Theo dõi loạt bài của
chúng tôi, hẳn nhiều độc giả muốn đọc nguyên văn những chỉ dẫn của Hội Đồng
Giám Mục (Miền
Ngày 20-10-1964, Tòa Thánh, qua Bộ Truyền giáo
đã chấp thuận đề nghị của Hàng Giám Mục Việt
Để hiểu rõ tinh thần Giáo Hội trong việc chấp
thuận này, và để có những chỉ thị hướng dẫn trong khi áp dụng, Hội đồng Giám
mục muốn nêu lên mấy điểm sau đây:
1) Giáo Hội Chúa Kitô bao giờ cũng tha thiết
thực hiện mệnh lệnh Đấng Sáng Lập, để hiện diện khắp nơi và tuyên giảng Phúc Âm
cho mọi người. Cố gắng đầu tiên của Giáo Hội là giúp sao cho con người được nên
hình ảnh đích thực của Thiên Chúa và được trung thực với sứ mệnh Kitô hữu của
mình, để đạt cứu cánh sau hết là hạnh phúc đời đời. Công trình đó được thực
hiện trong nội khảm của mỗi cá nhân. Nhưng nó có vang âm đến toàn diện cuộc đời
và trong mỗi khu vực sinh hoạt của con người (Đức Piô XII: Huấn dụ tại Cơ Mật
Viện, ngày 20-2-1946).
2) Mặt khác, từ nguyên thủy cho đến ngày nay,
Giáo Hội Công Giáo vẫn tuân theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Theo đó, Giáo Hội không
hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân
tộc. Âu cũng vì bản tính nhân loại, dù còn mang dấu vết sự sa ngã của tổ tông, song
vẫn giữ trong nội tâm một căn bản tự nhiên mà ánh sáng và ân sủng Thiên Chúa có
thể soi chiếu, dinh dưỡng và nâng lên tới một mức độ đức hạnh, một nếp sống
siêu nhiên đích thực. Cũng vì vậy mà Giáo Hội không bao giờ miệt thị, khinh chê
tư tưởng cũng như nghệ thuật hoặc văn hóa của người không Công giáo. Trái lại,
Giáo Hội đã từng góp phần thanh luyện hoặc bổ túc để đi đến chỗ hoàn hảo. Trải
qua các thế kỷ, Giáo Hội đã thánh hóa những phong tục cũng như những truyền
thống chân chính của các dân tộc. Giáo Hội cũng đã nhiều lần đem nghi lễ của
miền này xứ nọ sát nhập vào nền phụng vụ của mình, sau khi đã tu chỉnh cả tinh
thần và hình thức, để ghi nhớ mầu nhiệm hoặc để tôn kính các bậc thánh nhân hay
các vị tử đạo (Đức Piô XII: Thông điệp Evangeli praecones, 2-6-1951; Đức Gioan
XXIII trích dẫn tư tưởng này trong thông điệp Princeps Pastorum, 28-11-1959).
3) Đối với các tôn giáo khác, Giáo Hội Công
Giáo cũng chủ trương một lập trường rõ rệt. Dĩ nhiên Giáo Hội không thể tham dự
vào các nghi lễ của các tôn giáo khác, hoặc coi tôn giáo nào cũng như tôn giáo
nào, và lãnh đạm để mặc ai muốn hay không muốn tìm xem Thiên Chúa có mạc khải
một đạo không sai lầm, trong đó Thiên Chúa được nhận biết, kính mến và phụng
thờ. Tuy nhiên, Giáo Hội không từ chối công nhận một cách kính cẩn những giá
trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo khác (Đức Phaolô VI, thông điệp
Ecclesiam suam, 6-8-1964). Giáo Hội không phủ nhận điều gì vốn là chân lý và
thánh thiện của bất cứ tôn giáo nào. Giáo Hội luôn luôn rao truyền Đức Kitô là
“đường đi, là chân lý và là nguồn sống” và, trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm hòa
với muôn vật.
Tuy nhiên Giáo Hội thành tâm và lưu ý cứu xét
những hành động và sinh hoạt, những luật pháp và lý thuyết của các tôn giáo
khác tuy có sai biệt với những điểm Giáo Hội đề ra, song vẫn mang lại một tia
sáng nào đó của chính cái chân lý hằng soi sáng mọi người. Vì thế, Giáo Hội
khuyên giục con cái mình tuy vẫn phải giữ đức tin Công giáo tuyền vẹn, nhưng
phải làm thế nào để nắm giữ và phát triển những của cải thiêng liêng, luân lý
và những giá trị xã hội, văn hóa, gặp được trong các tôn giáo khác nhờ những
buổi hội thảo, sự học hỏi và sự cộng tác với các tín đồ của các tôn giáo này
(Công đồng Vatican II, khóa III: Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, ngày
20-11-1964)
Chính lập trường đó của Giáo Hội được đúc kết
trong tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng và trong đệ nhị Công đồng Vatican, đã
giải thích lý do của quyết định Tòa Thánh, khi cho áp dụng huấn thị Plane
compertum est tại Việt Nam ngày nay. Và cũng chiếu theo tinh thần đó, các Giám
mục hội nghị tại Đà Lạt trong những ngày 12, 14-06-1965 đã cho công bố thông
cáo này.
