứu khoa học về cõi âm, để hiện đại hóa và hợp pháp hóa việc
buôn thần bán thánh. Có cả những bậc trí thức không vững lập trường, hoặc vì
ham lợi, ham danh, đua đòi hoặc vì ham vui đã chạy theo những sự mê tín đáng
tiếc. Truyền thông đại chúng đã có nhiều đợt lên tiếng vạch trần những chuyện
vớ vẩn ấy. Những người nhờ một nhà ngoại cảm tìm mộ rồi kiểm tra chéo bằng một
nhà ngoại cảm khác đều gặp kết quả trớ trêu dở khóc dở cười. Những anh chị em
ngoài Kitô giáo giữ vững lương tri đều nhất quyết không tìm thông tin về quá
khứ từ bất cứ hình thức đồng cốt nào, vì họ thấy trước sẽ lâm vào tình trạng
khó xử: tin cũng không được mà chẳng tin cũng không được.
Do thiếu ánh sáng mặc khải, người ta không biết rằng kẻ thù của
loài người là ma quỷ luôn xúi giục mọi người mê theo của cải vật chất. Ma quỷ
đầy ghen tương, nó đã đánh mất hạnh phúc đời đời nên quyết không để cho con
người hưởng được hạnh phúc ấy. Mọi hoạt động của nó đều nhằm lôi kéo con người
lìa xa nguồn cội là Thiên Chúa và đánh mất hạnh phúc đích thật trong Ngài. Nó
quá rõ không gì có thể mê hoặc lòng người cho bằng lợi (x. Mt 6.19-21.25-34;
19,23-26) và danh (x. Lc 14,7-11; Ga 5,44). Bài học quanh ta sờ sờ trước mắt,
biết bao người vì chút tư lợi và hư danh mà bán rẻ lương tâm, quên mất quyền
lợi của quốc gia dân tộc, biết bao kẻ giàu lên một chút là cậy của khinh người,
coi thường cả trời đất, biết bao gia đình tan rã vì tiền bạc, biết bao tổ chức
tốt lành bỗng chốc một sáng một chiều lòng người ly tán chỉ vì tiền bạc của
cải...
Như thế, trong cái nhìn của người Công giáo, đàng sau những biểu
hiện xã hội còn có cả một thế lực vô hình là quỷ dữ lừa dối (x. Ga 8,44). Là
những thụ tạo vô hình, nó lừa gạt những kẻ nhẹ dạ dễ như bỡn. Nó mặc lốt thần
ánh sáng (x. 2Cr 11,14), lợi dụng đục nước thả câu, nó cung cấp những kết quả
"thần diệu" khiến người ta tin theo nườm nượp. Kinh nghiệm cho thấy,
không riêng lãnh vực này mà trong mọi lãnh vực, kẻ thù của loài người là ma quỷ
biến báo đủ cách, dùng đủ thứ mánh lới chỉ cốt để giành giật linh hồn mọi người
khỏi tình thương nhân hậu và đòi hỏi của Thiên Chúa Tạo Hóa là Cha Chung giàu
lòng thương xót. Chính nó đã từ chối tình thương Thiên Chúa và đánh mất hạnh
phúc đời đời cho nên ghen tị không muốn để con người được hưởng hạnh phúc làm
con cái Thiên Chúa. Mục đích cuối cùng của nó là lừa gạt để con người tự đánh
mất hạnh phúc đời đời.
Đây là điều hết sức quan trọng, can hệ đến hạnh phúc đời đời của
chính mình. Người tín hữu cần đề cao cảnh giác để khỏi bị cuốn vào những thực
hành đi ngược với đức tin chân chính và để khỏi làm cho người ngoài một lần nữa
hiểu lầm quan điểm của Giáo hội Chúa. Người Công giáo tôn trọng những chọn lựa
của các anh chị em ngoài Công giáo, nhưng tôn trọng không đồng nghĩa với tán
thành... Không nên có những phê bình kết án gay gắt nhưng cũng không dễ dãi hùa
theo. Cần khẳng định rằng không phải hễ cứ có một số người có học chạy theo là
mê tín trở thành chuyện đáng tin.