1) Nhiều hành vi cử chỉ xưa kia tại Việt Nam,
có tính cách tôn giáo, nhưng nay vì sự tiếp xúc với bên ngoài và vì tâm tình,
tập quán đã thay đổi nhiều, nên chỉ còn là những phương cách biểu lộ lòng hiếu
thảo tôn kính đối với tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ. Những cử chỉ, thái
độ, nghi lễ có tính cách thế tục, lịch sự và xã giao đó, Giáo Hội Công Giáo chẳng
những không ngăn cấm mà còn mong muốn và khuyến khích cho nó được diễn tả bằng
những cử chỉ riêng biệt của mỗi nước, mỗi xứ và tùy theo trường hợp.
Vì thế, những cử chỉ, thái độ và nghi lễ tự nó
hoặc do hoàn cảnh, có một ý nghĩa thế tục rõ ràng là để tỏ tinh thần ái quốc,
lòng hiếu thảo, tôn kính hoặc tưởng niệm tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ
(như treo ảnh, hình, dựng tượng, nghiêng mình bái kính, trưng hoa đèn,
tổ chức ngày kỵ, giỗ...) thì được thi hành và tham dự cách chủ động.
2) Trái lại, vì có nhiệm vụ bảo vệ đức tin Công
Giáo được tinh tuyền, Giáo Hội không thể chấp nhận cho người giáo hữu có những
hành vi cử chỉ, hoặc tự nó, hoặc do hoàn cảnh có tính cách tôn giáo trái với
giáo lý mình dạy.
Vì thế, các việc làm có tính cách tôn giáo
không phù hợp với giáo lý Công Giáo (như bất cứ lễ nghi nào biểu lộ lòng phục
tùng và sự lệ thuộc của mình đối với một thụ tạo nào như là đối với Thiên
Chúa), hay những việc dị đoan rõ rệt (như đốt vàng mã), hoặc cử hành ở những
nơi dành riêng cho việc tế tự... thì giáo hữu không được thi hành và tham dự.
Trong trường hợp bất đắc dĩ, chỉ được hiện diện một cách thụ động như đã ấn
định trong giáo luật, khoản 1258 (GL 1917).
3) Đối với những việc mà không rõ là thế tục
hay tôn giáo, thì phải dựa theo nguyên tắc này, là nếu những hành vi đó, theo
dư luận dân chúng địa phương không coi như sự tuyên xưng tín ngưỡng của một tôn
giáo (ngoài Kitô giáo), mà chỉ biểu lộ một tâm tình tự nhiên, thì được coi như
không trái với đức tin Công Giáo, nên được thi hành và tham dự. Trong trường
hợp chưa hết nghi nan, thì có thể hành động theo tiếng lương tâm lúc ấy: nếu
cần, thì phải giải thích chủ ý của mình một cách khéo léo, hợp cảnh, hợp thời.
Sự tham dự cũng chỉ được có tính cách thụ động.
Đó là những nguyên tắc chung, giáo hữu cần phải
dựa vào mà xét đoán theo lương tâm và hoàn cảnh. Trong trường hợp hồ nghi, mọi
người liên hệ không được theo ý riêng mình, mà sẽ phán đoán theo chỉ thị của
Tòa Thánh và bàn hỏi với các giáo sĩ thành thạo.
Yêu cầu quý cha phổ biến rộng rãi và giải thích
tường tận thông cáo này không những trong các nhà thờ mà cả mỗi khi có dịp,
không những cho anh em giáo hữu mà cả cho người ngoài Công Giáo. Các vị phụ
trách Công Giáo Tiến Hành cũng phải lấy thông cáo này làm đề tài học tập cho
các hội đoàn trong các buổi họp và các khóa huấn luyện.
Làm tại Đà Lạt, ngày 14
tháng 6 năm 1965
Sacerdos-Linh Mục
Nguyệt San, số 43, tháng 7-1965, trang 489-492
§1 Người tín hữu không
được phép tham dự cách chủ động bằng bất cứ cách nào, hoặc tham dự một phần
trong các nghi thức của người không Công giáo.
§2 Có thể chước chuẩn
cho người tín hữu hiện diện cách thụ động, hay chỉ có tính cách bề ngoài vì
trách nhiệm dân sự hoặc vì danh tiếng, bởi có lý do quan trọng, trường hợp nghi
ngờ đã được Giám mục xác nhận. Trong các lễ an táng người không Công giáo, các
đám cưới và những cuộc lễ long trọng tương tự, miễn là không có nguy hiểm làm
gương mù và sinh lợi.
Chúng tôi, các Giám mục chủ tọa khóa hội thảo
VII về Truyền Bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang ngày 12-14 tháng 11 năm 1974,
đồng chấp thuận cho phổ biến việc thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị
của Ủy Ban Giám mục về Truyền Bá Phúc Âm ngày 14.6.1965, về các lễ nghi tôn
kính Ông Bà Tổ Tiên, như sau:
“Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin
Mừng, hội nghị nhận định: Những cử chỉ thái độ, lễ nghi (sau này) có tính cách
thế tục lịch sự xã giao để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ
Tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động”
(Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 14.06.1965).
1. Bàn thờ gia tiên để kính nhớ Ông Bà Tổ Tiên
được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện
điều gì mê tín dị đoan, như hồn bạch.
2. Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ
gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, là những cử chỉ thái độ
hiếu thảo tôn kính, được phép làm.
3. Ngày giỗ cũng là ngày “kỵ nhật” được “cúng
giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương miễn là loại bỏ những gì là dị
đoan mê tín, như đốt vàng mã, và giảm thiểu cùng canh cải những lễ vật biểu
dương đúng ý nghĩa thành kính biết ơn Ông Bà, như dâng hoa trái, hương đèn.
4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia
Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu
kính trình diện với Ông Bà.
5. Trong tang lễ được vái lạy trước thi hài
người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính
người đã khuất cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương nghiêng mình trước thi
hài người quá cố.
6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng
quen gọi là phúc thần tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà
theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không
phải là mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.
Trong trường hợp thi hành các việc trên đây sợ
có sự hiểu lầm nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu khích lệ, thông
cảm… Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ Tiên và
các vị anh hùng liệt sĩ theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo
của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín
ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền phải “thảo kính cha mẹ”, đó là giới răn sau
việc thờ phượng Thiên Chúa.
Tại Nha Trang, ngày 14.11.1974
Ký tên:
- Philiphê Nguyễn Kim Điền, TGM Huế
- Giuse Trần Văn Thiện, GM Mỹ Tho
- Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, GM Vĩnh Long
- Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang, GM Cần Thơ
- Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, GM Nha Trang
- Phêrô Nguyễn Huy Mai, GM Ban Mê Thuột
- Phaolô Huỳnh Đông Các, GM Qui Nhơn
Dấn thân tìm cách đem Tin mừng của Chúa đến cho người đồng tộc, tôi
được biết một đại biểu nọ được Ban Chấp hành Dòng họ Tỉnh giao trách nhiệm
chuẩn bị Đại hội Dòng họ tại địa bàn huyện. Ông vận động rất nhiệt tình nhưng
lắm người nghi ngại không tham gia. Ông dẫn chứng rằng đây là một sinh hoạt
đang được đồng tộc cả nước quan tâm, cả những người Công giáo cũng đang nhập
cuộc. Một người phản bác:
- Coi chừng lại bị mấy anh Công giáo “phỉnh” theo đạo.
Câu nói đặc thù rất phổ biến và khá tiêu biểu. Hình như anh chị em
người lương dị ứng, xem việc tin theo Chúa như một việc tệ hại cần đề phòng!
Sự kiện ấy dễ hiểu. Thử hình dung xem, một kẻ ác ý nào đó dùng tin
nhắn điện thoại phát đi liên tục những điều vu khống bịa đặt về bạn một cách có
hệ thống và bạn không thể thanh minh biện hộ gì cả. Mà dù muốn thanh minh biện
hộ cũng chẳng biết những điều bôi nhọ ấy đã phát tán tới tận những ai. Có thể
càng thanh minh, chuyện càng gây chú ý ầm ĩ, bạn đành thinh lặng. Chỉ sau một tháng
thôi, cả thôn cả xã xầm xì đủ điều về bạn. Bạn chẳng bị thân bại danh liệt thì
cũng thấy mặc cảm đủ điều. Đàng này những chuyện bịa đặt bôi nhọ Đạo Chúa kéo
dài từ cuối thế kỷ XIX đến nay với đủ thứ thêu dệt truyền miệng thật hấp dẫn,
thậm chí còn diễn thành tiểu thuyết và phim ảnh. Dân chúng chỉ được nghe mãi
một chiều, “mưa dầm thấm lâu”, họ sẽ nghĩ gì về Đạo Chúa? Tôi đề nghị tổ chức
ngày truyền thống từng dòng họ và mời anh chị em lương dân tới chính là để họ có
thể thấy tận mắt mọi sự ngược hẳn điều họ đã hiểu lầm từ tấm bé.
Không kể những sách báo phim ảnh bài xích Kitô giáo đã gây ấn tượng
lệch lạc sâu đậm trong tâm trí người dân, việc truyền giáo ào ạt và hời hợt
cuối thập niên 1950 đầu 1960 có thể đã khiến quần chúng như bị chích vác-xanh “phòng
dịch”, đẩy lùi sự xâm nhập của hạt men Kitô giáo. Cả việc dạy giáo lý dự tòng
vội vã chiếu lệ nhiều nơi hiện nay cũng đang gây nên tác dụng hiểu lầm ấy.
Rất nhiều người tẩy chay, từ chối không cầm đến sách vở và băng đĩa
Công giáo. Ý thức tình trạng ấy, tôi không phân phát sách vở Công giáo hàng
loạt. Chỉ một số người đã có tình thân hoặc cảm tình rồi, tôi mới tặng sách.
Ngoài ra, chỉ những ai xin, tôi mới tặng. Nếu thấy họ có vẻ muốn đọc, tôi gợi ý
để họ xin rồi mới tặng. Chính Chúa Giêsu đã ân cần dặn môn sinh phải dè dặt,
đừng tạo cớ cho người ta giày đạp “của thánh” và “ngọc quý” (x. Mt 7,6).
Tuy nhiên, tôi lại cũng có một ghi nhận khác. Đang khi từ chối sách
vở và băng đĩa Công giáo thì người ta lại trân trọng tấm lòng. Có thể lúc đầu
họ ngập ngừng, nhưng sau khi đã trắc nghiệm và thấy rõ sự chân thành của ta, họ
rất quý mến. Người ta quý mến vì thấy tôi không chăm chăm nói chuyện Đạo, chỉ
nói chuyện họ hàng. Tuy nhiên, khi được mời thắp hương thì tôi cho họ thấy lòng
tin Kitô giáo của tôi. Tôi ghi dấu thánh giá chậm và rõ, rồi cầu nguyện lớn
tiếng. Tôi nguyện kinh Lạy Cha và dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha chung của
mọi người, xin Ngài ban ơn lành cho bà con đồng tộc tại địa phương. Sau đó, tôi
dâng lời cầu nguyện với các bậc Tổ tiên đồng tộc tại từ đường, xin các vị bầu
cử trước nhan Thiên Chúa Tạo Hóa cho con cháu được mọi điều may lành.