Người Công giáo cần nhớ lại Giáo hội Việt Nam đã phải trả giá đắt
như thế nào để giữ vững đức tin cho tín hữu, thà bị hiểu lầm rằng theo đạo là
bỏ ông bỏ bà còn hơn là để cho tín hữu rơi vào lầm lạc mê tín.
Cần nhớ rằng ma quỷ có bề dày kinh nghiệm bằng lịch sử loài người
và đang thực hiện một công cuộc xuyên lịch sử: đạp đổ lòng tin vào Thiên Chúa.
Để dạy người ta tin vơ thờ quấy thay vì tin thờ Thiên Chúa, nó tùy cơ ứng biến,
tận dụng mọi cách thế, mọi cơ hội và hoàn cảnh, chỉ cốt sao lung lạc được đức
tin người đời, dẫn dụ họ tin bất cứ cái gì cũng được, miễn là đừng tin vào
Thiên Chúa chân thật. Ở một thời mà đêm về thôn quê chìm trong tăm tối, nó hiện
hình quấy phá theo một kế hoạch có sẵn, gây sợ hãi để khiến người ta dần dần hình
thành những tin tưởng lệch lạc có hệ thống. Khi nông thôn được điện khí hóa, nó
nhảy vào phim ảnh, TV, video. Đến thời kỹ thuật số nó "phục vụ" trong
điện thoại di động và internet. Ở mọi thời, nó tìm mọi cách khiến người ta tham
lam, si mê, thù hận...
Sau bao nhiêu năm chiến tranh, thiên hạ có nhu cầu tìm mộ thân
nhân, nó mau mắn phục vụ bằng cách khoác áo hồn người chết, giả dạng tổ tiên
hiện về mách bảo, vv.. Nó xúi giục người ta phá thai rồi lại mượn danh oan hồn
những thai nhi bị sát hại để gây âu lo, tuyệt vọng.
Ma quỷ lộng giả thành chân, dùng thủ thuật pha trộn 50% điều sai
với 50% điều đúng, có khi 90% đúng chỉ cần 10% sai cũng đủ dần dần dẫn người ta
vào sai lạc.
Với những chạy theo chuyện gọi hồn người chết, nó cung cấp những
chi tiết gây tin tưởng: Giọng nói y hệt - lịch sự và thân thiện. Thế nhưng, đã
là quỷ thì chuyện nói giống giọng người này người nọ hoặc cung cấp những chi
tiết ngoạn mục về vị trí thi hài người đã chết còn dễ hơn trẻ con chơi game. Để
thu hút lòng tin của người lành, nó còn đóng vai những bậc tiền hiền hoặc danh
nhân lịch sử rất lịch sự, thân thiện và đầy nhân ái. Thậm chí, nó còn giả dạng
Cha Trời giáng cơ dạy bảo những điều có vẻ lành thánh khiến thiên hạ bị lừa.
Muốn dựng lại quá khứ, ta cần kiên nhẫn tìm tòi các chứng liệu bằng
văn bản, bi ký và các bút tích khác, cần đầu tư cho các bạn trẻ học chuyên sâu
về Hán Nôm và lịch sử, tuyệt đối không chạy theo những chuyện vu vơ nhảm nhí.
Người tín hữu Chúa thà chấp nhận vất vả và kiên trì để biết đúng sự thật hơn là
chạy theo những cách giải quyết dễ dãi để rơi vào những giả dối lầm lạc do ma
quỷ lừa gạt. Bởi vì, chỉ có sự thật mới đem lại tự do, bình an và hiệp nhất.
Lm TRĂNG THẬP TỰ VÕ TÁ
KHÁNH