Ở một số trường hợp, sau khi tôi cầu nguyện như thế, người ta đã
nêu những câu hỏi và tôi trả lời. Đúng là tôi không tuyên truyền về đạo nhưng chỉ
trả lời thắc mắc của họ.
Cũng có một cơ hội thường gặp khác mà tôi có thể dựa theo để nói
lên quan điểm Kitô giáo cách hồn nhiên. Đó là khi người ta than phiền về tình
cảnh suy đồi đạo lý, với những bản tin cụ thể, lặp lại từ báo, từ đài… Tôi chia
sẻ với họ rằng đây chính là lý do khiến tôi dấn thân cho trào lưu nối kết dòng
họ. Là linh mục, tôi xác tín rằng cần phải kết hợp mọi lời kêu gọi thành một
bản hợp ca. Có nhiều cơ quan đoàn thể lên tiếng, các gia tộc lên tiếng và chức
sắc các tôn giáo lên tiếng. Dù tất cả đều lên tiếng cùng một lúc nhưng không có
sự đồng thuận và hỗ trợ lẫn nhau thì sẽ không tạo được kết quả. Chẳng khác nào
nhiều người đơn ca cùng một lúc, mà mỗi người hát một bài riêng hay một kiểu
riêng, thì tất cả chỉ tạo nên một tạp âm gây khó chịu cho người nghe. Có thể số
người hát ít hơn nhưng phối hợp hài hòa với nhau thì sẽ tạo được âm hưởng tốt, thông
điệp sẽ mạnh mẽ hơn.
Để phát triển xã hội,
Việt
Những lý do thời cuộc khiến nhiều người ngại nói đến hai chữ truyền
giáo, nhưng theo tôi, đã đến lúc cần mạnh dạn nêu rõ sự cần thiết của yếu tố
tôn giáo trong việc giáo dục lương tâm cho người dân, cách riêng là các bạn
trẻ.
Với những tâm tư ấy, tôi viết loạt bài chia sẻ này không riêng cho
các linh mục và anh chị em đồng đạo nhưng chung cho hết mọi người Việt
Có thể bạn, người đang đọc những bài này, là một người ngoài Kitô giáo.
Nếu thế, tôi xin được gửi đến bạn một lời chào chúc đặc biệt. Thân ái cầu chúc
bạn sớm nhận ra tình Cha của Thiên Chúa. Tôi không giấu giếm rằng tôi đang khao
khát và nôn nóng muốn chia sẻ với bạn niềm hạnh phúc chúng tôi đang có, niềm
hạnh phúc được làm con Thiên Chúa Tạo Hóa Tối Cao, Chí Thánh, Nhân Hiền và Hằng
Sống.
Tôi đang chia sẻ với bạn một Tin mừng, một niềm vui. Nếu bạn nghĩ
rằng tôi đang làm công tác truyền giáo thì cũng chẳng sao. Bởi lẽ truyền bá một
tôn giáo tốt lành thì chẳng có gì xấu xa. Lắm người làm như thể khi chúng tôi
bảo nhau truyền giáo là chúng tôi đang âm mưu làm một chuyện gì đen tối, bậy
bạ, chẳng khác nào đang lén lút rủ nhau phạm những tội ác gì quái gở! Ô không,
bạn thấy đó, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ với mọi người một thông tin quan trọng
và hữu ích: Đó là, tất cả chúng ta đều có chung một người Cha là Thiên Chúa Tạo
Hóa, chẳng phải vì chúng ta xứng đáng gì để được làm con Ngài, nhưng chính Ngài
đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã tặng ban người Con duy nhất của Ngài là Chúa
Giêsu Kitô cho chúng ta, đến làm Anh Cả của nhân loại, cho tất cả chúng ta
thành em của Người Anh Cả ấy và thành con cái của Cha trên trời.
Có thể những Kitô hữu bạn gặp là chúng tôi đây còn có rất nhiều
khuyết điểm, nhiều điều đáng trách, không xứng danh là con cái Thiên Chúa. Dù
vậy, chúng tôi vẫn luôn cố gắng đổi mới chính mình và, trong nỗ lực ấy, chúng
tôi chân thành chia sẻ với bạn về Đấng là Cha chung của chúng ta.
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để những ai
tin vào Ngài thì sẽ nhờ Ngài mà được trở nên con cái Thiên Chúa. Những ai nghĩ
rằng đó là chuyện đùa, sẽ không bao giờ biết được sự thật. Còn những ai nhận
biết được sự thật này, sẽ vô cùng hạnh phúc. Có những người cảm thấy sung sướng
được làm con một thủ trưởng, một thủ tướng, một vị vua... Nỗi sung sướng ấy làm
sao sánh được với hạnh phúc của bạn khi nhận ra mình là con của Thiên Chúa...
Nếu tới đây bạn vẫn chưa nhận ra điều ấy thì bạn nên dành vài phút thật thinh
lặng, gạt bỏ hết mọi suy nghĩ và âu lo, rồi khẽ thưa với Thiên Chúa: “Lạy Thiên
Chúa Tạo Hóa, nếu quả thật Ngài là Cha của con, xin hãy tỏ cho con biết điều
đó”. Mỗi tối, hãy dành dăm phút thinh lặng để ngỏ lời như thế, rồi bạn sẽ
thấy... Đừng sợ mất dăm phút để đổi lấy một cuộc đời, hơn nữa, đổi lấy cả một
cuộc sống đời đời…
Khi đi tìm những cội nguồn nhân loại, người ta quý từng trang viết
chắp vá, từng chi tiết nhặt nhạnh đây kia, từng dấu vết mờ nhạt của người xưa.
Quyển sách nói về cội nguồn chung của nhân loại, là bộ Kinh Thánh, hình thành
từ thế kỷ XIII trước Công nguyên đến cuối thế kỷ I của Công nguyên, cho đến nay
vẫn còn nguyên vẹn nội dung thuở ban đầu. Bạn hãy thử đọc một lần để nhận ra sự
thật kỳ diệu về cả nhân loại và về chính mình... Tại sao không?
Nhiều trường hợp con cháu không biết tên tuổi, cuộc đời và sự
nghiệp vị thủy tổ có ghi trong gia phả, hoặc vì do kiêng cữ hay là do tôn trọng
không dám nhắc đến, hoặc vì lười lĩnh không bao giờ chịu mở gia phả. Bộ gia phả
của gia tộc là thế mà bộ sách viết về Thiên Chúa cũng thế. Nếu ta không bao giờ
đọc đến thì cũng chẳng thể nào biết được Thiên Chúa là ai và Ngài đã làm gì cho
ta.
Toàn bộ Kinh Thánh được tóm tắt nơi câu chuyện Người Cha nhân hậu ở
sách Tin Mừng theo Thánh Luca 15,11-32: “Một người kia có hai con trai.
Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được
hưởng.' Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ
thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí
tài sản của mình... Thế nhưng rồi giữa đau thương buồn tủi, anh ta nhận ra lỗi
của mình và đã quay về với Cha.”
Một khi bạn đã nhận ra mình là con của Trời Cao, bạn hãy thưa
chuyện với Cha theo lời kinh mà chính Chúa Giêsu Kitô là Con Duy Nhất đồng bản
tính với Thiên Chúa Cha đã dạy:
“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng,
nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng
con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước
cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.”
Được làm con cái Trời Cao là ước mơ sâu thẳm tận đáy lòng mọi người
và là điều đã được Con Một của Trời Cao là Chúa Cứu Thế Giêsu đến loan báo và
thực hiện cho nhân loại. Thế nhưng có người không dám tin vì vinh dự ấy đòi hỏi
họ phải sống một cuộc sống mới. Cũng có người tin nửa vời, chỉ mang danh nghĩa
con cái Thiên Chúa mà không thực sự sống như thế. Nhận biết tình Cha của Thiên
Chúa là một ơn lớn của Chúa ban, do đó, ta cần tha thiết xin Chúa ban cho ta ơn
ấy.
Được biết Thiên Chúa là Cha, bạn sẽ sung sướng nhận ra rằng người
Cha ấy ôm ấp trong lòng Ngài cả bản thân bạn và Tổ tiên bạn. Bạn trả lời cho
tôi xem, mỗi khi nghĩ đến Ông Bà Tổ Tiên, bạn hình dung thấy họ ở đâu? Ở với
Nguồn Cội nào? Nơi họ ở tối tăm hay rực sáng? Nếu rực sáng thì ánh sáng ấy do
đâu?
Phần tôi, nhờ được Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, tôi biết chắc
chắn không sợ sai lầm chút nào, tôi biết rất rõ rằng: “Họ
sẽ được nhìn thấy tôn nhan Ngài, và thánh danh Ngài ghi trên trán họ. Sẽ
không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh
sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển
trị đến muôn thuở muôn đời” (Khải huyền 22,4-5). Mỗi lần gặp thử thách trên
đường phục vụ, tôi mau chóng tìm lại được bình an khi nhớ đến Chúa và tất cả
những người đã đi trước tôi đang ở trong Chúa và đang đợi chờ tôi nơi nhà đời
đời của Thiên Chúa. Tôi nghĩ đến chị Hai tôi, các em dâu tôi, Cha tôi, các Chú
Thím, Cậu Mợ, Cô Dì, những Linh mục đàn anh và các Bạn hữu... đã hoàn tất cuộc
đời và đang được no thỏa, mỗi người một vẻ, trong nhà Cha Chung trên trời. Tôi
thấy tràn ngập mến thương và mong sớm tới ngày đoàn tụ với tất cả. Trong tôi
như có một nỗi giằng co êm dịu, một đàng mong sớm về Nhà Cha là quê hương đích
thật, một đàng lại khao khát được mãi mãi hiến dâng cuộc sống để đem biết bao
anh chị em chưa nhận biết Thiên Chúa về với Tình Cha muôn thuở.
Mời bạn tiếp tục đọc các bài chia sẻ của
tôi. Không riêng tôi, nhiều người đang nghĩ đến bạn và đang nguyện xin Thiên
Chúa ban muôn ơn lành cho bạn và gia đình. Cầu chúc bạn ngày càng nhận ra mình
là con của Trời Cao và sống thật xứng với danh nghĩa ấy.
Xin được trở lại với các độc giả Công giáo.
Chúa dạy hãy đi khắp thế giới loan báo Tin mừng. Do đó, việc loan
Tin mừng không khép kín lại với một nhóm người cùng Dòng họ, nhưng nhóm người
ấy chỉ đóng vai một nhúm men giúp cả khối bột dậy men. Gạch nối để Tin mừng lan
từ họ này sang họ khác là những người con dâu và con rể, những người có quan hệ
thông gia.
Các gia đình cũng như cộng đoàn giáo xứ cần quan tâm đào tạo cho
con em mình có một đức tin đầy bản lãnh, thấm đều mọi mặt cuộc sống, để khi họ
lên đường về nhà chồng hoặc nhà vợ, họ thực sự là những chứng nhân của Hội
Thánh Chúa. Nhiều cha mẹ người lương thích cho con cái lập gia đình với người
Công giáo bởi họ thấy đa số người Công giáo chung thủy trong hôn nhân. Thế
nhưng đã có một số trường hợp rất đáng tiếc, chính bên người Công giáo gốc
thiếu thiện chí, khiến hôn nhân tan vỡ. Những trường hợp đau lòng ấy đòi hỏi chúng
ta phải nghiêm túc kiểm điểm lại việc giáo dục đào tạo của chúng ta. Cần giúp
bạn trẻ đi sâu vào cầu nguyện để có được đức tin, đức cậy và đức mến nồng nàn
mãnh liệt, nhờ đó, dù phải qua đau thương thử thách tới đâu vẫn quyết một lòng trung
thành với Luật Chúa dạy và làm chứng cho Chúa.
Thực tế của quá khứ cho thấy rất đông những người theo Đạo để lập
gia đình có một đức tin không sâu và không bền, khiến nhiều phụ huynh Công giáo
ái ngại khi thấy con em mình thương người ngoài Công giáo. Tuy nhiên không
thiếu những trường hợp những người trở lại trong dịp kết hôn lại có một đời
sống đức tin còn mẫu mực hơn nhiều người Công giáo đạo dòng. Sự khác biệt thật
ra là do cách đào tạo và chăm sóc. Thành kiến xem thường ơn đức tin của người
trở lại nhân dịp kết hôn, có thể khiến người ta dạy giáo lý cách sơ sài vội vã
cho xong chuyện. Nhiều bậc phụ huynh cố ngăn cản tình duyên của con cái mình,
cho tới lúc không ngăn cản được nữa, nhượng bộ cho con cái thì thời giờ học
giáo lý không còn nhiều. Thêm vào đó, chuyện tin ngày giờ tốt xấu, kiêng kị
tuổi tác nhiều khi cũng khiến người ta tiến hành hôn nhân vội vã, không kịp học
giáo lý cho thật sâu.
Chúng ta cần nhìn vấn đề dưới ánh sáng đức tin. Nếu một sợi tóc trên đầu ta rơi xuống không ngoài
ý Chúa thì sự kiện ánh sáng Tin mừng đến với rất đông bạn trẻ qua con đường hôn
nhân không phải là chuyện ngẫu nhiên. Đó là những nén bạc quý báu Chúa đang
trao cho Giáo hội ở thời đại này, mọi thành phần Dân Chúa đều cần biết trân
trọng góp phần sinh lợi, không để một nén bạc nào bị vùi lấp oan uổng.
Các bậc làm cha mẹ cần biết tin cậy vào tình thương Thiên Chúa,
trân trọng ơn đức tin Chúa đang ban cho người con dâu hay con rể của mình và
tôn trọng sự chọn lựa của con cái, để ứng xử sát thực tế hơn. Một khi thấy con
cái đã quyết, cha mẹ cần sớm chấp thuận và hướng dẫn cho việc học giáo lý được
tươm tất và đức tin kịp thấm sâu và nẩy nở.
Các vị dạy giáo lý cần vững tin vào ơn Chúa, dù thời gian rất ngắn
cũng đừng vội vã. Hãy bước những bước đầu thật chính xác và chắc chắn. Hãy mở
đầu bằng việc giúp học viên ngỏ lời với Thiên Chúa là Cha, và cứ như thế cho
tới lúc họ thực sự cảm nghiệm rằng Cha đang ở trong họ, đang ủ ấp họ và đang
dẫn dắt họ trên mọi bước đường. Đức tin đến từ sự gặp gỡ Thiên Chúa cách thân
tình và đầy yêu mến, chứ không đến do sự nhồi nhét một mớ hiểu biết. Những hiểu
biết giáo lý rất quan trọng và cần thiết, nhưng ta đừng vội. Một khi học viên
bắt đầu nếm cảm được Chúa, chính họ sẽ kiếm tìm và chỉ một khám phá nhỏ họ nhận
được dưới ánh sáng của Chúa đủ khiến họ miệt mài trên đường theo Chúa. Các vị
hãy sớm trao Kinh Thánh vào tay học viên và giúp họ khám phá từng chút một bằng
sự suy nghĩ, cầu nguyện và đổi mới đời sống theo Lời Chúa. Cũng hãy mạnh dạn
khuyến khích học viên chia sẻ ơn họ đang nhận được với đồng bạn trong lớp giáo
lý và cả với những người chưa tin. Một đức tin được chia sẻ sẽ tựa như lửa,
cháy lan và cháy bùng lên.
Một thiếu sót lớn của cộng đồng Công giáo Việt
Tệ hơn nữa, khi các bạn trẻ muốn mua một quyển sách thích hợp để
tặng cho bạn trai hoặc bạn gái của họ, thì không biết tìm ở đâu. Giáo hội Phật
giáo có một tổ in ấn và phát hành thuộc thành hội TPHCM và từ đó sách vở Phật
giáo lan tỏa đến mọi miền đất nước. Giáo hội Cao Đài cũng có một hệ thống phát
hành tương tự. Phải chi Giáo hội Công giáo Việt Nam có một cơ sở tổng phát
hành, rồi mỗi Giáo hạt có một bộ phận cung ứng sách cho các giáo xứ trong Hạt,
các bạn trẻ sẽ dễ dàng trao tặng cho bạn bè của họ những băng đĩa và sách vở
giới thiệu Tin mừng với hình thức thích hợp với tuổi trẻ. Họ có thể thành tông
đồ cho những người bạn chưa tin, rồi những người bạn này khi đã được ơn đức
tin, lại thành chứng nhân giữa gia đình và gia tộc của mình. Đây là trách nhiệm
của các hội doanh trí tại các giáo phận. Điều Dân Chúa đang mong chờ nơi các
hội doanh trí có lẽ không chỉ là đóng góp xây thêm nhà thờ nhưng là sự suy tư,
động não và tích cực góp phần thiết thực để đào tạo cho Giáo hội những chứng
nhân trẻ giàu tâm huyết và khả năng, mà trước mắt là cung ứng dồi dào thức ăn
tinh thần cho họ. Nếu quý vị băn khoăn tìm một dự án tông đồ mang tính trí
thức, tôi nghĩ dự án ưu tiên nhất cần được chọn là xây dựng cho Giáo phận của
quý vị một hệ thống phát hành sách.
Tuy nhiên trách nhiệm lớn nhất trong việc đào tạo người chứng trẻ
thuộc về các mục tử. Khi một cha sở giành lấy cho mình việc chăm sóc những tín
hữu mới, chắc hẳn ngài sẽ có hàng ngàn sáng kiến. Năm 1990 khi được gặp Đức Cha
Phaolô Maria Phạm Đình Tụng tại Bắc Ninh, rồi mấy năm sau được thăm ngài tại
Tòa Tổng giám mục Hà Nội, tôi rất cảm kích vì chính ngài đích thân lo cho các
dự tòng trí thức. Tôi cũng gặp được một bản sao y hệt nơi người kế vị ngài là
Đức Cha Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến. Cả hai vị đều là bản sao của nhóm 12
Giám mục thuở ban đầu, và hơn nữa, bản sao của chính Chúa Kitô, Đấng đã thức
thâu đêm để trao đổi với một người trí thức là Nicôđêmô. Rồi cả khi đã mỏi mệt
vì đường xa, ngồi bệt bên bờ giếng, Ngài không ngại dành bận tâm cho một phụ nữ
đến lấy nước ở đó. Điều an ủi là cả hai đều đã trở thành những chứng nhân cho
Ngài…
Tiếp tục đề tài đào tạo những người chứng trẻ trên đường loan Tin
mừng cho Dòng họ, tôi xin lưu ý quý giảng viên giáo lý thêm một chút về việc
dùng sách giáo lý, để học viên thấy rõ mình đang được đón nhận một Tin mừng
tươi mới và diễm phúc, thay vì xem việc học giáo lý như một gánh nặng bất đắc
dĩ.
Ngày nay khoa sư phạm giáo lý dự tòng đã đúc kết được những lược đồ
khác nhau cho tiến trình dạy/học giáo lý dự tòng: lược đồ kinh Tin kính, lược
đồ Lịch sử cứu rỗi, lược đồ Phụng vụ, lược đồ Tin mừng. Đó là những kinh nghiệm
thuận lợi cho việc đào tạo đức tin. Đang khi ấy, các bản hỏi đáp, cũng gọi là
sách bổn (sách phần, sách thiên) hay sách giáo lý xưa nay thường chia nội dung
giáo lý thành bốn phần: tín lý, luân lý, bí tích và cầu nguyện. “Bản hỏi thưa
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo” do Ủy ban Giáo lý Đức Tin thực hiện năm 2013 cũng
thế. Cấu trúc ấy dễ khiến người ta hiểu lầm rằng dạy/học giáo lý cũng giống như
dạy/học những kiến thức. Việc chia thành bốn phần rất thuận lợi để dùng sau khi
học xong giáo lý, để ghi nhớ những điều đã học theo một hệ thống có thứ tự lớp
lang, nhưng nó không được sắp xếp theo những bước phát sinh và nẩy nở của đức
tin. Muốn giúp đức tin nẩy nở và lớn lên cách thuận tự nhiên, nên trình bày
theo những giáo trình biên soạn cho các dự tòng, không nên dạy tuần tự từng câu
theo sách hỏi đáp. Nói cách khác, nên trình bày theo từng bài trong sách dự
tòng rồi cuối bài cho ghi nhớ bằng các câu tương ứng trong sách giáo lý hỏi
đáp.
Bốn sách Tin mừng là bốn quyển giáo lý đầu tiên của Hội Thánh cho
thấy rõ việc dạy giáo lý không phải là truyền đạt kiến thức nhưng phải là đào
tạo cho người tín hữu mới có được một đức tin sâu xa.
Với bối cảnh văn hóa nặng tính Đạo Hiếu tại Việt Nam, thiết tưởng
lược đồ của sách Tin mừng Luca, cũng có thể gọi là lược đồ Kinh Lạy Cha, dễ
giúp người tín hữu mới tiếp cận và đào sâu giáo lý Đạo Chúa cách hồn nhiên, và
sau đó dễ chia sẻ lại với anh chị em và bà con trong dòng họ. Thật vậy, Tin
mừng Luca khởi đầu với khung cảnh gia đình và gia tộc (x. Lc
1,5.36.39-45.57-66), với Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Tối Cao (x. Lc 1,35),
Đấng đến để lo việc của Chúa Cha và ở lại trong nhà Cha (x. Lc 2,49), Đấng
thuộc về đại gia đình nhân loại, gia phả Ngài phăn ngược lên đến tận cội nguồn
đầu tiên (x. Lc 3,23-38), Ngài luôn sống đẹp lòng Cha, Ngài nêu rõ bước tiến từ
quan hệ huyết thống đến quan hệ Nước Trời (x. Lc 8,19-21; 9,57-61; 12,51-53), Ngài dạy ta cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha
(x. Lc 11,1-4), dạy ta tin tưởng vào
tình Cha quan phòng của Thiên Chúa (x. Lc 12,22-32). Nổi bật nhất là câu chuyện
về tình Cha (x. Lc 15,11-32) và tâm tình của Chúa Giêsu trên thập giá phó thác
linh hồn trong tay Chúa Cha (x. Lc 23,46).
Dạy giáo lý theo Kinh Lạy Cha có nghĩa là mời gọi học viên ngỏ lời
với Thiên Chúa là Cha ngay từ khi mới tiếp nhận những thông tin đầu tiên về
Ngài, như con nhỏ thưa chuyện cùng Cha mình, với hết tình con thảo. Phần tín lý
là câu chuyện tình thương của Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô, dành cho
chúng ta. Câu chuyện này được kể chủ yếu với Tin mừng theo Thánh Luca và bổ
sung bằng các sách khác: Chúa Cha mặc khải cho những người bé mọn (Lc 10,21), Chúa
Cha và Chúa Con (Lc 10, 22), Tình Cha quan phòng (Lc 12,22-32), giàu lòng
thương xót và tha thứ (Lc 15,12-32). Ngài là Cha Đức Giêsu Kitô (Lc 21,41-44),
đã trao Vương quốc cho Con mình (Lc 22,28-30), Đấng luôn làm theo ý Cha (Lc
22,41-44), phó thác mọi sự trong tay Cha (Lc 23,46) và là Đấng đã làm cho Đức
Giêsu từ cõi chết sống lại (Lc 24,46) và ban Thánh Thần cho môn đệ (Lc 24,48).
Chúa Giêsu Kitô đã chết và sống lại để quy tụ Gia đình con cái Thiên Chúa là
Hội Thánh.
Đời sống luân lý tập trung vào nghĩa vụ của người con Thiên Chúa,
với điều răn lớn nhất là mến Chúa yêu người (Lc 10,25-28), và “hãy có lòng nhân
từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 7,36). Một khi biết được có Đấng Tuyệt
Đối đang âu yếm dõi nhìn ta mọi nơi mọi lúc, thì dù không được ai ở đời này
khen thưởng hay nhìn nhận, ta vẫn luôn sống xứng đáng là con cái của Ngài. Với
sự quảng đại ấy, dần dần người ta sẽ được ơn nhận biết rằng "vị Thiên Chúa
ấy đã yêu thế gian đến nỗi đã ban tặng Con Một Ngài để tất cả những ai tin vào
Người Con ấy thì không bị hư mất nhưng được sống đời đời" (Tin mừng theo
Thánh Gioan 3,16). Chính Người Con ấy đã đến trần gian để dạy ta biết làm con
cái trong gia đình trần thế và làm con của Trời Cao. Từ chỗ là Con Thiên Chúa
Hằng Sống, Ngài đã trở nên "Con của người", "Con của nhân
loại" và cũng là người con hiếu thảo trong một gia đình (x. Luca 2,51) để
ban cho nhân loại Tinh Thần của ơn nghĩa tử, tức là Thánh Thần của Thiên Chúa,
Đấng dạy cho mỗi người biết sống như con thảo của Cha trên trời. Bốn biển chỉ
có thể là anh em một nhà khi cùng nhìn nhận một Người Cha duy nhất, quy tụ
quanh một Người Con duy nhất đồng bản tính với Thiên Chúa Cha, là Đức Giêsu
Kitô, được Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại, hôm
qua cũng như hôm nay và như vậy mãi đến muôn đời (x. Thư Hípri 13,8).
Các bí tích là những nhịp sống của người con Thiên Chúa, từ khi
được tái sinh bởi nước và Thánh Thần (Lc 3,16) cho tới ngày trở về với Thiên
Chúa.
Trong chương trình Giáo lý Dự tòng, sau khi nói về mạc khải, nên
trình bày ngay bài học về Đạo Hiếu và việc thờ cúng Ông Bà theo quan điểm Công
giáo, để hóa giải thắc mắc về điểm này ngay từ đầu, trước khi đi vào toàn bộ
mạc khải.